ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÁO CÁO MƠN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI I
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI – QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC
NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
Nhóm: 1
GVHD: NGUYỄN HỮU KỶ TỴ
STT
HỌ VÀ TÊN
MSSV
1
Võ Nhật Linh
1652347
2
Nguyễn Ngọc Châu
1652071
3
Trần Tiến Anh
1752083
4
Lư Bát Thành
1752496
5
Nguyễn Quang Trung
1652642
Thứ Tư, 02 Tháng Chín 2020
0
MỤC LỤC
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ......................................................................................................... 2
I.
MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU .................................................................................................. 2
II.
1.
Mục đích của đề tài ............................................................................................................ 2
2.
Yêu cầu .............................................................................................................................. 2
3.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................... 3
BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX .......... 3
I.
1.
Bối cảnh thế giới ................................................................................................................ 3
2.
Bối cảnh trong nước ........................................................................................................... 5
II.
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ................................................................................................. 8
1.
Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến ............................................................ 8
2.
Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản .................................................................... 9
3.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. ...... 11
4.
Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản.................................................................. 11
5.
4.1.
Giai đoạn tự phát (trước năm 1925) ......................................................................... 11
4.2.
Giai đoạn tự giác (sau năm 1925) ............................................................................. 13
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. ..................................................... 17
5.1.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên .......................... 17
5.2. Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định các giai đoạn, đối tượng và nhiệm vụ của
cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam ............................................................................ 19
5.3.
Sách lược vắn tắt của Đảng” đề ra đường lối tập hợp và lơi kéo quần chúng .......... 19
5.4. “Chương trình tóm tắt của Đảng” nêu những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của
Đảng trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng ............................................................. 20
5.5.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam ................................... 20
5.6. Ý nghĩa lịch sử - sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng ....................................................................................................................... 22
PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................................... 26
1
PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I.
Ngay từ khi ra đời Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con đường phát triển của
cách mạng Việt Nam, là con đường XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn có ý
nghĩa rất quan trọng, từ việc đưa ra quan niệm, phương châm, phương pháp, đến việc chuẩn bị
những điều kiện để tiến lên CNXH...Vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Người, qua hơn 30
năm đổi mới, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ở
Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Hiện nay, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế đang đòi
hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiện thực hóa con đường XHCN mà Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy để có thể hiểu được và vận dụng tốt đường lối của Đảng ta cần
biết rõ nguồn gốc ra đời của Đảng và quá trình hình thành thay đổi đề có được Đảng như ngày
hơm nay.
MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
II.
1. Mục đích của đề tài
Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng là một trong những báo cáo khoa học nhỏ, qua đó
nhằm giúp sinh viên có hiểu biết sâu sắc hơn về lịch sử cách mạng Việt Nam, những chủ
trương, chính sách lớn của Đảng và của nhà nước đã lựa chọn trên các lịnh vực. Bên cạnh đó,
tiểu luận cịn giúp bồi dưỡng sinh viên niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, định hướng, phấn
đấu theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
2. Yêu cầu
Sau khi hoàn thành tiểu luận, sinh viên cần hiểu rõ những điểm sau đây:
•
Làm rõ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ thể hoạch định đường lối của cách
mạng Việt Nam
•
Q trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng của Đảng; sự sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử và dân tộc Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
•
Dựa trên cơ sở phương pháp khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lenin và các quan điểm của
tư tưởng Hồ Chí Minh.
•
Sử dụng phương pháp lịch sử và lo-gich. Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp khác
như: Phân tích, tổng hợp, và so sánh.
2
PHẦN NỘI DUNG
I.
BỐI CẢNH LỊCH SỰ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ
XX
1. Bối cảnh thế giới
Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó:
Từ cuối TK XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển mạnh sang gia đoạn chủ nghĩa đế quốc với chính
sách tang cường xâm lượng áp bức các dân tộc thuộc địa, chủ nghĩa tư bản phương tây chuyển
từ cạnh tranh tự do sang giai đoạn độc quyền.
Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh khiến nhu cầu về thị trường tăng cao, thị trường tiền
tệ, thị trường hàng hóa, thị trường sức lao động. Hậu quả của các cuộc chiến tranh xâm lược,
đặc biệt là cuôc chiến tranh thế giới thứ nhất làm nảy sinh mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa đế quốc
với đế quốc, giữa các dân tộc thuộc địa với đế quốc. Việc tang cường xâm lược và áp bức của
chủ nghĩa đế quốc thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa đã thổi bùng ngọn lửa đấu
tranh giành độc lập trên thế giới, đặc biệt là châu Á: Cách mạng Tân Hợi, Cách mạng Ấn Độ,
Nhật Bản.
Sự áp bức dân tộc càng tang thì mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và chủ nghĩa thực dân
càng gay gắt, sự phản ứng dân tộc càng quyết liệt. Cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa đặt ra yêu cầu tất yếu là phải liên minh, đoàn kết, phải phối hợp hành động với phong
trào của giai cấp vơ sản các nước đế quốc thì mới giành được thắng lợi.
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân
Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam. Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực
dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp
đoạt tài ngun, bóc lột nhân cơng rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất và sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa
lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Do sự du nhập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự
biến đổi: quan hệ kinh tế nơng thơn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những trung
tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. Nhưng thực dân Pháp không du nhập một cách hoàn chỉnh
phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng
kết hợp hai phương thức bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch. Chính vì
3
thế, nước Việt Nam không thể phát triển lên chủ nghĩa tư bản một cách bình thường được, nền
kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vịng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp.
Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ do bị áp
bức bóc lột nặng nề, tuy nhiên các phong trào chỉ dừng lại ở mức tự phát vì họ thiếu đi lý luận
khoa học hay vũ khi tư tưởng do đó địi hỏi bức thiết phải có hệ thống lý luận cách mạng khoa
học- chủ nghĩa Mác ra đời, sau đó được Lê nin phát triển.
Tuy chưa có điều kiện đề cập nhiều về cách mạng thuộc địa và vấn đề xây dựng Đảng cộng
sản ở các nước thuộc địa, nhưng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin đã đặt cơ
sở cho giai cấp công nhân các nước thuộc địa vận dụng để xây dựng chính Đảng cộng sản. Chủ
nghĩa Mác-Lenin chỉ rõ:
•
Vai trị của giai cấp cơng nhân trong cách mạng.
•
Cách mạng muốn thắng lợi cần có một chính Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo.
•
Mối quan hệ chặt chẽ giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng chính quốc và cách
mạng thế giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã dần trở thành vũ khí tinh thần, tư tưởng của giai cấp công nhân,
của nhân dân lao động các nước và góp phần quan trọng tạo nên bước phát triển vượt bậc của
phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác.
Nguyễn Ái Quốc là người tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, sáng lập Đảng cộng
sản Việt Nam, biến chủ nghĩa Mác - Lênin thành nền tảng tư tưởng Đảng. Giữa năm 1920,
Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu nước đã được đọc bản sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên Báo Nhân đạo cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu
nước. Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nơ lệ”1.
Sau khi tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921 trở đi, Nguyễn Ái
Quốc tiếp tục học tập để bổ sung và hồn thiện tư tưởng cứu nước của mình, đồng thời tích cực
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước nhằm chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng
1
Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2002, tập 2, tr. 219
4
và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng tiên phong ở Việt Nam - nhân tố cơ bản đầu tiên đảm
bảo mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Tác động của cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc Tế Cộng Sản
Cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra trước mặt các dân tộc một thời đại mới, đó
là thời đại cách mạng chống đế quốc giải phóng dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử cuộc cách
mạng do giai cấp công nhân thực hiện đã thành công không chỉ trong nước mà cả những dân
tộc thuộc địa khác của Nga biến đây trở thành động lực thúc đẩy phong trào đấu tranh chủ giai
cấp công nhân, nhân dân các nước, thúc đẩy sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản như ĐCS
Trung Quốc, ĐCS Mông Cổ, ĐCS Hung-ga-ri
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã có ảnh hưởng trực tiếp, nhiều mặt đến việc ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
Trước tiên, Cách mạng đã ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới Nguyễn Ái Quốc - người thanh
niên Việt Nam yêu nước đang bơn ba ở nhiều quốc gia để tìm con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc khỏi ách đơ hộ của thực dân Pháp.
Bị thu hút bởi sự kiện lịch sử gây chấn động thế giới, Nguyễn Ái Quốc được tiếp cận với
Luận cương của V.I. Lênin “Về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” khi còn ở Pháp. Chính từ
trong bản luận cương này Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng cho dân tộc Việt Nam. Điều đó được thể hiện rõ trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”
(năm 1927) của Người.
Bên cạnh đó, sự ra đời nhà nước Xơ Viết, với việc thực hiện các chủ trương, chính sách
mạng lại quyền lợi cho đa số nhân dân lao động đã có tác dụng to lớn cổ vũ, động viên các dân
tộc thuộc địa vùng lên giải phóng. Tại Việt Nam, các tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga
và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong cơng nhân và nhân dân lao động.
Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ và chuyển biến nhanh
chóng về chất. Các cuộc đình cơng, bãi công liên tiếp nổ ra ở nhiều nơi.
Đồng thời, Quốc tế III (thành lập tháng 3/1919) trở thành bộ tham mưu chiến đấu của giai
cấp vơ sản đã góp phần thúc đẩy, chỉ dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động các nước chống áp bức và giành độc lập dân tộc.
2. Bối cảnh trong nước
Xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của thực dân Pháp
5
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Với hai lần khai thác lớn lần thứ nhất là
năm 1897 đến trước chiến tranh thế giới lần I và lần thứ hai là sau chiến tranh thế giới lần I
chính sách thống trị của Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội sau gần 30 năm chinh phục từ 1858 đến 1884 và công cuộc
bình định từ 1885 đến 1896.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng dùng
bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố mọi sự chống
đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau.
Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai cấp địa chủ làm cơng cụ tay
sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta mất nước trở thành nơ lệ, bị đàn áp,
bóc lột, cuộc sống vơ cùng khổ cực.
Về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là trọng
điểm. Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê, chè...)
và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh. Tư bản
Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở công nghiệp
chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính, đặt
ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa
nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
Về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nơ dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo dục
phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam nhiều hơn
trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn chế xuất bản
sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thơng tin tiến bộ từ bên ngồi.
Dưới chính sách của thực dân Pháo, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc: giai
cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tầng lớp tiểu tư sản Việt
Nam. Về chính trị Pháp đã áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối
ngoại của chính quyền phong kiến, chia Việt Nam thành 3 kỳ, thực hiện chế độ cai trị riêng ở
mỗi kỳ và cuối cùng là cấu kết với địa chủ trong bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân
dân Việt Nam.
6
Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa có tinh
thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng của
cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc
sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người bn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên... phát
triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái đấu tranh và
là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của chúng. Bộ
phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngồi chèn ép nên có tinh thần dân
tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm 1929 tăng
lên 22 vạn. Giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với công nhân nhiều
nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế là có tính chất tiên
tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng chính
trị độc lập. Cơng nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hố nên có quan hệ
gần gũi với nơng dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai cấp ở Việt Nam lúc
đó "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu
với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô
sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất
của nhân dân Việt Nam”'.
Chính sách thống trị và khai thác thuộc địa của Pháp đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội
Việt Nam trên 3 mặt:
•
Tính chất xã hội Việt Nam: thay đổi từ xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa nửa
phong kiến
7
•
Phân hóa giai cấp xã hội sâu sắc: các giai cấp đều bị phân hóa, đặc biệt là sự ra đời của 2
giai cấp mới: giai cấp công nhân và tư sản Việt Nam. Thực tế lịch sử đã khẳng định chỉ
có giai cấp cơng nhân mới có khả năng đảm đương được nhiệm vụ trước yêu cầu lịch sử
của dân tộc.
•
Mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam cũng có biến đổi: mâu thuẫn giữa nhân dân và địa
chủ phong kiến, giữa dân tốc Việt Nam với thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác
động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai
yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu
nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI SỰ RA
II.
ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến2
Phong trào Cần Vương (1885-1896)
Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các Hiệp ước Ácmăng
(Harmand) năm 1883 và Patơnốt (Patenôtre) năm 1884, đầu hàng thực dân Pháp, song phong
trào chống thực dân Pháp xâm lược vẫn diễn ra. Phong trào Cần Vương, một phong trào đấu
tranh vũ trang do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, đã mở cuộc tiến cơng trại lính
Pháp ở cạnh kinh thành Huế (1885). Việc không thành, Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi chạy
ra Tân Sở (Quảng Trị), hạ chiếu Cần Vương. Mặc dù sau đó Hàm Nghi bị bắt, nhưng phong
trào Cần Vương vẫn phát triển, nhất là ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, tiêu biểu là các cuộc khởi
nghĩa:
•
Ba Đình của Phạm Bành và Đinh Cơng Tráng (1881-1887),
•
Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật (1883-1892),
•
Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885-1895).
Cùng thời gian này cịn nổ ra cuộc khởi nghĩa nơng dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo, kéo dài đến năm 1913. Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư
tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong
việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang 1884-1913)
2
Sách giáo khoa lịch sử lớp 11, NXB. Giáo dục, trang 126-136
8
Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (11/1873) Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của
Trần Xuân Soạn. Khi Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (4/1884), ông tham gia khởi nghĩa của Cai
Kinh (Hồng Đình Kinh) ở Hữu Lũng. Cuối năm 1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế
đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm tức Đề Nắm và trở thành một tướng lĩnh có tài.
Phong trào Đông Du (1906-1908)
Đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật
Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mơ hình qn chủ lập
hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy tân (1904), tổ chức phong trào Đông Du (1906-1908). Phan
Châu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí, nâng cao dân khí, phát
triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ hợp pháp, làm cho dân giàu, nước
mạnh, buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam. Do những hạn chế về lịch
sử, về giai cấp, nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, cũng như các sĩ phu cấp tiến lãnh đạo
phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX không thể tìm được một phương hướng giải quyết chính
xác cho cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, nên chỉ sau một thời kỳ phát triển đã bị kẻ thù
dập tắt.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
•
Khuynh hướng phong kiến khơng cịn phù hợp với thời đại mới
•
Các phong trào này diễn ra lẻ tẻ không thống nhất nên dễ dàng bị thực dân Pháp đàn
áp.
•
Các phong trào này quá phụ thuộc vào người lãnh đạo. Sau khi người lãnh đạo bị bắt
hoặc bị hy sinh thì các phong trào này đều bị thất bại.
•
Chỉ hơ hào cổ động khơng quan tâm đến vận động quần chúng, không chủ động xây
dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
•
Thiếu một lực lượng xã hội tiên tiến, có đủ năng lực để lãnh đạo phong trào.
2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất mặc dù còn nhiều hạn chế về số lượng, về thế lực kinh tế
và chính trị, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, giai cấp tư sản Việt Nam đã bắt đầu vươn lên
vũ đài đấu tranh với thực dân Pháp bằng một số cuộc đấu tranh cụ thể với những hình thức
khác nhau.
Năm 1919-1923, Phong trào quốc gia cải lương của bộ phận tư sản và địa chủ lớp trên đã diễn
ra bằng việc vận động chấn hưng nội hoá bài trừ ngoại hoá, chống độc quyền thương cảng Sài
9
Gòn, chống độc quyền khai thác lúa gạo ở Nam Kỳ, đòi thực dân Pháp phải mở rộng các viện
dân biểu cho tư sản Việt Nam tham gia. Năm 1923 xuất hiện Đảng Lập hiến của Bùi Quang
Chiêu ở Sài Gòn, tập hợp tư sản và địa chủ lớp trên. Họ cũng đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do
dân chủ để lôi kéo quần chúng. Nhưng khi bị thực dân Pháp đàn áp hoặc nhân nhượng cho một
số quyền lợi thì họ lại đi vào con đường thỏa hiệp.
Năm 1925-1926 đã diễn ra Phong trào yêu nước dân chủ công khai của tiểu tư sản thành thị
và tư sản lớp dưới. Có nhiều phong trào đấu tranh chính trị gây tiếng vang khá lớn như đấu
tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925). Cùng với phong trào đấu tranh chính trị, tiểu tư sản Việt
Nam cịn tiến hành một cuộc vận động văn hóa tiến bộ, tuyên truyền rộng rãi những tư tưởng tự
do dân chủ. Tuy nhiên, càng về sau, cùng sự thay đổi của điều kiện lịch sử, phong trào trên đây
ngày càng bị phân hoá mạnh. Có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng chính trị tư sản, có
bộ phận chuyển dần sang quỹ đạo cách mạng vô sản
Năm 1927-1930 Phong trào cách mạng quốc gia tư sản gắn liền với sự ra đời và hoạt động
của Việt Nam Quốc dân Đảng (25-12-1927). Cội nguồn Đảng này là Nam Đồng thư xã, lãnh tụ
là Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Đây là tổ chức
chính trị tiêu biểu nhất của khuynh hướng tư sản ở Việt Nam, tập hợp các thành phần tư sản,
tiểu tư sản, địa chủ và cả hạ sĩ quan Việt Nam trong quân đội Pháp. Về tư tưởng, Việt Nam
quốc dân Đảng mô phỏng theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Về chính trị, Việt Nam
quốc dân Đảng chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ vua quan, thành lập dân quyền,
nhưng chưa bao giờ có một đường lối chính trị cụ thể, rõ ràng. Về tổ chức, Việt Nam quốc dân
Đảng chủ trương xây dựng các cấp từ Trung ương đến cơ sở, nhưng cũng chưa bao giờ có một
hệ thống tổ chức thống nhất. Khởi nghĩa Yên Bái nổ ra khi chưa có thời cơ, vì thế nó nhanh
chóng bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Các lãnh tụ của Việt Nam quốc dân Đảng cùng
hàng ngàn chiến sĩ yêu nước bị bắt và bị kết án tử hình. Trước khi bước lên đoạn đầu đài họ hơ
vang khẩu hiệu “Việt Nam vạn tuế”. Vai trị của Việt Nam Quốc dân Đảng trong phong trào
dân tộc ở Việt Nam chấm dứt cùng với sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
Nhìn chung, các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam đã diễn
ra liên tục, sôi nổi, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh
phong phú, thể hiện ý thức dân tộc, tinh thần chống đế quốc của giai cấp tư sản Việt Nam,
nhưng cuối cùng đều thất bại vì giai cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế và chính trị
nên khơng đủ sức giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Mặc dù thất bại
10
nhưng các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã góp phần cổ vũ mạnh mẽ
tinh thần yêu nước của nhân dân ta, bồi đắp thêm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đặc biệt
góp phần thúc đẩy những nhà yêu nước, nhất là lớp thanh niên trí thức có khuynh hướng dân
chủ tư sản chọn lựa một con đường mới, một giải pháp cứu nước, giải phóng dân tộc theo xu
thế của thời đại và nhu cầu mới của nhân dân Việt Nam, tạo được cơ sở xã hội thuận lợi cho
việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự thất bại của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp
đã chứng tỏ con đường cứunước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc.
Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh
đạo.
3. Nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của
nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như
phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan
Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nơng dân n Thế của Hồng Hoa Thám kéo dài 30
năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc
khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX
là do thiếu một lực lượng xã hội tiên tiến có đủ năng lực để lãnh đạo phong trào, những cuộc
khởi nghĩa diễn ra lẻ tẻ, đa số các phong trào mang tính tự phác, trong nội bộ chia rẽ, chưa tập
hợp được sức mạnh quần chúng nhân dân, chưa thấy đc khả năng lãnh đạo của giai cấp công
nhân và chưa đoàn kết đc họ. Ngoài ra lực lượng ta và địch không cân xứng, ta đấu tranh khi
địch vẫn cịn mạnh, địch có trang bị vũ khí hiện đại hơn ta.
4. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản
4.1. Giai đoạn tự phát (trước năm 1925)
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 thường có quy
mơ nhỏ hẹp do sự yếu thế của giai cấp công nhân và chưa có chủ trương cách mạng đúng đắn.
Phong trào cơng nhân giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế như quy mơ nhỏ hẹp trong các
nhà máy, xí nghiệp, đồn điền. Mục đích chủ yếu tập trung vào nội dung kinh tế và hầu hết các
phong trào đều diễn ra tự phát
11
Cơng nhân Hải Phịng đấu tranh địi giảm giờ làm3
Hải Phịng là một trong những thành phố có nhiều cơng nhân sinh sống và làm việc. Q
trình đơ thị hố cũng như công cuộc đầu tư khai thác của thực dân Pháp làm cho thành phố Hải
Phịng nhanh chóng trở thành một trung tâm công nghiệp lớn ở Bắc Kỳ. Mỗi ngày cơng nhân
Hải Phịng phải làm việc từ 10 đến 12 giờ, đời sống vô cùng khổ cực, lương lại q thấp. Chính
vì thế, tháng 6-1922, họ đã đồng loạt đấu tranh đòi ngày làm 8 giờ, tuần làm việc 6 ngày. Lo sợ
sẽ có những cuộc đấu tranh rộng lớn hơn đòi áp dụng đúng luật lao động như ở nước Pháp,
ngày 22-6-1922 chính quyền thực dân đã phải nhượng bộ. Như vậy, phong trào đấu tranh ở Hải
Phòng đã đánh dấu cuộc đấu tranh giành quyền lợi đầu tiên của giai cấp vô sản ở Việt Nam.
Đấu tranh của công nhân Nhà máy dệt lụa Nam Định và Nhà máy diêm Bến Thuỷ4
Sáng ngày 27-2-1924, nhân việc chủ nhà máy dệt lụa Nam Định là kỹ sư Tcten bắt cơng
nhân xưởng dệt phải chụp ảnh để làm thẻ căn cước đã nổ ra cuộc bãi công của các cơng nhân
trước sự bóc lột tồi tệ. Cuộc bãi công kéo dài trong 10 ngày, làm cho 3/4 số máy phải ngừng
hoạt động. Tuy cịn mang tính tự phát nhưng đây là cuộc bãi công kéo dài nhất trong các cuộc
đấu tranh của cơng nhân trước đó.
Cũng trong tháng 2, hơn 100 công nhân Nhà máy diêm Bến Thuỷ đình cơng địi tăng lương
và phản đối sự tàn tệ. Hằng ngày, họ lao động từ 10 đến 12 tiếng đồng hồ nhưng chỉ được
hưởng đồng lương rẻ mạt. Người nào chống lại bị cúp lương hoặc bị đuổi khỏi nhà máy.
Công nhân Nhà máy rượu và Nhà máy bông sợi Nam Định bãi công
Tương tự như các cuộc bãi cơng trước đó, trước sức ép nặng nề, bóc lột tàn bạo của các ông
chủ nhà máy người Pháp, ngày 11-9-1924, đồng loạt công nhân tại nhà máy rượu Nam Định đã
bãi công. Tuy cuộc đấu tranh của công nhân xay gạo và nấu rượu có quy mơ khơng lớn, nhưng
đã đưa ra được những yêu sách rõ ràng phản đối tên chủ mới và một số thể lệ làm việc khắt
khe.5
Tiếp đó, ngày 14-9, tại Nhà máy bơng sợi Nam Định, do bị áp bức bóc lột, 250 cơng nhân
xưởng dệt tiến hành bãi công phản đối và đưa ra yêu sách rõ ràng đòi chủ phải trả tiền công và
phụ cấp đầy đủ. Cuộc bãi công kéo dài ba ngày. Tuy chưa giành được thắng lợi nhưng cuộc
3
Ban Chấp hành Đảng bộ Hải Phòng: Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng, Nxb. Hải Phòng, 1991, t.1, tr 67.
Dương Trung Quốc: Việt Nam - những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr. 71.
5
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.58.
4
12
đấu tranh này đã đánh dấu một bước tiến mới của phong trào công nhân nhà máy bước vào thời
kỳ đấu tranh tập thể.6
Kết luận
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 thường có quy
mơ nhỏ hẹp do sự yếu thế của giai cấp cơng nhân và chưa có chủ trương cách mạng đúng đắn.
Tuy phong trào công nhân giai đoạn này vẫn cịn nhiều hạn chế như quy mơ nhỏ hẹp trong các
nhà máy, xí nghiệp, đồn điền nhưng đã có sự hình thành mối quan hệ giữa cơng nhân các nơi
với nhau và mối liên hệ với phong trào ở nước ngồi, người cơng nhân đã biết "bãi cơng là một
vũ khí dũng mãnh trong tay của những người làm công”.
Mục đích chủ yếu tập trung vào nội dung kinh tế và hầu hết các phong trào đều diễn ra tự
phát, chỉ có duy nhất 1/25 cuộc đấu tranh là có lãnh đạo, tổ chức chặt chẽ, ví dụ như cuộc đấu
tranh của công nhân Ba Son 8/1925.
4.2. Giai đoạn tự giác (sau năm 1925)7
Từ năm 1925 trở đi, phong trào cơng nhân Việt Nam có nhiều tác động mới. Đó là phong
trào cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1927)
đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam. Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga
(1917) tới Việt Nam ngày một nhiều hơn. Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (7/1924) đã
ra những nghị quyết quan trọng về vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Những sự kiện trên trường quốc tế ấy đã giúp cho nhân dân ta nhận thấy rõ hơn bản chất của
giai cấp tư sản, yêu cầu cấp thiết sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa như Việt Nam.
Nhờ sự ra đời và hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và Tân Việt
đẩy mạnh hoạt động trong phong trào công nhân (mở lớp huấn luyện cán bộ), ra báo "Thanh
niên", Nguyễn Ái Quốc viết cuốn "Đường cách mệnh", phong trào "Vơ sản hố", các tư tưởng
của Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác-Lênin đã được truyền bá rộng rãi trong
công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở đó, phong trào công nhân ngày càng phát triển
mạnh mẽ và chuyển biến nhanh chóng về chất. Các cuộc đình cơng, bãi cơng liên tiếp nổ ra ở
nhiều nơi.
6
Dương Trung Quốc: Việt Nam - những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2000, tr.77-78.
Ngơ Văn Hịa, Dương Kinh Quốc, Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb Khoa
học xã hội, H.1978, tr.335
7
13
Trong hai năm 1926-1927, đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là cuộc bãi
công của 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của 500 công nhân đồn điền cao su Cam
Tiêm, công nhân cao su Phú Riềng,... Trong hai năm 1928 - 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công
của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam. Tiêu biểu là phong trào bãi cơng của công nhân nổ ra ở
mỏ than Mạo Khê, nhà máy nước đá La - ruy (Sài Gòn), đồn điền Lộc Ninh, nhà máy cưa Bến
Thuỷ, nhà máy xi măng Hải Phòng, đồn điền cao su Cam Tiêm, nhà máy Tơ Nam Định.... ở
năm 1928 và phong trào bãi công của công nhân nổ ra ở nhà máy chai Hải Phòng, nhà máy xe
lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy AVIA (Hà Nội), nhà máy điện Nam Định, dệt Nam Định, đồn
điền cao su Phú Riềng… vài năm 1928
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong thời gian này nổ ra liên tục, rộng khắp.
Nhiều nhà máy, xí nghiệp thành lập được công hội đỏ. Đặc biệt công nhân Nam Kỳ đã bắt đầu
liên lạc với Tổng liên đoàn lao động Pháp.
Các cuộc đấu tranh đã có sự phối hợp và có sự lãnh đạo khá chặt chẽ, khẩu hiệu đấu tranh
được nâng lên dần: đòi tăng lương, thực hiện chế độ ngày làm 8 giờ, phản đối đánh đập...Phong
trào đấu tranh với nhiều hình thức, ngồi mục tiêu kinh tế, phong trào thời kỳ này mang hình
thức đấu tranh chính trị, mang tính tự giác.
Điều đó chứng tỏ, cơng nhân khơng cịn bị chi phối, lệ thuộc nặng nề vào các yêu sách lợi
ích cục bộ, địa phương mà đã biết chú ý tới lợi ích chung của giai cấp bằng cách đề ra các yêu
sách phù hợp với nguyện vọng chung của đông đảo công nhân.
4.3. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Xác định con đường vô sản
Trước yêu cầu cấp bách phải tìm một con đường cứu nước mới, bằng thiên tài trí tuệ và
nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 6-1911 Nguyễn Ái Quốc đã lên đường sang các nước
phương Tây, nơi có khoa học - kỹ thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ
làm như thế nào, để rồi trở về nước giúp đồng bào cởi ách xiềng xích nơ lệ. Vào cuối năm
1917, giữa lúc Chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Người trở lại nước Pháp. Tại đây,
Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp, tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập
ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ báo Việt Nam hồn để tuyên truyền giáo dục
Việt kiều ở Pháp. Trong những ngày hoạt động cách mạng sơi nổi đó, cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917 bùng nổ làm chấn động tồn cầu. Với sự nhạy cảm chính trị đặc biệt,
Người hướng đến ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
của cuộc cách mạng vĩ đại đó. Người rút ra kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mệnh
14
Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự
do, bình đẳng thật”. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế phát triển mạnh mẽ. Quốc tế Cộng sản do Lênin đứng đầu thành lập (1919) và tuyên bố kiên
quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đơng. Tháng 7-1920, Nguyễn
Ái Quốc được đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin. Bản Luận cương đó đã đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết mà Nguyễn Ái Quốc
đang ấp ủ: độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào. Sau này Người viết: Luận cương của
Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng
đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường
giải phóng chúng ta! Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Tháng 121920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua (Tours) Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế thứ ba và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện đó đánh dấu bước
ngoặt quyết định trong cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa
cộng sản; mở đường giải quyết đúng đắn về đường lối giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Chuẩn bị về tư tưởng – chính trị
Bằng thiên tài trí tuệ và hoạt động cách mạng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời đáp
ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các
nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vơ sản.
Người nói: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời Pháp đi Mátxcơva để tham dự Hội
nghị Quốc tế nông dân, đồng thời trực tiếp học tập nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng Tháng
Mười và chủ nghĩa Lênin. Người viết nhiều bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xơ và
tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tham gia Đại hội V của Quốc
tế Cộng sản và các đại hội của Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên,
Quốc tế Cứu tế đỏ. Trong hai bản tham luận quan trọng đọc tại Hội nghị Quốc tế nông dân và
Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập hai vấn đề lớn sau:
i.
Tăng cường mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào
cách mạng ở các nước thuộc địa.
ii.
Vấn đề nông dân ở các nước thuộc địa. Người thẳng thắn phê bình một số đảng cộng
sản ở các nước tư bản chủ nghĩa đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, chưa biết kết hợp phong
15
trào cách mạng ở chính quốc và cách mạng ở các nước thuộc địa để thành lập một mặt
trận đấu tranh chung. Đối với vấn đề nông dân, Người chỉ rõ rằng: Nơng dân bị áp bức
bóc lột nặng nề, nạn đói ln ln xảy ra, sự phẫn uất ngày càng lên cao. “Sự nổi dậy
của nông dân bản xứ đã chín muồi. Trong nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy,
nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình
trạng tiêu cực, thì ngun nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế
Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán bộ lãnh đạo cho họ và
chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”
Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây Người cùng
các nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v., thành
lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo Thanh
niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ năm 1925-1927, Người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu,
đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng
Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành sách với
tên gọi là Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc vạch ra những phương
hướng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Đường kách mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách
mạng Pháp (1789), Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), và khẳng định rằng chỉ có Cách mạng
Tháng Mười Nga là triệt để nhất, vì thế cách mạng Việt Nam cần phải đi theo con đường cách
mạng của học thuyết Mác - Lênin mới thành cơng. Tác phẩm Đường kách mệnh nhấn mạnh
tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc; lực lượng
cách mạng bao gồm “sỹ, nơng, cơng, thương”, trong đó cơng nơng là “chủ cách mệnh”, là “gốc
cách mệnh”, còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị đế quốc áp bức, song không cực
khổ bằng công nông nên ba hạng ấy chỉ là “bầu bạn cách mệnh của công nông”. Đường kách
mệnh cũng còn chỉ rõ rằng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần
được sự giúp đỡ quốc tế, nhưng “muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy
mình đã”. Cách mạng vơ sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa quan hệ mật thiết với nhau và ảnh hưởng thúc đẩy nhau trong quan hệ bình đẳng. “An Nam
dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm
giai cấp cách mệnh cũng dễ”. Ngoài ra, Đường kách mệnh dành một phần thích đáng để giới
16
thiệu các tổ chức chính trị của Quốc tế Cộng sản như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên...
và hướng dẫn nhân dân Việt Nam tham gia các tổ chức đó. Tác phẩm cũng đã trực tiếp đóng
vai trị chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt
Nam.
Chuẩn bị về lực lượng
Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng cứu nước giải phóng
dân tộc theo con đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc ngày càng chiếm ưu thế. Việc truyền
bá lý luận giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
đã phải “chọc thủng lưới sắt của bọn thực dân Pháp” mới đến được với nhân dân Việt Nam ta.
Cùng với cuộc đấu tranh chống lại chính sách khủng bố của bọn đế quốc, những người theo
con đường cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng của học thuyết Mác-Lênin còn phải
đấu tranh với các đề xướng và vận động thành lập các chính đảng quốc gia, thành lập “khối dân
tộc”. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất phong trào đã diễn ra với những hình thức sơ khai
như bỏ trốn tập thể, phá giao kèo, đốt lán trại, đánh cai ký, đưa đơn phản kháng, rồi tiến dần lên
những hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng. Sau Chiến tranh thế giới thứ
nhất, giai cấp công nhân ở nước ta ngày càng đông đảo và tập trung hơn. Trong những năm
1919-1925 đã nổ ra 25 cuộc bãi công, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân viên chức
các sở cơng thương tư nhân Bắc Kỳ, cơng nhân các lị nhuộm ở Sài Gòn, Chợ Lớn (1922), các
nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương (1924). Các cuộc đấu tranh đó đã
kết hợp những khẩu hiệu kinh tế với những khẩu hiệu chính trị, vượt ra ngoài phạm vi một nhà
máy, đồn điền, bước đầu có sự liên kết nhiều ngành, nhiều địa phương. Điều đó chứng tỏ trình
độ giác ngộ của cơng nhân đã nâng lên rõ rệt tuy chưa được đều khắp. Phong trào phát triển
mạnh mẽ, có sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.
5. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
5.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận
thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản thống nhất, chấm dứt sự
chia rẽ trong phong trào cộng sản ở Việt Nam. Điều này phản ánh quá trình tự ý thức của
những người cộng sản Việt Nam về nhu cầu phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một
đảng cộng sản duy nhất.
17
Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương tài liệu về
việc thành lập một Đảng Cộng sản Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương
phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng giai cấp vô sản.
Quốc tế Cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập Đảng là phải bắt đầu từ việc xây
dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp: chỉ rõ mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Đông
Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời
Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, họp từ ngày 6-1 đến ngày 7-21930 tại Hương Cảng, Trung Quốc. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản (18/2/1930). Nguyễn
Ái Quốc viết: “Chúng tôi họp vào ngày 6-1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2”. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao Động Việt Nam (10/9/1960) quyết định
lấy ngày 3-2 dương lịch hàng năm làm ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản; 2 đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng; 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận đề nghị của
Nguyễn Ái Quốc gồm Năm điểm lớn, với nội dung:
i.
Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản ở
Đông Dương;
ii.
Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
iii.
Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
iv.
Cử một Ban Trung Ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng
sản Trung Quốc ở Đông Dương”. Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của
Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung
ương Lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, đến ngày 24-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất
việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam - (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn).
18
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận
động cách mạng Việt Nam - sự phát triển về chất từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến
ba tổ chức cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
quan điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng.
Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
5.2. Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định các giai đoạn, đối tượng và nhiệm vụ của
cách mạng tư sản dân quyền ở Việt Nam
Chánh cương vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, nêu rõ chủ trương làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tiến trình cách mạng
Việt Nam gồm hai giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là tư sản dân quyền cách mạng trong đó có
nhiệm vụ thổ địa cách mạng và giai đoạn thứ hai là thế giới cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản.
Chánh cương vắn tắt khẳng định đế quốc và phong kiến đều là đối tượng phải đánh đổ trong
cách mạng dân tộc dân chủ, nhưng hai nhiệm vụ này không thực hiện đồng loạt. Nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc phải đặt lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đem
lại ruộng đất cho dân cày sẽ thực hiện từng bước, nhằm tập trung vào kẻ thù chính là bọn đế
quốc xâm lược và bọn phong kiến tay sai.
Chánh cương vắn tắt chỉ rõ những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn tư sản
dân quyền cách mạng về các phương diện xã hội, chính trị và kinh tế.Chánh cương xác định, về
phương diện xã hội là dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục
theo công nông hoá; về phương diện chính trị cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra
chính phủ công - nông binh, tổ chức ra quân đội công nông; về phương diện kinh tế phải thu
hết sản nghiệp lớn như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v. của đế quốc Pháp giao cho Chính
phủ công - nông binh quản lý, thu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho
dân cày nghèo,…
5.3. Sách lược vắn tắt của Đảng” đề ra đường lối tập hợp và lôi kéo quần chúng
Sách lược vắn tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, gồm năm điểm, xác định Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình và làm
cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Đồng thời, Đảng phải thu phục cho được đại bộ
19
phận dân cày và phải dựa vào dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh trúc bọn đại địa chủ
và phong kiến. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên và
Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe giai cấp vơ sản. Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, rồi làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Xuất phát từ đường lối đã xác định trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt chủ trương
thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh đoàn kết rộng rãi của toàn dân tộc
chống đế quốc. Đồng thời, Sách lược vắn tắt vẫn nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của
Đảng, trong khi liên lạc với các giai cấp, phải thận trọng, không nhượng bộ một chút lợi ích gì
của cơng nơng mà đi vào con đường thoả hiệp. Đảng phải đồng thời tuyên truyền và liên lạc
với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
5.4. “Chương trình tóm tắt của Đảng” nêu những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của
Đảng trong giai đoạn tư sản dân quyền cách mạng
Chương trình tóm tắt của Đảng, do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, cũng gồm năm điểm, trong
đó xác định những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách về xây dựng Đảng; về tập hợp quần chúng
công nông chuẩn bị thổ địa cách mạng và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến; làm cho công nông
thoát khỏi ách của tư bản; lôi kéo, tập hợp các tầng lớp tiểu tư sản, tư sản bậc trung, trí thức và
trung nông v.v., đánh đổ bọn phản cách mạng v.v.; đồn kết, hợp tác giai cấp nhưng khơng hy
sinh lợi ích của công nông; nêu khẩu hiệu "Việt Nam tự do"; đồn kết với vơ sản và các dân tộc
bị áp bức trên thế giới, nhất là vô sản Pháp.
5.5. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam
Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam:
Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến
•
Làm cho nước Việt Nam được hồn tồn độc lập
•
Lập chính phủ cơng nơng binh, tổ chức qn đội cơng nông
20
Về kinh tế, thủ tiêu hết các thứ Quốc trái; tịch thu tồn bộ sản nghiệp lớn (như cơng nghiệp,
vận tải, ngân hàng, …) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông
binh quản lý
•
Tịch thu tồn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày
nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo
•
Mở mang cơng nghiệp và nơng nghiệp; thi hành luật ngày làm 8giờ.
Về văn hóa - xã hội, dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền; phổ thơng giáo dục
theo cơng nơng hóa.
Về lực lượng cách mạng, Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm
cho các đoàn thể, thợ thuyền và dân cày khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản
quốc
•
Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt…để kéo
họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.
•
Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Về lãnh đạo cách mạng, giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo Việt Nam. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai
cấp mình lãnh đạo được dân chúng, trong khi liên lạc với các giai cấp phải rất cẩn thận, không
khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi vào con đường thỏa hiệp.
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vơ sản Pháp.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm qua đã chứng minh rõ
tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
Những hạn chế trong các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX được
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng khắc phục
Trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh chống Pháp diễn ra sôi
nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kỳ này đều hướng tới giành độc lập cho dân tộc,
nhưng trên các lập trường giai cấp khác nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập
chế độ quân chủ lập hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ cộng hòa tư sản. Các phong trào đấu
21
tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải cách; với quan
điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau; dựa vào Pháp để thực hiện cái cách, hoặc dựa vào
ngoại viện để đánh Pháp… nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh đều thất bại.
Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trị của
mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức
trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ;
chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân), nên cuối cùng đã
khơng thành cơng. Sự thất bại của các phịng trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở
Việt Nam đầu thế kỷ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp này trong
tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước những nhiệm vụ do lịch sử dân
tộc Việt Nam đặt ra.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường
bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam và chính sự phát triển của phong trào yêu nước
đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm cách mạng
Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc.
Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh
đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ
tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đi đến thành công.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có cương
lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương
hướng cách mạng vơ sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm bắt
được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng
khoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX; mở ra
con đường và phương hướng phát triển mới của đất nước Việt Nam.
5.6. Ý nghĩa lịch sử - sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Nghiên cứu cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra những kết luận sau:
22
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình vận
động của cách mạng Việt Nam: sự phát triển từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đến ba tổ
chức cộng sản, đến Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ chủ nghĩa Mác - Lênin và quan
điểm cách mạng Nguyễn Ái Quốc.
Thứ hai, hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã quy tụ ba tổ chức cộng sản
thành một đảng cộng sản duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam, theo một đường lối chính trị
đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động của phong trào
cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư
tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
“một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vơ sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Về quá trình ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “Chủ
nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.
Thực tế lịch sử cho thấy, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn bổ
sung, phát triển học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản. Đại hội VII của Đảng (năm 1991)
chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh
là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và
dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”.
Thứ tư, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có
cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo
phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã
nắm bắt được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng
khủng khoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX;
mở ra con đường và phương hướng phát triển mới của đất nước Việt Nam.
Thứ năm, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách
mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ
23
vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua đã chứng
minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng.
24