1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, môn Ngữ văn khơng cịn thu hút được sự chú ý cả học sinh.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do: nhu cầu thực dụng của học sinh về
thi đại học; nội dung chương trình cịn mang tính hàn lâm; hình thức tổ chức dạy
học cịn đơn điệu; phương pháp dạy học chủ yếu đọc chép… chưa đáp ứng được
nhu cầu của học sinh. Bên cạnh đó, người dạy cịn nặng về truyền thụ kiến thức,
người học thụ động, không tự học.
Đối với tác phẩm trữ tình của văn học trung đại thì cịn khó khăn hơn, bởi
sự khác biệt về thời gian sống và quan điểm tư tưởng của nhà thơ. Người dạy và
người học cần phải nắm được đặc trưng thể loại, hiểu được đặc điểm của hình
tượng nhân vật trung tâm, cái tơi trữ tình của tác giả… Giáo viên và học sinh
chưa chú trọng vào việc giảng dạy và học tập tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
Ngoài ra, số tác phẩm và việc phân bố thời lượng cho những bài dạy về hát nói
cịn q ít, Bài ca ngất ngưởng và bài đọc thêm Bài ca phong cảnh Hương Sơn
đều gộp chung với các tác phẩm khác. Học sinh khơng có nhiều thời gian để trải
nghiệm thể hát nói và nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Phương pháp dạy học hiện nay là phát huy năng lực người học, lấy học
sinh làm trung tâm. Yêu cầu này đặt ra cho giáo viên một thách thức, phải làm
thế nào để thu hút học sinh vào bài học, làm thế nào để khắc sâu kiến thức…?
Để thiết kế một tiết dạy hiệu quả, giáo viên cần vận dụng tổng hợp kiến thức của
các môn học liên quan nhằm định hướng cho học sinh cách tiếp cận tác phẩm.
Từ những lí do trên, tơi chọn vấn đề TIẾP CẬN TÁC PHẨM “BÀI CA
NGẤT NGƯỞNG” THEO HƯỚNG TÍCH HỢP làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu sẽ giúp người dạy và người học nhận ra những hạn chế
của phương pháp dạy học truyền thống, những ưu điểm của phương pháp dạy
học tích cực, từ đó biết tích hợp kiến thức liên mơn để giải quyết vấn đề.
1
Nghiên cứu vấn đề Tiếp cận tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” theo hướng
tích hợp sẽ giúp người học hứng thú, say mê với bài học và môn học. Nội dung
bài dạy sẽ cụ thể, sinh động và học sinh dễ khắc sâu kiến thức.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Trong phạm vi đề tài này, tơi tập trung tìm hiểu những nét tiêu biểu của
thể hát nói, cách tiếp cận các tác phẩm Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công
Trứ, được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn THPT lớp 11 (cơ bản)
theo hướng tích hợp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tôi sử dụng phương pháp thực nghiệm khoa học, phân tích,
so sánh, khái quát, tổng hợp để nghiên cứu đối tượng.
1.5. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Đặc điểm của thể loại hát nói.
- Phương pháp dạy học tích hợp.
- Tác phẩm Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ).
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2
2.1.1. Dạy học tích hợp
2.1.1.1. Khái niệm
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động,
chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích
hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”.
Theo từ điển Giáo dục học: “Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác
nhau trong cùng một kế hoạch dạy học”.
2.1.1.2. Mục đích của dạy học tích hợp
- Học đi đôi với hành, chú trong năng lực hoạt động
- Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và tư duy độc lập của người
học trong việc chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Học sinh được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách có
hệ thống và thấy được mối quan hệ biện chứng giữa kiến thức các môn được học
trong chương trình.
- Thực hiện linh hoạt các phương pháp giảng dạy phù hợp với nội dung
kiểu bài và đặc thù của bộ môn.
Mô tả tác động của phương pháp dạy học tích cực
2.1.1.3. Đặc điểm của dạy học tích hợp
- Lấy người học làm trung tâm
- Định hướng đầu ra
- Dạy và học các năng lực thực hiện
3
2.1.1.4. Quy trình tổ chức dạy học tích hợp
- Quy trình dạy học tích hợp:
Bước 1: Xác định bài dạy tích hợp
+ Xác định kiến thức, kĩ năng, thái độ.
+ Xác định các kiến thức và phương pháp được tích hợp trong bài dạy.
Bước 2: Biên soạn giáo án tích hợp (có giáo án kèm theo)
Bước 3: Thực hiện giáo án tích hợp
Bước 4: Kiểm tra đánh giá
4
2.1.2. Khái quát chung về thể hát nói
2.1.2.1. Khái niệm
Thơ hát nói là phần văn bản ngơn từ của bài hát nói - một trong những
điệu thức chủ đạo của lối hát ca trù (hát nhà trò, nhà tơ, ả đào, cơ đầu…) - một
loại hình ca nhạc chun nghiệp có nguồn gốc cung đình. Hát nói có sự kết hợp
hài hịa giữa phần ngâm và phần nói trên một nền nhạc riêng.
2.1.2.2. Đặc điểm của thể hát nói
- Đây là một thể thơ riêng của Việt Nam, phát triển mạnh và đạt đến trình
độ mẫu mực trong thế kỷ XVIII và XIX với các tác giả kiệt xuất như Nguyễn
Cơng Trứ, Nguyễn Khuyến, Dương Kh…
- Bài hát nói được viết bằng loại câu thơ như lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn;
gieo vần chân, vần lưng, vần bằng, vần trắc; số tiếng trong câu không cố định.
Một bài đủ khổ gồm 11 câu, có những bài dơi khổ thường có 15,19,23,27 câu.
- Bài hát nói được chia làm hai phần: mưỡu (có mưỡu đơn và mưỡu kép)
và hát nói. Một bài hát nói thường gồm 11 câu, chia làm 6 khổ:
Khổ nhập đề: câu 1,2 (mở bài).
Khổ xuyên tâm: câu 3,4.
Khổ đan: câu 5,6; là hai câu chữ Hán hay quốc âm và thường
đối nhau nêu ý chính của bài hát.
Khổ xếp: câu 7,8.
Khổ rải: câu 9,10.
Khổ kết: câu 11 tóm tắt ý chính tồn bài.
Ví dụ:
Bài hát nói đủ khổ:
Gặp cô đầu cũ (II) (Dương Khuê)
Hốt ức lục, / thất niên / tiền sự,
1.
Trải trăng hoa / chưa trả nợ / hương nguyền. 2.
Đến bây giờ / lại gặp / người quen,
3.
Nỗi lưu lạc / sự ghét ghen / là thế nhỉ.
4.
Thiếp tự thân khinh, lang vị khí,
5.
Thần tuy tội trọng, đế do liên.
6.
Can chi mà/ tủi phận/, hờn duyên,
7.
Để son phấn/ đàn em/ thêm khúc khích.
8.
Ý trung nhân/ tự khả tình/ tương bạch,
9.
Thơi bút nghiên/, đàn phách/ cũng đều sai.
5
0xT/xB/xT
0xB/0tT/bB
0bB/tT/bB
0xT/0xB/0xT
t T b B b T T (Thơ)
b B t T t B B (Thơ)
0bB/tT/bB
0xT/bB/0tT
0bT/0xB/xT
10. 0 x B / x T / 0 b B
Trơng nhau/ nói nói/, cười cười
Bài hát nói dơi khổ:
11. b B / t T / b B
Chí làm trai
Vịng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đơng tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
Nhân sinh thế thuợng thuỳ vô nghệ
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ
Cũng có lúc mây tn sóng vỗ
Quyết ra tay lèo lái trận cuồng phong.
Chí những toan xẻ núi lấp sơng
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ
Đuờng mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi ruợu bầu.
(Nguyễn Cơng Trứ)
Bài hát nói thiếu khổ:
Chú Mán
Phong lưu nhất ai bằng chú Mán
Trong anh em chúng bạn kém thua xa
Buổi loạn ly bốn bể không nhà
Răng chẳng nhuộm, vợ chẳng lấy, lụa là chẳng mặc
Mán chỉ làm đủ tiền tiêu vặt
Khi cao lâu, khi cà phê, khi nước đá, khi thuốc lá, khi đủng đỉnh ngồi xe
Sự đời Mán chẳng buồn nghe
(Trần Tế Xương)
6
Thơ hát nói hấp dẫn chủ yếu ở giọng điệu. Nó thích hợp để bày tỏ những
tư tưởng, tình cảm tự do, phóng túng, thốt ra ngồi khn khổ.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Do đặc thù mơn học, việc tích hợp trong giờ học Ngữ văn là hoạt động
phức hợp địi sự tích hợp các kiến thức, kỹ năng, năng lực liên môn để giải
quyết nội dung bài học gắn với thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng đó,
trong q trình chuẩn bị và tiến hành tiết học, tơi ln cố gắng vận dụng, tích
hợp kiến thức liên mơn để học sinh nắm sâu kiến thức đáp ứng nhu cầu học tập
và cuộc sống.
Tuy nhiên, khi vận dụng dạy tích hợp liên mơn, giáo viên cịn gặp nhiều
khó khăn. Để giờ học đạt kết quả, giáo viên cần nhiều thời gian đầu tư cho giáo
án, tìm kiếm nhiều thơng tin và phải có kiến thức liên ngành vững chắc. Mặt
khác, áp lực về thời lượng tiết dạy, phân phối chương trình, số lượng mơn học
khiến cả người dạy và người học chưa thể toàn tâm toàn ý mà chỉ dừng lại ở một
số bài học, một số chủ đề.
Trong sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 11 hiện hành, có hai tác phẩm thuộc
thể loại hát nói là: Bài ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ) và bài đọc thêm Bài
ca phong cảnh Hương Sơn (Chu Mạnh Trinh). Tuy nhiên, thời lượng chương
trinh ít (khoảng 3 tiết) cho cả hai bài và đây lại là thể hát nói - một thể thơ khá
xa lạ với học sinh hiện nay nên khi tiếp cận những tác phẩm này, chúng ta thấy
thực trạng sau:
- Chưa dạy bài hát nói theo đặc trưng thể loại:
+ Giáo viên chưa tổ chức cho học sinh phát hiện, tìm hiểu văn bản dựa
vào đặc điểm của bài hát nói.
+ Chưa chú trọng tổ chức cho học sinh phát hiện được đặc điểm của cái
tôi tác giả trong mỗi bài hát nói: lối tự thuật, tự nhìn nhận và đánh giá bản thân
7
với giọng điệu thơ tự hào, sảng khoái, tự tin mà giáo viên thường cung cấp một
cách khiên cưỡng và học sinh đón nhận một cách thụ động.
+ Chưa chú trọng tạo hứng thú, bầu khơng khí văn chương để khơi gợi
cảm xúc thẩm mĩ về thể hát nói.
- Khi dạy bài hát nói, giáo viên thường tập trung khai thác tác phẩm ở
hình tượng nhân vật. Đây là cách khai thác thường được triển khai khi tìm hiểu
tác phẩm trữ tình hiện đại, các truyện ngắn. Khi tìm hiểu Bài ca ngất ngưởng,
giáo viên chủ yếu cho học sinh tìm hiểu thái độ “ngất ngưởng” của nhân vật trữ
tình khi tại triều và khi về hưu. Giáo viên chưa chú trọng đến các yếu tố nghệ
thuật làm nên sự độc đáo của tác phẩm hát nói (tự do, phóng túng của nhịp điệu,
vần, đối xứng), chưa khám phá trọn vẹn nhân vật trữ tình - con người tự nhiên,
bản ngã - mẫu người mới của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - nửa đầu XIX. Vì
thế vơ hình dung chưa đánh giá và cảm nhận hết được cái hay, cái đẹp của tác
phẩm.
- Chưa tích hợp kiến thức của các môn khoa học liên quan để giảng
dạy. Dạy văn mà chỉ dùng kiến thức văn chương khơng thì chưa đủ. Giáo viên
cần tạo mối liên thông kiến thức sách vở và kiến thức đời sống; liên thông giữa
kiến thức kỹ năng của môn Ngữ văn với các môn học thuộc ngành khoa học xã
hội nhân văn và các ngành học khác để khắc sâu kiến thức và hiểu đúng vấn đề
được đặt ra trong tác phẩm. Qua đó, giáo viên hình thành kiến thức và kỹ năng
thực hành tồn diện, đồng thời góp phần giáo dục đạo đức công dân, kỹ năng
sống, hiểu biết xã hội … cho học sinh.
Những tồn tại này đã được chúng tơi nhìn nhận, rút kinh nghiệm và khắc
phục sau từng giờ giảng. Vì thế, tơi mạnh dạn trình bày các biện pháp đã tiến hành
để dạy tác phẩm hát nói theo hướng tích hợp một cách có hiệu quả.
8
2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.3.1. Tích hợp kiến thức của các bộ mơn khoa học liên quan
2.3.1.1. Lịch sử - xã hội
+ Mục đích của việc tích hợp kiến thức của bộ mơn Lịch sử là để học sinh
nắm rõ hơn về bối cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội mà thể hát nói và loại hình nhà
nho tài tử ra đời.
+ Giáo viên giới thiệu cho học sinh về các cuộc nội chiến cát cứ phong
kiến kéo dài từ thể kỷ XVI đến khoảng thế kỷ XVIII như: cuộc phân tranh Lê Mạc kéo dài trên 50 năm, cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn xuyên suốt thế kỷ
XVII - XVIII. Giai cấp phong kiến mất vai trò lịch sử, lộ rõ bộ mặt phản động
và đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Đời sống nhân dân cực khổ lầm than. Ca
dao cũng đã ghi lại tình cảnh của nhân dân trong thời kỳ này như sau:
“Cái cò lặn lội bờ sơng,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”.
Hay những câu ca dao ghi lại nỗi lòng của người dân trong cảnh “nồi da
xáo thịt” trong cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn:
“Sơng Gianh nước chảy đơi dịng,
Đèn Chong đôi ngọn, biết trông ngọn nào?”
9
Lược đồ nước Đại Việt thời Trịnh - Nguyễn phân tranh
+ Sự xuất hiện của các trung tâm buôn bán sầm uất như Kẻ Chợ, Đồ Sơn,
Phố Hiến... đã đưa đến diện mạo mới cho xã hội Việt Nam. Cùng với đó là sự ra
đời của các cao lâu tửu qn - một hình thức giải trí mới của nhịp sống đô thị.
Những bậc vương tôn công tử, tao nhân mặc khách, các nho sinh và các quan
trong triều tới đây để kết bạn tâm giao, tìm thú vui giải trí. Mơi trường này đã tạo
ra một loại hình nhà nho mới - nhà nho tài tử. Cũng từ đây, nhà nho tài tử cho ra
đời thể loại độc đáo vào bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam - thể hát nói.
10
Mô phỏng Phố Hiến xưa (Ảnh: S.T)
Biểu diễn ca trù
+ Cung cấp những mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời mà nhà thơ
luôn tự hào về một sự nghiệp hiển hách: Năm 1819, ơng đỗ Giải ngun kì thi
Hương; năm 1833 là Tham tán quân vụ; năm 1835 làm Tổng đốc hai tỉnh Hải
Dương và Quảng Yên; năm 1481 thăng Tham tán đại thần chỉ huy quân sự ở
vùng Tây Nam bộ; năm 1848 chính thức làm Phủ dỗn Thừa Thiên. Đóng góp
11
lớn của Nguyễn Công Trứ trong việc củng cố vương triều Nguyễn, đưa dân đi
khai khẩn các vùng đất mới: Ơng là người có nhiều cơng lao đối với dân, với
nước. Năm 1828 ông dâng sớ lên vua Minh Mệnh xin “khai ruộng đất hoang để
yên nghiệp dân nghèo” và được phong làm Doanh điền sứ phụ trách khai khẩn
đất hoang ở miền ven biển các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Những bãi
biển hoang vu, với tài năng cùa vị Doanh điền sứ đã trở thành miền đất phì
nhiêu, trù phú. Nhân dân ở Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) ghi nhớ
cơng lao và lập đền thờ Nguyễn Công Trứ từ năm 1852, ngay khi ông còn sống.
Năm 1858 nghe tin thực dân Pháp đánh Đà Năng, mặc dù đã ngồi tám mươi
tuổi, Nguyễn Cơng Trứ còn dâng sớ xin được tòng quân đánh giặc, với lời lẽ rất
thơng thiết: “Thân già này cịn thở ngày nào thì xin hiến cho nước
ngày ấy”. Tiếc thay tháng 11 năm đó, ơng ngã bệnh và mất.
Như vậy, có thể nói, nhờ vào việc tích hợp kiến thức mơn Lịch sử mà nội
dung của văn bản thêm rõ ràng, học sinh khi tiếp cận tác phẩm không chỉ hiểu
đơn thuần về hình tượng nghệ thuật của tác phẩm, mà các em cịn có cơ hội biết
thêm hoặc khắc sâu thêm kiến thức lịch sử cho bản thân.
2.3.1.2. Văn hóa
Mục đích của việc tích hợp kiến thức về văn hóa là để học sinh có cái
nhìn cụ thể, bao qt hơn về đời sống văn hóa tinh thần, đạo đức nhân sinh, cách
hành xử của các nhà nho xưa và các nhà nho tài tử.
+ Trước hết tơi giải thích cho học sinh biết quan niệm về lễ, danh giáo của
nhà nho.
* Nho giáo (儒儒), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo
đức, triết học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề
xướng và được các môn đồ của ơng phát triển với mục đích xây dựng một xã
hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Châu Á là Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người
12
thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ
hay Nho sinh.
* Lễ là những quy tắc mang tính hình thức được xã hội thừa nhận để bày
tỏ sự tôn trọng đối với người khác, với cộng đồng hoặc với những định chế xã
hội và để nhận được sự tôn trọng của xã hội. Việc giữ lễ là một cách tu thân và
chứng tỏ con người biết tuân thủ những nguyên tắc đạo đức trong quan hệ với
người xung quanh
* Nhà nho đề cao đạo trung hiếu, tuy coi trọng tài nhưng vẫn đề cao đức
hơn. Khuôn mẫu ứng xử là sự nghiêm cẩn, khiêm tốn, lễ nghi phép tắc - Khắc kỷ,
phục lễ vi nhân (Thủ tiêu cái riêng tư, uốn mình theo lễ là có đạo nhân - Luận ngữ
- Khổng Tử). Cách ứng xử này đã thủ tiêu cái cá nhân, tình cảm tự nhiên.
+ Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, trong xã hội bên cạnh nhà
nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, đã xuất hiện loại hình nhà nho thứ ba - nhà nho
tài tử (cách gọi của Trần Đình Hượu) - những người có tài và ý thức được cái tài
của mình. Họ thường ôm ấp hoài bão lớn lao, lập nên sự nghiệp phi thường. Họ
đối lập với lễ, xem thường lễ, bỏ qua danh giáo mà theo tự nhiên.
+ Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, con người cá nhân, con người
trần thế được biểu hiện khá rõ nét trong văn học. Đó là con người ý thức về bi
kịch duyên phận, về khát vọng hạnh phúc (Tự tình II - Hồ Xuân Hương); con
người ý thức về tài năng cá nhân, bản lĩnh cá nhân, sở thích cá nhân (Bài ca
ngất ngưởng - Nguyễn Công Trứ). Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách
của bản thân, Nguyễn Cơng Trứ thích phơ trương, khoe sự ngang tàng, phá cách
trong lối sống của mình - một lối sống ít phù hợp với khn khổ của đạo Nho.
Từ đó, giáo viên giúp học sinh hiểu ngất ngưởng chính là sự ngang tàng, phá
cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi khắc kỉ, phục lễ của nhà nho để hình thành lối
sống thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân, vượt ra
ngồi khn khổ của lễ giáo phong kiến. Ta sẽ thấy thái độ đề cao thú chơi của
ơng có một ý nghĩa tích cực. Hai mảng thơ hành đạo (thực hiện sứ mệnh của
người anh hùng trên đời) và hành lạc (hưởng thú vui) luôn thống nhất trong
13
cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Công Trứ vừa khát khao công danh vừa vô
cầu, vừa hăng say nhập thế vừa biết thanh thản xuất thế…
2.3.1.3. Âm nhạc
Mục đích của việc tích hợp kiến thức mơn Âm nhạc vào trong bài giảng là
để làm cho bài giảng sinh động, hấp dẫn, giúp học sinh dễ cảm nhận các yếu tố
trữ tình trong tác phẩm hát nói. Trong ở bài học này các em sẽ có cơ hội trải
nghiệm loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam.
Cách thức tiến hành như sau:
+ Tôi cho học sinh quan sát, tìm hiểu về loại hình ca trù (kết hợp thuyết
minh) để học sinh hiểu hơn về thể hát nói cũng như ý thơ khi ca, khi tửu, khi
cắc, khi tùng.
Ca trù vừa là một loại thanh nhạc (vocal music), vừa là một loại khí
nhạc (instrumental music). Có một ngôn ngữ âm nhạc tế nhị, tinh vi.
* Thanh nhạc: Ca nương phải có một giọng thanh - cao - vang, khi hát
phải biết ém hơi, nhả chữ và hát tròn vành rõ chữ, biết nảy hạt (đổ
hột), đổ con kiến. Ca nương vừa hát, vừa gõ phách. Phải biết rành 5 khổ
phách cơ bản, đánh lưu không, tiếng phách phải chắc và giòn, lời ca và
tiếng phách phải ăn khớp với nhau.
* Khí nhạc: Kép đàn dùng đàn đáy phụ họa. Bản đàn không nhất thiết
phải đi theo bài hát, vì phải theo khổ đàn, nhưng khổ đàn - khổ phách tiếng ca hợp nhau, hài hòa nhuần nhuyễn. Có những cách đàn ca chân
phương - theo lề lối hay hàng hoa - sáng tạo và bay bướm.
* Quan viên là người cầm chầu, tiếng trống chầu vừa chấm câu khi tham
gia vào cuộc diễn tấu, nhưng có tính chất phê phán, khen chê đúng chỗ,
để khích lệ ca nương - kép đàn, giúp cho thính giả biết được đoạn nào
hay - thật hay và như thế được giáo dục âm nhạc trong cách nghe.
* Một chầu hát cần có ba thành phần chính:
Một nữ ca sĩ (gọi là "đào" hay "ca nương") sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp.
Một nhạc công nam giới (gọi là "kép") chơi đàn đáy phụ họa theo tiếng hát
14
Người thưởng ngoạn (gọi là "quan viên", thường là tác giả bài hát) đánh
trống chầu chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống.
Trống chầu, đàn đáy
Phách
+ Khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn bản, tôi vận dụng kiến thức âm
nhạc và cho học sinh xem vi deo biểu diễn bài hát nói “Bài ca ngất ngưởng”
+ Giáo viên cung cấp thêm thông tin ca trù được vinh danh “Di sản văn
hóa của nhân loại”.
15
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính
phủ Cơng ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9
tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể
cần bảo vệ khẩn cấp
2.3.1.4. Văn học tổng hợp
- Ở bài này tôi vận dụng tổng hợp kiến thức văn chương đã được học ở
cấp dưới, hoặc đọc thêm ngồi chương trình, để giúp các em hiểu thêm quan
niệm về chí nam nhi, làm trai trong văn học:
16
+ Chí nam nhi: mang tinh thần tích cực của Nho giáo: lập đức, lập cơng
(có cơng danh sự nghiệp), lập danh (có danh tiếng tốt đẹp), có khát vọng để theo
đuổi và thực hiện đến cùng những ước mơ, hồi bão.
+ Chí làm trai thường được thể hiện bằng những từ ngữ như: chí nam nhi,
chí làm trai, nợ anh hùng, nợ tang bồng, tang bồng hồ thỉ, nợ công danh... trong
các thể loại văn học như: ca dao, thơ, hát nói.
Trong ca dao:
Làm trai cho đáng nên trai,
Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng
Làm trai cho đáng nên trai,
Xuống đơng đơng tĩnh, lên đồi đồi n.
Trong Tỏ lịng (Phạm Ngũ Lão):
Cơng danh nam tử cịn vương nơ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu
Trong thơ của Nguyễn Công Trứ:
“Trong vũ trụ đã đành phận sự
Phải có danh mà đối với non sơng”
(Chí nam nhi)
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sơng”.
(Nợ tang bồng)
“Chí làm trai xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ”
(Chí khí anh hùng)
+ Tìm hiểu các điển tích, điển cố được sử dụng trong bài hát nói - một
trong những đặc trưng của thi pháp văn học trung đại để hiểu rõ quan niệm sống,
thái độ sống tích cực của nhà thơ.
17
. Được mất dương dương người thái thượng: người thái thượng (người
của thời xưa) nhưng cũng có bản chép người tái thượng - nhắc lại tích Tái ơng
mất mã đều cho ta thấy quan niệm sống tích cực: coi khinh chuyện được mất
trong cuộc đời.
Giáo viên yêu cầu học sinh (chuẩn bị bài ở nhà) tìm đọc câu chuyện: Tái
ơng thất mã và tự rút ra bài học cho bản thân.
Sách Hồi Nam Tử có chép một câu chuyện như sau:
Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ, có ni một con ngựa.
Một hơm con trai ơng lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên
con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất tăm. Những người trong xóm nghe tin đến
chia buồn với ơng lão.
Ơng lão là người thơng hiểu việc đời nên rất bình tĩnh nói: “Biết đâu con
ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi”.
Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa
của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ.
Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ơng lão, và nhắc lại lời ơng
lão đã nói trước đây.
Ơng lão khơng có vẻ gì vui mừng, nói: “Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy
sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.
Con trai của ơng lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn
mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa này chưa
thuần nết nên nhảy loạn lên. Một lần, con ông lão không cẩn thận để ngựa hất
xuống, té gãy xương đùi, bị què chân, tật nguyền.
Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa
không tốn tiền mua này lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế.
18
Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã
gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa này mà được phúc”.
Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lược Trung Nguyên. Các trai
tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống giặc Hồ. Quân
Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận,
riêng con trai ơng lão vì bị q chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình.
. Điển xưa trong câu thơ Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Hàn Tín (229 – 196 TCN) ca ngợi là Nắm trong tay trăm vạn quân đã
đánh là thắng, tiến cơng là nhất định lấy thì ta khơng bằng Hồi Âm Hầu, có
cơng lớn giúp Lưu Bang lập nên nhà Hán.
Phú Bật là người đất Hà Nam (đời Tống), rất chăm học và độ lượng
Nhạc Phi là người văn võ mưu trí, được mệnh danh là thường thắng
tướng quân với 126 trận đánh thắng.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng sống
+ Giáo dục kỹ năng sống là một quá trình tác động sư phạm có mục đích,
có kế hoạch nhằm hình thành năng lực hành động tích cực, có liên quan tới kiến
thức và thái độ, giúp cá nhân có ý thức về bản thân, giao tiếp, quan hệ xã hội,
thực hiện cơng việc, ứng phó hiệu quả với các yêu cầu thách thức của cuộc sống
hàng ngày…
+ Mục tiêu của môn Ngữ văn THPT là trang bị cho học sinh những kiến
thức phổ thông cơ bản, hiện đại về văn học và tiếng Việt. Bồi dưỡng cho HS tình
u tiếng Việt, văn hóa, văn học; tình u gia đình, yêu quê hương, yêu đất
nước; ý thức tự chủ tự cường; lí tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần nhân văn;
nâng cao ý thức trách nhiệm công dân… Dựa trên mục tiêu của môn học và đặc
điểm của bộ môn, môn Ngữ văn là một môn học phù hợp với việc giáo dục kỹ
năng sống.
+ Trong bài dạy, tôi lồng ghép giáo dục các em về thái độ sống:
19
Giáo viên: Sau khi tìm hiểu về thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn Công
Trứ khi tại triều và khi cáo lão về quê, em rút ra bài học gì cho bản thân?
Học sinh: sống phải có bản lĩnh, tự tin; phải có tinh thần trách nhiệm với
bản thân, gia đình, xã hội…
Giáo viên: Vậy để có bản lĩnh, phong cách sống, cần có phải làm gì?
Học sinh: Trau dồi tri thức, rèn luyện nhân cách, có hồi bão lớn lao, kiên
trì… để đạt được mục tiêu, lí tưởng đo mình đặt ra; vừa biết cống hiến, vừa biết
hưởng thụ…
+ Để tránh việc hiểu sai về quan điểm sống của Nguyễn Công Trứ dẫn
đến vận dụng sai lầm, giáo viên yêu cầu học sinh phân biệt sống ngất ngưởng
với lối sống lập dị:
. Sống ngất ngưởng là sự khác đời của người hơn đời nên bộc lộ cá tính
và bản lĩnh cá nhân hết sức mạnh mẽ. Thực chất là phong cách sống tơn trọng cá
tính, khơng ép mình một cách thái quá hoặc giả tạo trong khuôn khổ của chủ
nghĩa khắc kì phục lễ, là sống trung thực với chính mình.
. Người sống lập dị là người khơng có tài hơn đời mà lại cố khác đời, chỉ
cốt mọi người để ý đến mình, thường chạy theo cái khác lạ, nhiều khi sinh ra lố
lăng, thậm chí xâm hại đến cá nhân người khác.
Khẳng định, đề cao niềm vui sống, Nguyễn Công Trứ vẫn không quên trách
niệm của kẻ sĩ. Ơng thường đặt mình trong vịng trời đất, trong vũ trụ để xác
định phận sự của kẻ sĩ với ý thức trách nhiệm và niềm tự tin lớn lao. Đó là lối
sống mà thế hệ trẻ cần noi theo.
20
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.1.1. Kết quả thu được:
- Khi áp dụng giảng dạy tác phẩm Bài ca ngất ngưởng theo hướng tích
hợp kiến thức của các môn khoa học (như Lịch sử, Âm nhạc, giáo dục kỹ năng
sống…) và tích hợp các phương pháp dạy học tích cực (như: đọc diễn cảm, thảo
luận nhóm, gợi mở…) bản thân tôi nhận thấy:
+ Giờ học sinh động, học sinh phát huy được vai trị chủ động của mình
trong việc lĩnh hội tri thức.
+ Rèn luyện kĩ năng tra cứu tài liệu, tổng hợp kiến thức, cảm thụ văn học
và làm văn cho học sinh
+ Góp phần vào đổi mới phương pháp dạy học ở bộ môn Ngữ văn.
- Tuy nhiên, việc dạy học tích hợp cũng gặp phải một số khó khăn:
+ Thời lượng chương trình ít, lượng kiến thức tích hợp nhiều giáo viên
cần cân nhắc và chọn lọc để đảm bảo kiến thức trọng tâm và đảm bảo thời lượng
của chương trình.
+ Khơng phải bài nào cũng áp dụng tất cả các phương pháp dạy học tích
cực, mà tùy từng nội dung bài dạy, giáo viên sẽ có các phương pháp thích hợp
và hiệu quả.
3.1.2. Bài học kinh nghiệm:
Để vận dụng hiệu quả phương pháp dạy học tích hợp liên mơn vào giảng
dạy bộ mơn Ngữ văn nói chung, cần tuân thủ các nội dung đã đề cập nêu trên.
Đặc biệt, cần xác định tính cần thiết, mục tiêu, nội dung và phương pháp của
việc sử dụng tích hợp liên mơn.
21
- Cần xác định lượng kiến thức liên môn cần tích hợp và sử dụng các
phương pháp dạy học tích cực phù hợp để phát huy hiệu quả.
- Khi sử dụng phương pháp này, phải dựa vào đặc điểm, mục tiêu cần đạt
cụ thể của từng bài học.
- Việc vận dụng nội dung của sáng kiến này tùy thuộc rất lớn vào nỗ lực
của người dạy. Rất mong được đem đến cho thầy cơ những kinh nghiệm bổ ích,
đồng thời, mong q thầy cơ góp ý để nội dung đề tài được hoàn thiện.
3.2. Kiến nghị
Để việc vận dụng phương pháp dạy học tích hợp liên mơn ở mơn Ngữ văn nói
riêng và các mơn học nói chung đạt hiệu quả, tơi xin có một vài đề xuất như sau:
Một là, thiết kế nội dung chương trình sách giáo khoa các mơn học theo
hướng tích hợp liên mơn.
Hai là, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có năng lực vận dụng tích
hợp kiến thức liên mơn.
Ba là, cần đổi mới đồng bộ nội dung bài học với hình thức kiểm tra đánh giá.
Bốn là, tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với việc áp
dụng phương pháp dạy học tích hợp liên mơn.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Ngữ văn 11 cơ bản, tập 1, NXB Giáo dục 2006.
2. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Giáo dục, 2006.
3. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2002.
4. Tài liệu tham khảo trên internet.
PHỤ LỤC
GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
Tiết PPCT: 13,14
Ngày soạn:
Tuần dạy: 04
Lớp dạy: 11HO
23
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
(Nguyễn Công Trứ)
1. MỤC TIÊU
1.1. Kiến thức
- Cảm nhận được tâm hồn tự do, phóng khống cùng thái độ tự tin của
Nguyễn Công Trứ.
- Nắm được đặc điểm của thể hát nói
1.2. Kĩ năng:
Đọc hiểu, cảm thụ, phân tích văn bản theo đặc trưng thể loại.
1.3. Thái độ:
Yêu mến, trân trọng nhân cách, tài năng Nguyễn Công Trứ.
2. CHUẨN BỊ
2.1. Giáo viên
- Phương pháp: Phối hợp các phương pháp dạy học: nêu vấn đề, thảo luận
nhóm, gợi mở, thuyết trình, giảng…
- Phương tiện: máy chiếu.
2.2. Học sinh
Tra google.com.vn để tìm các tài liệu:
- Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Cơng Trứ.
- Tìm hiểu về thể hát nói.
- Có thể tập đọc nhập vai theo đặc trưng thể loại.
- Soạn bài theo câu hỏi “hướng dẫn học bài” trong SGK.
3. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
3.1. Ổn định tổ chức: KTSS
3.2. Kiểm tra miệng: (kết hợp trong tiết học)
3.3. Tiến trình dạy học:
Nguyễn Cơng Trứ từng viết:
Kiếp sau xin chớ làm người.
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
24
Vì sao ơng lại muốn làm cây thơng? Vì để đón gió bốn phương, để ở độ
cao vời vợi, để cất tiếng hát tự do theo gió hay để ngất ngưởng bốn mùa. Phải
chăng Bài ca ngất ngưởng là thái độ của cây thông đứng giữa trời mà reo. Ta
hãy cùng tìm hiểu.
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG KIẾN THỨC
25