Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thành tựu và đặc điểm lịch sử sử học việt nam thời lê trung hưng đến thời nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.87 KB, 13 trang )

Lê Trung Hưng
I, Hoàn cảnh
-Lê Trung Hưng là giai đoạn lịch sử kéo dài nhất trong Lịch sử Việt Nam từ 15331789 (256 năm)
-Được thành lập khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần Lê Sơ Nguyễn Kim.
Là thời kì phục hồi vương triều Lê sơ 1428-1527
-Vua Lê ko có thực quyền, quyền hành nằm trong tay chúa Trịnh, quyết định mọi
chính sách về KT, VH, XH,GD…
- Là giai đoạn chia cắt, các cuộc nội chiến vẫn thường xuyên xảy ra giữa các tập
đoàn phong kiến.
II,Thành tựu sử học
-Các sử thần triều Lê Trung Hưng đã tiếp tục biên soạn phần lịch sử nước nhà từ
Lê Thái Tổ đến Lê Cung Hoàng gọi là “Đại Việt sử kí bản kỷ thực lục”. Từ phần
sau đời Lê Cung Hồng đến hết Lê Gia Tơng gọi là “Đại Việt sử kí bản kỷ tục
biên” do Phạm Cơng Trứ, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức tiếp nối nhau biên soạn
-“Đại Việt sử kí tồn thư” tiếp tục được biên soạn, bổ sung bởi Lê Tung, Phạm
Công Trứ (1600-1675);Lê Hy (1646-1702)=>bộ Quốc sử của dân tộc ta được in lần
đầu năm 1697
-Hồ Sỹ Quý biên soạn bộ “Trung hưng thực lục” ghi lại sự nghiệp của họ Trịnh
-Lê Hy và Nguyễn Đức đã biên soạn bộ “Đại Việt sử kí tục biên”
-Lê Quý Đôn-nhà sử học nổi tiếng thời Lê với nhiều tác phẩm nổi bật như:
+Đại Việt thông sử:
 là bộ sử đầu tiên của VN được biên soạn về 1 triều đại theo lối chí truyện
 là bộ sử có giá trị, biên soạn có cơng phu được coi là “đáng làm toàn thư cho
1 đời”
+Phủ biên tạp lục (1776):
 phản ánh khá rõ LS chính trị,kinh tế, văn hố Đàng Trong từ TK 17 về trước
 để lại nhiều tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu
+Kiến văn tiểu lục(1770):
 nhiều tư liệu lịch sử và thể lệ, chế độ ở các triều đại PK VN trước TK 18
 Chứng minh VN có nền văn hiến lâu đời
-Tác phẩm “Thiên nam hạ tập”=> ghi lại chế độ, luật lệ văn thư của nhà Lê


-Một nhà sử học lớn khác là Ngô Thời Sĩ (1726-1780) với các TP tiêu biểu:
 “Việt Nam tiêu án”,
 “Đại Việt sử kí Tiền biên”,
 “Lê kỷ tục biên”


=> những cơng trình đã đóng góp cho nền sử học nước nhà tư liệu quý báu và
những luận điểm đúng đắn, bổ sung cho những sự kiện LS từ trước 1676-1739, là
những giai đoạn bộ sử trước đó chưa có
-Và cịn nhiều tác phẩm khác chưa rõ Tác giả:
 “Thiên nam minh giám”: nói về quốc thống và nhân tài từ Hồng Bàng đến
đầu Lê Trung Hưng
 “Thiên nam ngữ lục”: là tập diễn ca lịch sử bằng chữ nơm dài 8136 câu thơ
lục bát. Manh tính chất sử thi, gồm 1 hệ thống tiểu truyện về các nhân vật
lịch sử
III.Đặc điểm
sử học thời kỳ Lê Trung Hưng đều mang tinh thần dân tộc , đặc biệt là tinh
thần yêu nước , ghi chép lại toàn bộ những vấn đề đã diễn ra trong quá khứ.
-

Sử học thời này đều mang nặng tư tưởng Nho giáo , mà nhà Hậu lê muốn áp đặt
nhằm cai quản đất nước.

-

Phản ánh bộ mặt về kinh tế , chính trị , văn hố , xã hội Đàng Trong và Đàng
Ngồi ra , đặc biệt là vùng xứ Thuận – Quảng rộng lớn.

-


Các sử gia đều viết theo lối văn vần bằng chữ quốc ngữ - chữ Nôm

IV. đánh giá lịch sử sử học thời Lê Trung Hưng
-

Nền sử học thời kỳ Lê Trung Hưng được các nhà sử gia viết chân thật , phản ánh
đúng đời sống của nhân dân ta thời kì này. Tuy nhiên , những tác phẩm này được
viết theo những phương pháp mới , sinh động , hấp dẫn , sắc xảo hơn trước.
Ví dụ : Với tác phẩm Đại Việt sử ký tiền biên của sử gia Ngô Thời Sĩ đã miêu tả
Hai Bà Trưng : “ Thế mà Bà Trưng là đàn bà goá , búi tóc cao lên , trai tráng trong
nước đều phải cúi đầu nghe theo bà chỉ huy, những người lớn ở năm mươi mấy
thành cũng phải nín hơi , khơng dám trái lệnh.”

-

Các nhà sử gia đều tiến hành biên soạn lại những tác phẩm có từ kỳ trước theo
phong cách của riêng mình.

-

Mặc dù nền sử học của Lê Trung Hưng khơng có nhiều tác phẩm nhưng nó đã
cho thế hệ sau những tác phẩm nhằm cung cấp lịch sử quá khứ của mỗi triều đại ,
mỗi cuộc kháng chiến .


-

Để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ sau về cách nghiên cứu sử học hay
những kinh nghiệm trong quá trình kháng chiến .


-

Lịch sử sử học của thời Lê Trung Hưng đều được các nhà sử gia tiếp cận theo
một cách riêng biệt và phản ánh lại những thời kỳ trước bằng cách nhìn chủ quan
của chính bản thân mình .

=> Như vậy , sử học thời Lê Trung Hưng đã có bước tiến quan trọng , đóng góp to lớn
vào nền sử học nước nhà. Lịch sử dân tộc được ghi chép kĩ càng , thể hiện ý thức
độc lập, tự chủ , lòng yêu nước , tự hào dân tộc chính đáng.
Thời Tây Sơn
1. Hồn cảnh lịch sử:
- Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm
trọng, các cuộc chiến tranh phong kiến...kéo dài suốt hai thế kỷ để lại hậu quả
nghiêm trọng.
- Cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến làm cho mâu thuẫn xã hội cực kỳ gay
gắt, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tiếp...Tuy thất bại nhưng thể hiện sức
mạnh vươn lên của nông dân Việt Nam chống áp bức...
- Năm 1771, ở Ấp Tây Sơn (Bình Định) ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ đã dựng cờ khởi nghĩa. Được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham
gia, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, khởi nghĩa Tây Sơn đã
nhanh chóng lớn mạnh, lật đổ chúa Nguyễn, đuổi quân Xiêm xâm lược, đánh đổ
chúa Trịnh, xóa bỏ triều Lê, tiêu diệt quân xâm lược Thanh, lập công đầu trong sự
nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử bấy giờ, phong trào nông dân Tây Sơn vẫn dẫn
tới việc thành lập các vương triều với Trung ương hoàng đế Nguyễn Nhạc, Đông
Định vương Nguyễn Lữ và Quang Trung. Trong các vương triều này, chỉ có triều
đại của Quang Trung là xây dựng được một tổ chức chính quyền quy củ, đã ra sức
phục hồi kinh tế, chấn hưng văn hóa, thực hiện những cải cách tiến bộ trong việc
quản lý đất nước.


2. Thành tựu sử học:


Trong đó, Sử học cũng được chú trọng nhằm giáo dục cho nhân dân long tự hào
dân tộc. Nhưng triều Tây Sơn không tồn tại được lâu nên thành tựu lịch sử trong
thời kì này cũng khơng nhiều.
“Đại Việt sử ký tiền biên”
- Năm Cảnh thịnh thứ 8 (năm 1800), triều đình Tây Sơn đã hồn thành việc khắc in
sách “Đại Việt sử ký”, ngày nay ta gọi là “Đại Việt sử ký Tiền biên” gồm 17 quyển

- Đại Việt sử ký Tiền biên viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Nội dung tổng luận về
lịch sử Việt Nam từ khi "Nước Xích Quỷ dựng nền, họ Hồng Bàng mở vận", đến
khi nhà Lê chấm dứt.
+ Sách ấy đã được tóm tắt tồn bộ, thành bài “Tiệp lục tổng tự”, có diễn dịch chú
giải ra chữ Nơm. Bản dịch chữ Nơm có đủ ngun văn chữ Hán, đã được khắc in
khoảng cuối đời Cảnh Thịnh.
+ Sách với bản in đầy đủ do nhiều tác giả làm đi sử lại vào nhiều thời gian khác
nhau. Những tác giả đó thuộc dịng họ Ngơ Thì.
- Bài Tiệp lục tổng tự in đời Tây Sơn dựa trên nhiều kinh nghiệm lịch sử cụ thể và
đơi khi có so sánh sự kiện lịch sử Việt Nam với Trung Quốc. Có lẽ sách Tiệp lục
tổng tự là quyển độc nhất về loại chữ Hán, vừa chữ Nôm ở kho sách sử của dân
tộc.

3. Đặc điểm sử học dưới thời vương triều Tây Sơn
- Vương triều Tây Sơn đã có đóng góp lớn cho kho tàng văn hóa của dân tộc đó
là vương triều này cho ra đời một tác phẩm sử học tầm cỡ có giá trị: Đó là bộ Đại
Việt sử ký tiền biên. Tác phẩm một quan điểm rất mới, rất tiến bộ chứng tỏ tinh
thần phê phán, lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc rất chính đáng của tác giả. Tư
tưởng này được quán triệt trong toàn bộ nội dung bộ quốc sử của vương triều Tây
Sơn.

- Qua đó, tác giả đã cố ý tập hợp lời bàn của nhiều sử gia nổi tiếng như lê Văn
Hưu đời trần, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Lê Tung, Nguyễn Nghiễm đời Lê và
chủ yếu lời bàn của chính tác giả. Mỗi sự việc xẩy ra, mỗi đời vua, mỗi triều đại,
mỗi nhân vật v.v… tác giả đều có những lời bàn xác đáng, lý luận chặt chẽ, lời lẽ
đanh thép.


- Sử học thời này thể hiện một tinh thần phương pháp viết sử mới, tiến bộ. Tác giả
đã phê bình lối viết cẩu thả khơng khảo cứu, thiếu khoa học của các sử gia thời
trước. Lời bàn trong Đại Việt sử ký tiền biên vô cùng phong phú và đa dạng, đặc
biệt là lời bàn của tác giả, thể hiện quan điểm dân tộc, tình yêu nước thương dân,
căm ghét kẻ thù, bênh vực lẽ phải, khen chê đúng mức
- Một giá trị đặc biệt nữa của Đại Việt sử ký tiền biên mang lại là tác giả đã tra
cứu bổ sung được khá nhiều sự kiện, cải chính được khá nhiều sai sót của sử cũ mà
chính bộ Việt sử thông giám cương mục đời sau đã phải theo.

4. Đánh giá
- Thời Tây Sơn tuy tồn tại ngắn nhưng bên cạnh những chiến công lừng lẫy đánh
bại được các tập đoàn phong kiến trong nước, các đạo quân xâm lược, triều đình
cịn ra sức xây dựng nền văn hóa dân tộc và để lại được tác phẩm sử học có giá trị
- Bộ Đại Việt sử ký tiền biên của Ngơ Thì Sĩ được sử qn triều Tây Sơn in là
một bộ quốc sử rất giá trị. Nó không những thể hiện được quan điểm tiến bộ của
tác giả mà còn là bộ sử luận phong phú và có tính khoa học cao.
- "Đại Việt sử ký tiền biên" của Triều đại Tây Sơn - Quang Trung đã đi xa hơn
nhiệm vụ viết sử thông thường khi đặt ra những viên gạch nền tảng đầu tiên cho ý
chí thoát khỏi thuyết thiên mệnh của người Hán, thoát khỏi những tư tưởng thần
phục dựa trên cơ sở bá quyền đã tồn tại từ ngàn năm Bắc thuộc cho đến tận sau
này. Hoàn thành sứ mệnh của một bộ sử lưu truyền tinh thần của thời đại mà mình
được xây dựng nên. Đó là tính tất yếu của lịch sử Việt Nam.
- Những dấu ấn lịch sử về một vương triều đã có cơng phục hưng “tư thế hiên

ngang” của quốc gia Đại Việt, với niềm kiêu hãnh “Nam quốc anh hùng chi hữu
chủ” vẫn còn âm vang và tồn tại mãi trên đất Phú Xuân - Thuận Hóa xưa, Thừa
Thiên Huế ngày .nay
Thời Nguyễn
Hoàn cảnh lịch sử
Sau khi đánh bại triều Tây Sơn Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn Khôi phục chế
độ phong kiến trong cả nước và duy trì sự thống trị của mình trong gần một thế
kỷ 1802 1885 đến khi đầu hàng làm tay sai cho thực dân Pháp. Các vua đầu thời
Nguyễn tăng cường bộ máy đàn áp chế độ bóc lột nặng nề, thi hành chính sách


kinh tế chính trị xã hội của mình. Nhân dân nhất là nơng dân lâm vào cảnh đói
khổ các cuộc khởi nghĩa chống triều đình khơng ngừng nổ ra khắp nơi.
Tuy nhiên các vua Đầu nhà Nguyễn trong lúc ra sức lập lại trật tự phong kiến
cũng khôi phục kinh tế phát triển văn hóa giáo dục, củng cố sự thống trị của nho
giáo nhằm tạo ra sức sống chế độ bộ điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống
tinh thần và sự phát triển của nền văn hóa dân tộc chưa bao giờ nền văn hóa dân
tộc phát triển rực rỡ như thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 với nhiều tên tuổi lẫy
lừng: Nguyễn Du với Truyện Kiều, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan
với Qua Đèo Ngang…Nền văn hóa dân tộc khơng vì sự suy yếu của các Vương
Triều mà ngừng phát triển trái lại nhờ có tiếp thu di sản truyền thống văn hóa
lâu đời mà ngày một trưởng thành cùng với sức sống mãnh liệt của dân tộc.
Trong sự phát triển chung ấy sử học Việt Nam tiếp tục đi lên trong bối cảnh xã hội
thời Nguyễn có những biến đổi sâu sắc nhất là sự xâm nhập xâm lược của thực dân
Pháp sử học Việt Nam trong thế kỷ 19 không chịu ảnh hưởng của bối cảnh lịch sử
đó.
Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến làm cho triều Nguyễn đứng trước một yêu
cầu cấp thiết là phải canh tân đất nước vì vậy khi triều đình Huế của lắng nghe
nghe mà không thực hiện những đề nghị cải cách cách tiêu biểu là của Nguyễn
Trường Tộ về nhiều mặt trong đó có yêu cầu cải cách giáo dục Mặt khác triều đình

do sự chi phối của tư tưởng Nho Giáo cũng quan tâm lịch sử xem đó là kinh
nghiệm quý báu của đời xưa cho sự thống trị hiện tại của mình, cho việc rút từ quá
khứ những tấm gương anh lớn để trị nước an dân để “ru ngủ” nhân dân trong đạo
lý Trung Quân Ái Quốc. Triều đình Nguyễn tiếp thu di sản văn hóa to lớn của dân
tộc, trong đó có sử học 800 năm độc lập tự chủ trước đó của nhân dân ta.
1. Thành tựu
Trước hết triều đình Nguyễn chăm lo tổ chức bộ máy chép sử để biên soạn Quốc
sử và sử của đương triều. Sách Đại Nam thực lục chép rằng:” Năm Minh Mệnh thứ
hai (1821) lần đầu tiên mở ra sử quán sai quan sử thần làm bộ thực lục… chia ra
làm tiền biên và chính biên cân nhắc ý nghĩa và điều lệ để làm khn phép cho
nghìn mn đời sau. Tiếp đó đó 20 năm sau vào năm Thiệu Trị thứ nhất 1841.
Triều đình bắt đầu đặt quan và thuộc viên ở sứ quán, vua dụ rằng: “nước nào cũng
có sử chép. việc ấy đã có từ đâu, cốt chép lại chính sử để dạy bảo cho đời sau nay
cho lấy Quốc sử quán làm nơi Soạn Sử”
Bộ máy sử quán triều Nguyễn do Thiệu Trị lập ra vào năm 1874 có hai tổng tài, 2
Phó Tổng Tài, 4 toản tu, 8 biên tu, 4 khảo hiệu, 6 Đằng lục, 4 thu trường kiêm biên
sự.
Nhà vua giao cho sự quán phải soạn tiếp Đại Nam thực lục cho hoàn thành và
tiến hành soạn chép đại nam Liệt Truyện sử quán cũng có nhiệm vụ sửa chữa
và cho phép in các bộ thực lục.


Điều mà các vua đầu đời Nguyễn rất quan tâm là bên cạnh việc biên soạn sử của
vương triều mình còn phải chăm lo biên soạn một bộ sử chung của dân tộc trên cơ
sở tiếp thu các thành tựu của đời trước, bổ sung sửa chữa thêm cơ nghiệp nhà
Nguyễn để giáo dục nhân dân để mọi người phải hiểu lịch sử nước nhà chứ không
phải chị biết lịch sử Trung Quốc về việc này năm 1855 Tự Đức ra chỉ dụ như sau:
“Đời nào khởi nghiệp tất phải có sự đời ấy. Nước Việt Ta từ Đời Hồng Bàng trở về
sau đời Trần từ Lê trở về trước trong khoảng hơn mấy nghìn năm chính trị hay dở
ở nhân vật giỏi hay không giỏi, bờ cõi trong nước vẫn nguyên như cũ hay đổi khác

chế độ chấm chỉnh hay đổ nát, sử cũ chép lại vẫn còn thiếu rất nhiều đến như hình
thức văn từ và nghĩa lý thể hiện trong sách sai Lầm Cũng khơng phải ít”.
Nêu sự cấp thiết phải bắt tay ngay vào việc biên soạn Quốc Sử. công việc biên
soạn Quốc Sử bắt đầu trong những năm nửa đầu thế kỷ 19 và phải đến nửa sau thế
kỷ XIX các bộ sử mới hoàn thành.
1.1. Sử chính thống của Quốc sử quán.
2.1.2 Đại Nam thực lục có 2 phần tiền biên và chính biên:
 phần tiền viên được biên soạn từ 1821 đến 1824 phần này chép lịch sử các
chúa từ 1558 đến 1777.
 phần chính biên Đệ Nhất Kỷ khỉ bắt đầu từ năm 1821 đến 1847 mới xong
chép sử từ 1778 đến 1819 vào đời vua Gia Long. Chính biên đệ nhị kỷ bắt
đầu từ 1841 đến 1861 chép sử từ 1820 đến 1840 thời vua Minh Mệnh. Đệ
tam kỷ hoàn thành trong thời gian 1849 đến 1877 in năm 1879 chép lịch sử
đời vua Thiệu Trị (1841 -1847). Đệ Tứ Kỷ chép đời vua Tự Đức (1847 1883) xong năm 1894 in năm 1899 các đời sau lại tiếp tục biên soạn cho đến
thực lục đệ thất kỷ chép về vua Khải Định.
Đại Nam thực lục biên soạn theo lối biên niên ghi chép các sự kiện về chính trị
kinh tế an ninh quốc phòng đối ngoại xảy ra dưới thời các vua Nguyễn. Các vua là
nhân vật trung tâm của việc chép sử. Tuy nhiên qua thực lục chúng ta cũng tìm
thấy một số tài liệu phản ánh nhiều mặt của đời sống xã hội nước ta lúc bấy giờ: Lễ
tế Nam Giao cày ruộng Tịch Điền chú trọng an ninh quốc phịng, phát triển nơng
nghiệp, lịch sử quan chế, khoa cử.
Đại Nam thực lục lấy việc biên soạn chính xác làm chính “đã là thực lực thì các
việc cứ lấy sự thật mà chết cho có trước sau mới trở thành tín sử”. cho nên tên các
tư liệu ghi chép về hành động cử chỉ của nhà vua do viện đô sát đảm nhận được
chuyển sang quốc sử quán làm sử liệu mà không qua nhà vua.
2.1.2. Đại nam Liệt Truyện
Đại Nam Liệt Truyện gồm 3 phần:
 Đại Nam Liệt Truyện tiền biên soạn từ 1841 đến 1852
 Đại Nam chính biên Liệt Truyện sơ tập hồn thành trong thời gian
1852 1899



 Đại Nam Liệt Truyện nhị tập bắt đầu soạn từ 1895 và bắt đầu in 1909
Đại nam Liệt Truyện chép tiểu sử sự nghiệp của các hậu phi, hoàng tử, công chúa,
chư thần cao tăng, ẩn giật, nghịch tử, gian thần.
2.1.3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Bắt đầu khởi thảo từ 1858 đến 1884 mới hoàn thành Tự Đức chủ trì việc biên
soạn. nhà vua xem xét việc ghi chép viết phần “ngự phê” là những lời nhận định
đánh giá một số nhân vật và sự kiện lịch sử Tự Đức còn gợi ý và quyết định phần
phàm lệ và việc phân kì.
Bộ sách này gồm có 2 phần là tiền biên và chính biên:
 Tiền biên gồm 5 quyển chép từ Hùng Vương (1876-258 TCN) đến thời 12
Sứ Quân (966-967)
 Chính biên gồm 47 quyển chép từ thời Đinh Tiên Hoàng (970-979) đến Lê
Mẫn Đế (1787-1789).
Toàn bộ có 53 quyển
Xuất phát từ quan điểm chính thống cho rằng lịch sử là tấm gương lớn viết sử là
để nêu gương cho mọi người từ vua đến dân chúng- soi mà noi theo cho nên in bộ
sách sử này mang tên Khâm định Việt sử thông giám cương mục có nghĩa là vâng
lệnh vua viết lịch sử nước nhà để treo gương sáng cho mọi người nghe theo quan
điểm nêu gương và soi gương qua lịch sử ở bộ sách này hoàn toàn theo tiêu chuẩn
Cường thường đạo lý của nho giáo. Từ đó mà xem xét đánh giá mọi người và sự
việc. vì mục đích dùng sử để đề cao cho Vương triều Nguyễn cho nên trong cương
mục có những chỗ lịch sử vị xuyên tạc việc nhận định đánh giá thiếu Công Minh
khách quan. với tư tưởng chính thống cương mục đã liệt tất cả những ai chống
Chúa Nguyễn vua Nguyễn là giặc là nghịch thần Tây Sơn bị xem là ngụy triều.
Với mục đích thích viết cương mục để giữ vững vương triều nhà Nguyễn nêu
gương cho mọi người sau như vậy nên sách đã bị hạn chế khơng ít về việc khơi
phục lại q khứ Lịch sử của dân tộc mà các triều đại trước phần nào đạt được
trong sách sử để biên soạn.

Quốc sử quán Nhà Nguyễn đã để lại một di sản quý về sử học trong đó có cương
mục. Nét nổi bật của các nhà chép sử qua cương mục là thể hiện lòng yêu nước
tinh thần độc lập tự chủ tự hào dân tộc.
Cương mục được tổ chức biên soạn chặt chẽ chu đáo gần 30 người tham gia làm
trong 20 năm với những tên tuổi nổi tiếng như Phan Thanh Giản, trương quan Đản,
nguyễn thông Trần Văn Vi. Trong quá trình biên soạn cương mục quốc sử quán thu
nhận được nhiều sách ở các địa phương gửi đến cũng như tham khảo 24 Bộ sử
chính của Trung Quốc ốc để tìm các tài liệu lịch sử có liên quan đến nước ta.
Nguyên tắc sưu tầm chỉnh lý tài liệu tuân thủ chặt chẽ việc: “Tìm ngược lên nguồn
gốc từ trăm đời về trước rồi châm trước với lời bàn luận của mọi người. Ví như


người làm nhà gom góp mọi vật liệu để soạn dùng vào từng việc, lại giống như
người luyện kim khí lọc đi lọc lại hàng trăm lượt để đi đến chỗ tinh vi”
Phương pháp chép sử theo lối biên niên song cương mục đã chú ý đến việc kết hợp
chép theo tuế thứ, chép thứ tự thời gian theo hệ Can, chi của phép lịch xưa) và niên
thứ (theo thứ tự hàng năm của niên hiệu một đời vua).
Trong khi nêu rõ những sai lầm thiếu sót của cương mục do quan điểm hay trình độ
người biết chúng ta đánh giá cao bộ sử này, trân trọng di sản quý báu của dân tộc
để tra cứu sử dụng một cách chính xác khoa học.
Bộ Khâm định Việt sử thơng giám cương mục cùng với Đại Việt Sử Ký Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư đã nêu cao tinh thần dân tộc góp phần làm cho nhân dân ta chú
trọng quý mến lịch sử. Đây là một sự làm cơ sở cho việc biên soạn nhiều sách sử
thời Nguyễn.
2.1.4. Loại Sử diễn ca đã có từ lâu ở Việt Nam rất được nhân dân yêu
chuộng Vua Tự Đức đã chú ý đến việc biên soạn lại sách sử này để
phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Năm 1858 Lê Ngô Cát sửa chữa quyển sử ký quốc ngữ ca của một tác giả
khuyết danh thời Lê về lịch sử diễn ra từ đời Hồng Bàng đến khi Mạc Đăng
Dung cướp ngôi vua Lê. Lê Ngô Cát sửa chữa bổ sung và diễn ca tiếp phần

lịch sử thời vua Lê-Chúa Trịnh cho đến hết Lê Chiêu Thống. Về sau Phạm
Xuân Quế đọc lại và nhuận sắc chút ít ít bản này có 8774 câu lục bát. Tiếp
sau Phạm Đình Tối đọc lại, sửa chữa bổ sung rút gọn thành một tác phẩm
có 2054 câu lục bát và đặt tên là “Đại Nam quốc sử diễn ca”.
Đại Nam quốc sử diễn ca là một loại sách Lịch Sử phổ thơng trích tóm tắt
những sự kiện lớn đã xảy ra từ thời Hồng Bàng đến thời chiếu thống
1788. Vì sách được soạn theo mục đích đã quy định của nhà vua Tự Đức nên
nó chỉ chủ yếu nhằm vào việc ca ngợi công lao của nhà Nguyễn từ khi trấn
thủ ở Đàng Trong cho đến lúc thống nhất của cả nước coi đó là việc làm hợp
lịng trời lịng người. Chính vì vậy mà các tác giả Đại Nam quốc sử diễn ca
khơng thể có thái độ khách quan đối với Tây Sơn Sơn và sự xâm lược của
triều mãn tang khơng nhìn thấy vai trị trò của nhân dân ta trong lịch sử.
Đại Nam Nam quốc ngữ diễn ca cũng thể hiện được lòng yêu nước và tự
hào dân tộc của nhân dân ta. các tác giả đã có những câu thơ Hào Hùng về
truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm. Đây là một tác phẩm
diễn ra lịch sử có giá trị về mặt sử học và văn học.
2.1.5. Một số sách sử khác
- Lê sử Toàn yếu
Chép lịch sử thời Lê từ Lê Thái Tổ đến Lê Chiêu Thống sách biên
soạn theo phương pháp biên niên chia thành Cương mục. sách sưu
tầm được nhiều tài liệu về triều Lê xong có nhiều dã xử. sách cũng


đóng góp vào việc tìm hiểu nhiều vấn đề của triều Lê mà không định
Việt sử thông giám cương mục khơng chép.
- Hồng Lê Nhất Thống Chí
Hồng Lê Nhất Thống Chí cịn gọi là An Nam Nhất Thống Chí là một
tác phẩm ký sự lịch sử ra đời vào khoảng đầu thế kỷ 19. tác giả là một
người thuộc họ Ngô huyện thanh oai Hà Tây ngày nay trong Ngô Gia
Văn phái chưa rõ là ai có ý kiến cho rằng tác giả là Ngơ Thì trí có

người lại cho là Ngơ Thì Nhậm.
Hồng Lê Nhất Thống Chí minh họa sinh động đặc sắc bức tranh về
xã hội Việt Nam trong ba Thập kỷ của thế kỷ 18 và mấy năm đầu thế
kỷ 19. tác giả đã làm sống lại những việc thực người thực về việc
Trịnh Sâm bỏ con cả lập con thứ phe cánh Đặng Thị Huệ, loạn kiêu
binh nhất là Việc Nguyễn Huệ mấy lần đuổi kéo quân ra Bắc Hà diệt
họ Trịnh, phù Lê và đánh bại hoàn toàn quân Thanh xâm lược 1789,
số phận của Lê Chiêu Thống.
có thể nói những sự kiện quan trọng trong lịch sử nước nhà từ thời Lê
Hiến tông đến đầu Gi ảnha Long được thuận lợi khá trung thực và tỉ
mỉ Đó là một quyển sử biên niên được thể hiện dưới hình thức văn
học sinh động.
các tác giả Hồng Lê Nhất Thống Chí thể hiện thái độ khách quan
trong việc miêu tả cảnh triều đình phong kiến mục nát dân tình huống
khổ và hình ảnh đẹp đẽ của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ Quang
Trung nên có những lời lẽ trân trọng nhận xét sắc đáng.
- Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là cơng trình xuất sắc của nhà sử
học Phan Huy Chú.Đây là một cơng trình được hồn thành trong 10
năm 1809-1819 có tính chất tổng hợp mọi mặt của đời sống xã hội
nước ta trong suốt thời gian lịch sử dài cho đến hết đời Lê.
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí chia ra thành 49 quyển gồm 10 chí,
giới thiệu một mặt của sinh hoạt xã hội nước ta:
 Địa dư chí giới thiệu về điều kiện tự nhiên và địa lý lịch sử
nước ta
 Nhân vật trí trình bày tiểu sử của các vua chúa quan lại Các nho
sĩ tướng lĩnh những người Trung Hiếu tiết nghĩa theo quan niệm
phong kiến.
 quan chức chí nói về chế độ quan chức của các thời đại
 lễ nghi chí nghiên cứu các hình thức tế lễ ở triều đình phẩm

phục của vua chúa quan lại các cấp


khoa mục trí ý tìm hiểu tỉ mỉ về chế độ thi cử qua các triều đại
và những người đậu tiến sĩ trở lên
 Quốc dụng chế ghi chép về chế độ thuế khóa và tài chính của
các triều đại.
 hình luật Trí nói về pháp chế đã tồn tại trong lịch sử
 Bình chế chí nói về tình hình sử sách bằng chữ Hán và chữ
Nơm
 Bang Giao Trí nói về chính sách ngoại giao và lịch sử quan hệ
đối ngoại của các triều đại phong kiến nước ta với Trung Quốc.
- Tính khoa học học của Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí Thể hiện ở thái độ
khách quan của tác giả tả được nói ở lời tựa: “ khai xét dấu tích đời xưa mà khơng
nói thêm phân tích mọi việc bằng lý lẽ để tìm ra lẽ phải có chỗ tường tận mà khơng
đến nỗi rườm rà, có chỗ sơ lược mà nắm được cốt yếu khiến cho công nghiệp chế
tạo của các đời rõ rệt đủ làm bằng chứng”.Khoa học còn thể hiện ở phương pháp
sưu tầm tư liệu cẩn thận tránh những nhầm lẫn chủ quan có ghi chú xuất xứ của
mỗi tư liệu trích dẫn ở mục Phàm Lệ Phan Huy Chú ghi những sách chính được
tham khảo.
Tinh thần dân tộc ý thức tự chủ là nét nổi bật của Lịch Triều Hiến Chương Loại
Chí. Phan Huy Chú đã dẫn chứng và lập luận rằng về mặt đất nước con người văn
hóa các thể chế của các triều đại trong lịch sử thể hiện Việt Nam là một quốc gia
độc lập khơng kém gì Trung Quốc trong lời tựa ông cũng đã khẳng định rằng:
“Nước Việt ta từ thời Đinh Lê Lý Trần phong hội đã mở đời nào cũng có chế độ
của đời ấy đến nhà Lê kiến thiết kỹ càng, phép tắc đầy đủ thanh danh nước ta và
văn hóa thiên tài đều Thịnh khơng kém gì Trung Hoa”.
Thể hiện tư tưởng tiến bộ bộ khi nhận xét các chính sách của triều đại phong kiến.
ơng đứng trên lợi ích của quần chúng nhân dân của đất nước để phê phán tệ nộp
tiền để được bổ nhiệm làm quan ông chủ trương việc đúc tiền phải do nhà nước

quản lý mà không giao cho tư nhân.
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí là bộ bách khoa tồn thư của nước ta trong đó
có nhiều tài liệu lịch sử quý báu và Phan Huy Chú là một trong những nhà bác học
lỗi lạc của Việt Nam.
- Đại Nam Nhất Thống Chí
được biên soạn từ năm 1865 đến năm 1882 mới hoàn thành. sách ghi chép
về tình hình các mặt của các tỉnh trong cả nước từ Lạng Sơn đến Hà Tiên tên
mỗi tỉnh được giới thiệu theo các phần như sau: sau khi phân dã ( vị trí các
vì sao trên trời có liên quan đến tỉnh) hình thế khí hậu cổ tích. có thể xem
đây là các “tỉnh chi” trong toàn bộ một cuốn địa chí cả nước.
- Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ được biên soạn từ 1891 ghi chép
điển cương, chiếu chỉ, tố sớ, dụ. từ năm 1802 đến 1858 1873 qua các



đời vua Gia Long Minh Mệnh, thiệu trị và đầu đời Tự Đức. đến đầu
thế kỷ XX việc Biên soạn bộ hội điện lại tiếp tục và hoàn thành
2.2. Các nhà sử học với những tác phẩm sử học cá nhân có giá trị
- Vũ Phạm Khải (1823-1887) Đã từng làm toản tu Quốc sử quán tham
gia biên soạn Đại Nam thực lục. ơng có quan điểm sử học khá tiến bộ
như chép sử phải tôn trọng sự thật gạt bỏ định kiến hẹp hòi biết tiếp
thu cái mới. cùng với nhiều bạn đồng Liêu trong quốc sử quán ông đề
nghị nghiên cứu lịch sử các nước láng giềng ông đã viết Chiêm thành
ký nay bị thất lạc
- Nguyễn Đức Đạt (1823-1887) đỗ Thám Hoa hoa viết tuyển việt sử
thương binh Yên năm 1881 trình bày theo thể hỏi đáp lịch sử từ thời
Kinh Dương Vương đến Tây Sơn. quan điểm bảo thủ, phục vụ triều
Nguyễn thể hiện rất rõ Nhưng khi nói về Tây Sơn thì tác giả kết tội đã
“diệt Trịnh đuổi Lê” “làm dân chết nhiều” nên “trời đã phế bỏ”.
- Nguyễn Thông (1827-1894) giữ chức Khảo duyệt trong quốc sử

quán. ông đã viết quyển Việt sử cương dám khảo lược. Trình bày
những ý kiến của ơng đối với bộ cương mục kèm theo cần bổ sung
đính chính. để làm cơng việc này ơng sử dụng nhiều tài liệu kể cả tài
liệu trong sách Trung Quốc có phần liên quan đến Việt Nam. có thể
xem đây là sách khảo cứu phê bình lịch sử đầu tiên ở nước ta.
- Phạm Thận Duật (1825-1885) quê Ninh Bình. Đỗ cử nhân khoa
Canh Tuất 1850 được giao nhiều chứ quan Từ Tri Châu Tuần Giáo
đến thượng thư bộ hình. tham gia phong trào Cần Vương ông bị thực
dân Pháp bắt, đày ra côn đảo và hi sinh giữa biển trên đường đi đày
biệt xứ tới đảo tahiti.
Ngoài những tác phẩm lịch sử kể trên cịn có một số tác phẩm có giá trị liên quan
đến lịch sử, ra đời vào nửa cuối thế kỷ XIX như “Đại Việt địa dư toàn biên” của
Nguyễn Văn Siêu và Bùi Quảng in năm 1900, “Nghệ An chí” của Bùi Dương Lịch,
“Thanh Hóa chí” của Ngô Bá Sĩ.
Vào nửa cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã chiếm xong Nam Kỳ biến vùng này
thành thuộc địa của chúng, một số tri thức tôi học phục vụ trong bộ máy chính
quyền thực dân cũng đã nghiên cứu và biên soạn lịch sử trong số này nổi lên
Trương Vĩnh Ký. Về mặt sử kỳ học Trương Vĩnh Ký đã viết “lịch sử An Nam”,
“lịch sử Trung Quốc”, “địa dư Nam Kỳ”. “Lịch sử An Nam” là tập giáo trình viết
về lịch sử Việt Nam viết bằng tiếng Pháp dùng để giảng dạy trong các trường phápviệt ở nước ta tác giả ca ngợi việc thực dân Pháp đánh chiếm và khai hóa cho Việt
Nam
3. Đặc điểm lịch sử sử học
- Tiếp tục phát triển trên cơ sở thành tựu truyền thống của các triều đại phong kiến
trước


- Tư tưởng chủ đạo của sử học vẫn là tư tưởng Nho giáo
- Phục vụ chế độ phong kiến nhưng vẫn đề cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc và có ý thức độc lập tự chủ
- Có một khối lượng khơng nhỏ sách sử và các sách khác có liên quan đến lịch sử

- Do quan điểm phong kiến chi phối nên các tác phẩm vẫn lấy cuộc đời của vua
quan làm đối tượng nghiên cứu, ít đề cập đến tình hình xã hội và đời sống nhân
dân. (thể hiện qua tác phẩm “Khâm Định Việt sử thơng giám cương mục”, Lịch
triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú)
- Đề cao, ca tụng vương triều nên nhiều chỗ lịch sử bị xuyên tạc, nhận định thiếu
công bằng, khách quan ( TP “Khâm Định Việt sử thơng giám cương mục”- ví dụ:
khi viết về chiến cơng Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán 938 trên sông Bạch
Đằng, quốc sử ghi như sau: “Ngô Quyền gặp được nguy triều Nam Hán là một
nước nhỏ, Hoàng Thao là thằng hèn kém, nên mới có được trận thắng trên sơng
Bạch Đằng. Đấy là việc may có gì đáng khen”)
- Được ghi chép theo lối biên niên, cương mục và thực lục, tức là trình bày sự kiện
theo thứ tự năm tháng diễn ra, trình bày theo lối việc lớn, việc nhỏ có quan hệ với
nhau
- Một số tác phẩm có tính khoa học rất cao, thể hiện thái độ khách quan về sử, có
tính chất tổng hợp mọi mặt của đời sống xã hội nước ta trong suốt thời gian lịch sử
dài cho đến hết đời Lê (Lịch triều hiến chương loại chí – Phan Huy Chú)
4. Đánh giá
- Với việc biên soạn bộ sử chung cho cả dân tộc của triều Nguyễn thì lần đầu tiên
trong lịch sử chế độ phong kiến VN, sử học được ghi chép khơng chỉ gói gọn ở
những việc làm và sinh hoạt trong cung vua mà đã ghi chép các tác phẩm sử học
thời kì này.
- Khối lượng lớn sách sử trong nửa thế kỉ tồn tại độc lập của mình
- Để lại nhiều bài học quý báu cho thế hệ sau về cách nghiên cứu hay những kinh
nghiệm
=> Triều Nguyễn đã có những đóng góp hết sức quan trọng trong sự bảo tồn nền
văn hóa dân tộc và góp phần phát triển sử học nước nhà




×