Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.04 KB, 4 trang )
Đình – chùa làng Giang Khẩu: Lưu
giữ di sản quý
Cụm đình- chùa làng Giang Khẩu, xã Đại Thắng (Tiên Lãng) nằm ở vị trí đắc địa,
quay mặt ra sông Thái Bình. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân
dân địa phương, mà còn thu hút các nhà nghiên cứu đến tìm hiểu một số di sản quý.
Theo một số tư liệu dân làng ghi chép lại, cụm đình – chùa này có từ năm 1648. Trước
đây, cụm đình – chùa lợp bằng mái rơm, rạ, tọa lạc trên vùng đất vuông vắn rộng khoảng
một mẫu. Đình làng thờ 4 vị thành hoàng làng là Linh Lang đại vương, Nam Hải đại
vương, Đống Tỉnh đại vương, và Tứ Nương Đại Vương, là những người có công giúp
vua đánh giặc, giúp dân làng có cuộc sống yên ổn, no ấm.
Hiện trong cụm đình, chùa này còn lưu giữ được các di vật cổ như long đình, ngai vàng,
hòm sắc phong, hoa văn họa tiết ở gian vọng cung từ thời hậu Lê. Ở phía Đông của đình
làng có giếng ngọc, đường kính khoảng 8m. Dân làng gọi là giếng ngọc, bởi quanh năm
giếng có nước trong, mát, không chỉ làm đẹp cảnh quan của di tích, mà còn là nguồn
nước sinh hoạt phục vụ cuộc sống của dân làng. Phía trước chùa làng có 2 tháp cổ, phía
dưới có phần mộ của 2 vị sư trụ trì ở chùa là Giác Linh hòa thượng và Sư thúc hòa
thượng. Giác Linh hòa thượng theo đoàn quân Nam tiến, chiến đấu chống thực dân Pháp,
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc và đã anh dũng hy sinh. Sau này, hòa thượng được Nhà
nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Nằm ở vị trí phía Đông của cụm đình, chùa này là tổ
đường, nơi có bài vị thờ các vị hậu thần và vị sư đã mất tại chùa làng.
Di sản quý giá nhất còn lưu giữ ở cụm đình, chùa Giang Khẩu là hệ thống các văn bia cổ.
Theo khảo sát của một số nhà nghiên cứu Hán Nôm, đây là văn bia lâu đời nhất trên địa
bàn huyện Tiên Lãng. Theo lời giới thiệu của Ban hội tự chùa, hiện ở cụm đình, chùa
Giang Khẩu còn lưu giữ được 6 văn bia cổ, trong đó có 2 văn bia xuất hiện khá sớm. Bia
thứ nhất được dựng vào ngày 28 tháng Giêng năm 1648. Văn bia thứ 2 dựng ngày 19
tháng 2 năm 1650. Trên các bia có những văn bản ghi lại nhiều sự kiện lịch sử. Chẳng
hạn việc vợ chồng ông Tôn Thọ Nam cúng cho làng 5 mẫu ruộng và 80 quan tiền để chi
phí cho việc đắp đê. Vợ chồng ông được tôn làm hậu thần, được hưởng cúng tế cùng 4 vị
thành hoàng làng. Có văn bia lại ghi rõ công đức của những người có công xây dựng
đình, chùa với nội dung: “Tín chủ là Nhân Dũng cùng vợ là Nguyễn Thị Lịch, xin cúng