Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Vấn đề nghĩa của tục ngữ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.88 KB, 21 trang )

Vấn đề nghĩa của tục ngữ

1- Một số quan niệm về nghĩa của tục ngữ:
1.1. Tục ngữ là một hiện tượng văn hoá đa diện, đa dạng. Tục ngữ là một hiện tượng
ngôn ngữ, hiện tượng của tư duy và hiện tượng của văn học dân gian. Điều này giải thích
vì sao sự diễn đạt của tục ngữ đã hấp dẫn, lôi cuốn các nhà ngôn ngữ, các triết gia và các
nhà văn hoá dân gian. Điều đó cũng có nghĩa là tục ngữ, từ lâu đã được nghiên cứu ở
nhiều góc độ khác nhác nhau và ở góc độ nào cũng đem đến cho chúng ta những điều thú
vị. Một trong những góc độ thu hút sự quan tâm và cả bàn cãi của thể loại này đó là nghĩa
của tục ngữ. Đa số các nhà nghiên cứu cho rằng tục ngữ có hai loại nghĩa: nghĩa đen và
nghĩa bóng. Câu tục ngữ có nghĩa đen là những câu tục ngữ đơn thuần chỉ đúc kết những
kinh nghiệm thuộc về các lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, các hiện tượng tự nhiên
hoặc đề cập đến sự tích lịch sử, đặc điểm địa phương.
Trong “Tục ngữ Việt Nam”, khi đề cập về nghĩa của tục ngữ, Chu Xuân Diên viết: “Một
câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng”. Đây là quan niệm được
nhiều người đồng tình. Các tác giả Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ trong
giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” thì khẳng định rằng: “ Tục ngữ bao giờ cũng có
hai nghĩa: nghĩa đen (hay là nghĩa gốc) và nghĩa bóng (trường nghĩa)”. [15,197] Quan
niệm này chưa thật sự thuyết phục vì ta thấy có một bộ phận tục ngữ, như chúng tôi đề
cập ở trên, chỉ có nghĩa đen mà thôi. Có lẽ khi khẳng định như thế, người ta chỉ chú ý đến
bộ phận tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm, những quan niệm về triết lí nhân sinh. Còn
những câu tục ngữ đúc kết những quy luật của hiện tượng tự nhiên, những kinh nghiệm
trong lao động, chăn nuôi, trồng trọt hay một số sự tích lịch sử và đặc điểm địa phương,
vốn chỉ mang nghĩa đen đã không được đề cập. Một định nghĩa cần phải bao quát được
hết tất cả các hiện tượng.
Có tác giả không dùng khái niệm “nghĩa đen”, “nghĩa bóng” mà dùng khái niệm “đơn
nghĩa”, “nhiều nghĩa”, “đa nghĩa” như Hoàng Tiến Tựu. Ông viết: “ Có những câu tục
ngữ chỉ có một nghĩa (Ví dụ: “Khoai ưa lạ, mạ ưa quen”, “Một búi cỏ, một giỏ
phân”, ). Nhưng bộ phận tục ngữ đa nghĩa chiếm tỉ lệ khá lớn, chất lượng khá cao và là
bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại này” [18,132]. Theo ông: “ tục ngữ có thể chia làm
hai loại cơ bản: loại đơn nghĩa và loại đa nghĩa. Những câu tục ngữ thuộc loại đơn


nghĩa là những câu chỉ có thể hiểu theo “nghĩa đen”. Ví dụ:
- Mưa tháng bảy gãy cành trám
- Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô ( )
Những câu tục ngữ thuộc loại đa nghĩa có thể chia thành hai loại: loại thứ nhất
gồm những câu vừa được hiểu theo “nghĩa đen”, vừa có thể (và thường) được hiểu theo
“nghĩa bóng”; ví dụ:
- Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng
- Qua chợ còn tiền, vô duyên càng khỏi nhẵn má ( )
loại thứ hai gồm những câu chỉ được dùng theo “nghĩa bóng”; ví dụ:
- Chết không muốn, muốn ăn xôi
- Có sừng thì đừng hàm trên.
Những câu tục ngữ thuộc loại đa nghĩa chiếm tỉ lệ lớn hơn hẳn so với những câu
đơn nghĩa.” [18, 378- 379]
Ta thấy, tuy có sự diễn đạt khác, nhưng về cơ bản, Hoàng Tiến Tựu cũng thống
nhất tục ngữ có hai loại nghĩa và tục ngữ thuộc loại đa nghĩa thực ra là cách gọi khác của
“nghĩa bóng “ mà thôi. Khái niệm “nhiều nghĩa” cũng được Bùi Mạnh Nhị dùng trong
bài viết “Tục ngữ” được in trong quyển “Văn học dân gian- những công trình nghiên
cứu” do ông chủ biên:“ Tục ngữ là những câu nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp
điệu, hình ảnh và thường mang nhiều nghĩa ” [16,242] Trong “Từ điển văn học” (Bộ
mới), Chu Xuân Diên cũng nói đến điều này và theo ông tính nhiều nghĩa của tục ngữ là
do được “hình thành bằng cách liên tưởng loại suy.”[10,1879]
Khảo sát các ý kiến trên ta thấy, các nhà nghiên cứu dù có sự diễn đạt khác nhau nhưng
có điểm chung là đều cho đại bộ phận tục ngữ có hai nghĩa: Nghĩa đen và nghĩa bóng hay
còn gọi là nghĩa biểu trưng.
1.2. Ngoài ra, còn có tác giả đề cập đến một loại nghĩa thứ ba của tục ngữ là nghĩa khái
quát. Trong bài viết “Đạo lí trong tục ngữ”, Nguyễn Đức Dân chỉ ra quá trình tạo nghĩa
khái quát này trên cơ sở suy luận chặt chẽ. Ví dụ:
“Một người biết lo bằng kho người hay làm” (1)
một người + biết lo = kho người + hay làm
kho người > một người


> biết lo > hay làm (a)
> trí tuệ > sự cần cù (b)
(a) và (b) là hai nghĩa khái quát của (1), và bậc của (a) thấp hơn bậc của (b). [2,64]
Nghĩa khái quát cũng được Phan Thị Đào đề cập trong công trình “Tìm hiểu thi pháp
tục ngữ Việt Nam”. Theo tác giả, tục ngữ có ba nghĩa: nghĩa đen, nghĩa bóng (nghĩa
hình tượng) và nghĩa khái quát. Về nét nghĩa khái quát này, tác giả viết: “ ta có những
câu tục ngữ mà ở đó mỗi vế tồn tại như một tiền đề mang ý nghĩa khái quát cao, còn kết
đề là một phán đoán mang ý nghĩa khái quát cao hơn, nhưng không phải tồn tại trên văn
bản mà được rút ra từ tư duy của người tiếp nhận”:
Thợ may ăn giẻ,
TIỀN thợ vẽ ăn hồ
ĐỀ thợ bồ ăn nan
thợ hàn ăn thiếc
_______________________________________________________
KẾT
LUẬN (Làm nghề gì ăn nghề ấy) [ 6, 122]
Triều Nguyên cũng thống nhất tục ngữ có ba loại nghĩa và theo ông: “nếu phân
loại tục ngữ theo hình thức tạo nghĩa, thì có bảy dạng tục ngữ sau:
+ Những câu tục ngữ chỉ có một nghĩa đen. VD: Tháng bảy nước nhảy lên bờ.
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa khái quát. VD: Cái sảy nảy cái ung.
+ Những câu tục ngữ chỉ có nghĩa bóng. VD: Nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp
vung méo.
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa khái quát. VD: Trâu he hơn
bò khỏe.
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa bóng. VD: Ngựa hay chạy
đường dài mới biết.
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa khái quát vừa có nghĩa bóng. VD: To thuyền
thì to sóng.
+ Những câu tục ngữ vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa khái quát, lại vừa có nghĩa

bóng. VD: Cá kể đầu, rau kể mớ. [ lược trích 14,8-9]
Và theo tác giả, bảy dạng tục ngữ này có thể gộp làm hai nhóm lớn: nhóm những
câu tục ngữ chỉ có một nghĩa (ba dạng đầu), và nhóm những câu tục ngữ có nhiều loại
nghĩa (bốn dạng còn lại).
Việc nêu ra thêm nghĩa khái quát của tục ngữ cho thấy sự cố gắng của các nhà nghiên
cứu trong việc “giải mã” tục ngữ. Ngoài ra, còn cho chúng ta thấy, cùng một tư duy
logic, cùng một nội dung biểu đạt nhưng có nhiều cách diễn đạt khác nhau, những chất
liệu tạo nghĩa khác nhau. Do vậy, dù đề cập đến một triết lí nhân sinh nào đó, vốn khô
khan nếu được diễn đạt bằng cách nói thông thường, cách nói của tục ngữ vẫn tạo nên sự
hấp dẫn đối với chúng ta là như thế. Tuy nhiên, sự phân giới giữa hai loại nghĩa: biểu
trưng và khái quát vẫn chưa thật sự rõ ràng. Trong bài đã dẫn, Triều Nguyên cho rằng:
“Nghĩa khái quát được rút ra trên cơ sở những hình ảnh, khái niệm cụ thể của câu tục
ngữ, sao cho ý nghĩa được rút phải bao hàm ý nghĩa của câu tục ngữ” [14,11]. Điều đó
cũng không khác gì với cơ chế tạo ra nghĩa biểu trưng. Và theo chúng tôi, nghĩa bóng và
nghĩa khái quát mà tác giả đề cập cũng chỉ là nghĩa biểu trưng mà thôi. Có tục ngữ có
nghĩa biểu trưng mang tính khái quát cao, có tục ngữ có nghĩa biểu trưng mang tính khái
quát thấp.
1.3. Gần đây, Nguyễn Xuân Đức cho rằng tục ngữ chỉ có một nghĩa mà thôi và nghĩa đó
do hoàn cảnh nói năng, do môi trường vận dụng quy định. Trong Tạp chí “Văn hoá dân
gian” số 4 năm 2000, ông viết: “Tục ngữ nói riêng, văn học dân gian nói chung bao giờ
cũng gắn với môi trường ứng dụng, cho nên chúng ta không thể xét nghĩa của nó trên văn
bản chết như đối với tác phẩm truyền bằng chữ viết. Mỗi lần ứng dụng, như đã nói ở
trên, mỗi câu tục ngữ chỉ được tiếp nhận một nghĩa cụ thể mà thôi. Chính vì lẽ đó, ngay
cả ở những câu tục ngữ loại này nếu nói chỉ có một nghĩa- nghĩa đang ứng dụng- thì
cũng không có gì là sai.” (tr 52). Từ đó tác giả cho rằng: “Tóm lại, chúng ta không nên
nói tục ngữ có nhiều nghĩa, lại càng không nên nói tục ngữ là đa nghĩa. Tục ngữ sinh ra
để ứng dụng trong cuộc sống, nếu có nhiều nghĩa, hơn thế nữa lại là đa nghĩa thì thật
khó vận dụng. ( ) tục ngữ xét trên văn bản có từ một đến hai nghĩa, nhưng xét trong môi
trường ứng dụng, tức là môi trường lưu truyền và tồn tại đích thực thì với mỗi lần phát
ngôn chỉ có một nghĩa (có thể là nghĩa đen hay nghĩa bóng)- tức là nghĩa đang được ứng

dụng theo mục đích phát ngôn”. [7,52]
Quan niệm của Nguyễn Xuân Đức không phải là không có cơ sở. Rõ ràng, khi vận dụng
tục ngữ vào trong lời ăn tiếng nói của mình, chủ thể phát ngôn đã cấp cho tục ngữ một
nghĩa mà anh ta đã tiếp nhận, đã hiểu và truyền cách hiểu đó, cách tiếp nhận đấy vào một
trường hợp cụ thể để người thụ ngôn hiểu đúng. Tuy nhiên, nếu từ góc độ nghiên cứu ấy
mà phủ nhận tính nhiều nghĩa của tục ngữ thì cũng khó chấp nhận. Tục ngữ, với tư cách
là một thể loại văn học dân gian, từ lâu đã được khảo sát dưới góc độ văn bản và đã cung
cấp cho nhiều thành quả cho sự hiểu biết thể loại này. Ở góc độ ngôn ngữ chúng ta thấy
có hiện tượng từ nhiều nghĩa, từ đa nghĩa. Trong các từ điển, người ta cũng cố gắng ghi
ra các nét nghĩa này, những nét nghĩa mà người ta khái quát và rút ra được từ trong thực
tế vận dụng của ngôn ngữ. Và nói như Nguyễn Xuân Đức thì cũng không nên coi một
đơn vị ngôn ngữ nào đó là nhiều nghĩa, đa nghĩa. Bởi vì cũng như tục ngữ, nó chỉ có một
nghĩa, nghĩa vận dụng mà thôi! Thực ra, hiện tượng nhiều nghĩa trong ngôn ngữ là một
hiện tượng mang tính phổ quát và một trong những phương thức rất quan trọng làm nên
tính nhiều nghĩa trên đó là sự chuyển nghĩa. Tục ngữ cũng thế và càng hơn thế nhất là đối
với tục ngữ Việt vì nghĩa biểu trưng của chúng là sự cộng hưởng của cả ba mặt: cấu trúc
hình thức, cấu trúc hình ảnh và cấu trúc logic. Người dùng tục ngữ, do năng lực, trình độ
đã thể hiện cách hiểu của mình về một câu tục ngữ cụ thể. Người nhận sẽ lựa chọn một
cách hiểu cũng tùy vào khả năng, trình độ sự hiểu biết của mình về những quy ước mà
câu tục ngữ chứa đựng. Và có thể sẽ xảy ra trường hợp, người nói (viết) và người nghe
(đọc) có cách hiểu không giống nhau. Vì vậy, ngay trong sự vận dụng, chưa chắc tục ngữ
chỉ có một nghĩa. Chúng tôi không phủ nhận quan điểm của Nguyễn Xuân Đức khi cho
tục ngữ chỉ có một nghĩa, nghĩa ứng dụng. Thực ra, các nhà tục ngữ học không phải là
không hiểu những điều mà Nguyễn Xuân Đức đặt ra, bởi đó là vấn đề không mới, vấn đề
hiển nhiên không có gì bàn cãi. Nhưng nếu chúng ta coi tính “một nghĩa” của tục ngữ do
một phát ngôn cụ thể mang lại và coi tính nhiều nghĩa là cái không tồn tại thì mọi định
nghĩa về tục ngữ, các từ điển giải thích tục ngữ, việc phân loại tục ngữ trước đây đều hóa
ra vô ích sao. Kho tàng tục ngữ rất lớn, môi trường ứng dụng lại vô vàn thế thì ta sẽ giải
thích như thế nào về nghĩa của tục ngữ. Chúng ta không thể nói hãy tùy vào ngữ cảnh cụ
thể thì mới xét đến nghĩa của chúng. Vì vậy, theo chúng tôi, để hiểu nghĩa của tục ngữ

chúng ta cần phải xét đến cả khi nó ở dạng tỉnh (tức đã cố định hóa bằng văn bản) lẫn ở
dạng động (tức khi nó được ứng dụng vào những phát ngôn cụ thể). Và một điều rất quan
trọng là phải tìm hiểu cấu trúc của nó, mà như chúng ta biết rất đa dạng, thì mới có thể
hiểu CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT.
2- Về cấu trúc và các loại phán đoán của tục ngữ:
2.1. Bản thân kí hiệu ngôn ngữ đã mang ý nghĩa biểu trưng. Và không dừng ở đó, những
kí hiệu ngôn ngữ này khi được vận dụng trong văn cảnh nhất định lại có khả năng tạo ra
một nét nghĩa mới. Quá trình tạo nghĩa ấy là quá trình đi từ cái cụ thể đến cái trừu
tượng, từ nghĩa đen chuyển sang nghĩa bóng hay còn gọi là nghĩa biểu trưng. Điều này
thể hiện rất rõ qua văn chương. Biểu trưng là một hiện tượng phổ biến ở các dân tộc. Đấy
là hình thức dùng một hiện tượng, sự vật nào đó để biểu hiện một cách tượng trưng, ước
lệ về một cái gì đó có tính chất khái quát, trừu tượng. Đối với tục ngữ Việt, không chỉ về
mặt hình ảnh mà cả cấu trúc hình thức và cấu trúc logic cũng góp phần làm nên nghĩa
biểu trưng của tục ngữ. Hay nói cách khác, cả nội dung và hình thức diễn đạt đều làm nên
tính biểu trưng của tục ngữ. Điều này đã được Chu Xuân Diên bàn rất kĩ trong mục “tục
ngữ” của “Từ điển văn học”. Cụ thể như sau:
Về mặt nội dung “tục ngữ là những nhận xét, phán đoán, kết luận về các hiện tượng tự
nhiên, xã hội và đời sống con người. ( ) Phần lớn nội dung tục ngữ đều là những kinh
nghiệm được rút ra từ việc quan sát và thể nghiệm các hiện tượng xảy ra trong đời sống
thực tiễn. Những kinh nghiệm sống ấy phần lớn là lối sống của nhân dân một dân tộc
trong một thời đại nhất định, phản ánh những cơ sở lịch sử- xã hội cụ thể, tức những
phương thức sản xuất, phương thức sinh hoạt và quan hệ xã hội của một thời kì lịch sử
nhất định. Tuy nhiên, những kinh nghiệm sống ấy cũng có khá nhiều phần vượt ra khỏi
phạm vi lối sống của một thời đại nhất định, ở các thời đại khác nhau vẫn phản ánh được
những quan niệm sống tích cực, hoặc vẫn giúp người ta hiểu biết được sâu sắc các hiện
tượng của đời sống. Giá trị lâu dài về tư tưởng và nhận thức ấy trong tục ngữ của một
dân tộc chính là những truyền thống tốt đẹp trong lối sống và lối nghĩ của nhân dân dân
tộc đó.”[10,1879]
“Về hình thức diễn đạt, trừ một số câu có tính chất những lời khuyên răn (“Chớ thấy
sóng cả mà ngã tay chèo”, “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” ) còn

phần lớn tục ngữ dùng các hình thức phán đoán, suy lí- kết luận, tức là các hình thức của
tư duy logic. Vì vậy tục ngữ là một thể loại sáng tác dân gian có phần gần gũi với hình
thức nhận thức khoa học, nhận thức lí luận. Nhưng mặt khác, những phán đoán, suy lí-
kết luận của tục ngữ lại thường có nhiều nghĩa, hình thành bằng phép liên tưởng loại
suy. Thí dụ câu “Không có lửa sao có khói” không phải chỉ có ý nghĩa của một phán
đoán về một trường hợp cụ thể, mà bằng sự liên tưởng loại suy, nó còn là một phán đoán
về những trường hợp khác cùng loại, tất cả đều phù hợp với tư tưởng khẳng định tính tất
yếu về nguyên nhân, lí do của mọi hiện tượng xảy ra trong cuộc sống. Do có tính nhiều
nghĩa như vậy mà tục ngữ có thể trở thành một hình thức khái quát của sự truyền đạt tư
tưởng, có khả năng được dùng để xác định các hiện tượng của đời sống theo một mục
đích nhất định, với một cách đánh giá nhất định. Những phán đoán, suy lí- kết luận của
tục ngữ không đơn thuần chỉ là những hình thức nhận thức duy lí mà còn là những hình
thức đánh giá thẩm mĩ về các hiện tượng của cuộc sống.” [10,1880]
2.2. Tục ngữ phản ánh hai loại kinh nghiệm: kinh nghiệm về thiên nhiên, kinh nghiệm về
cuộc sống xã hội. Trong cuộc sống, nhận thức bằng kinh nghiệm có ý nghĩa quan trọng.
Không có kinh nghiệm con người khó mà tồn tại trong xã hội. Nhưng kinh nghiệm nếu
không được phát triển thành phạm trù nhận thức và khái quát thành quy luật thì chỉ dừng
lại ở kinh nghiệm mà thôi. Hơn nữa, để được chấp nhận của một cộng đồng, những kinh
nghiệm ấy, nhất là kinh nghiệm trong đời sống xã hội cần có giá trị như một chân lí, đạo
lí để người ta hướng theo. Nó được coi như là những quy ước của xã hội. “Những quy
ước ấy là nếp sống, có khi là nếp nghĩ, cách diễn đạt nói năng, tất cả tạo thành một áp
lực vô hình, buộc con người phải làm theo như vậy mới hợp lẽ, hợp đạo lí.” [11,214].
Không chỉ về mặt nội dung, cách nói của tục ngữ cũng là một quy ước: “Nó sản sinh theo
các khuôn hình nhất định, dần dần với thời gian và sự lưu truyền được quy ước thành
cách diễn đạt tục ngữ hay là kiểu nói tục ngữ.” [11,215]
Trong “Cơ sở văn hoá Việt Nam” ( NXB Giáo dục- 1997), Trần Ngọc Thêm có
viết: “ nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể
hiện ở xu hướng khái quát hoá, ước lệ hóa với những cấu trúc cân đối hài hòa” [tr158].
Có thể nói, cách nói, cách nghĩ của tục ngữ thể hiện rất rõ nghệ thuật ngôn từ của Việt
Nam, đó là tính biểu trưng cả về nội dung biểu đạt và hình thức thể hiện.

Tục ngữ có thể được coi như một tác phẩm nhỏ nhất trong các loại hình nghệ thuật ngôn
từ. Tục ngữ còn là một hiện tượng ngôn ngữ có mối quan hệ rất gắn bó với tư duy của
con người. Ngôn ngữ là toàn bộ những hệ thống âm thanh, từ ngữ và những quy tắc kết
hợp chúng mà những người trong một cộng đồng tạo ra làm phương tiện giao tiếp. Ngôn
ngữ có khả năng vật thể hóa tư duy và là công cụ, phương tiện của sự giao lưu, giao tiếp
xã hội. Hay nói cách khác, ngôn ngữ vừa là tư duy, vừa là sự thể hiện tư duy, vừa là hành
vi giao tiếp. Tư duy thế nào thì ngôn ngữ thế ấy. Tuy ngôn ngữ và tư duy thống nhất với
nhau nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Do đó, cấu trúc hình thức và cấu trúc logic
không phải là một. Nói đến cấu trúc hình thức là chúng ta muốn nói đến quy tắc tổ chức
câu, quan hệ cú pháp của câu. Đối với tục ngữ, không thể phân tích cú pháp đơn thuần
mà cần phải gắn nó với cơ cấu ngữ nghĩa của chúng.
2.3. Có nhiều cấu trúc câu và do đó có nhiều hình thức phán đoán logic. Tuy
nhiên, không phải bất kì một cấu trúc câu nào cũng tương hợp với phán đoán logic. Ví
dụ, ta có thể nói “Cô ấy đẹp giống mẹ” mà không thể nói “Người mẹ đẹp giống cô ấy”.
Điều này do từ và khái niệm không trùng nhau. Một khái niệm có thể diễn đạt bằng một
từ hay nhiều từ. Trong khi đó, từ còn chứa đựng những nét nghĩa mà khái niệm không có
như: nghĩa tình thái, nghĩa biểu trưng, tiền giả định Vì vậy mà phán đoán logic và phán
đoán trong tục ngữ không hoàn toàn trùng nhau. Phán đoán logic trong lời nói thông
thường và phán đoán logic trong tục ngữ cũng có khác.
Phán đoán logic của tục ngữ có tính chất độc lập, tự tại và thoát li những tình
huống, mục đích và hành vi nói năng cụ thể. Điều này làm nên sự khác nhau giữa phán
đoán logic và phán đoán tục ngữ. Ví dụ:
- Con trai anh tài giỏi hơn anh. (a)
- Con giống cha, nhà có phúc. (a’)
- Khi nói năng ta phải suy nghĩ kĩ càng. (b)
- Ăn có nhai, nói có nghĩ. (b’)
Ta thấy, các phán đoán (a) và (b) không phải là tục ngữ vì nó gắn liền với một
tình huống, mục đích và hành vi nói năng cụ thể. Còn các phán đoán (a’) và (b’) là tục
ngữ vì nó mang tính chất độc lập, tự tại, đã thoát li những tình huống, mục đích và hành
vi nói năng cụ thể và đặc biệt là nó thể hiện tính quy luật, tính tất yếu và tính phổ biến

của những hiện tượng trên.
Những phán đoán tục ngữ xuất phát từ kinh nghiệm trực tiếp, được kiểm định trong đời
sống hàng ngày và được chấp nhận như là quy ước chung của một cộng đồng. Chính vì
vậy, những đơn vị làm nên các phán đoán này thường là những hình ảnh sinh động cụ
thể, rất quen thuộc trong cuộc sống. Ví dụ:
- Gần sông quen tiếng cá, gần núi không lạ tiếng chim. (1)
- Tre non dễ uốn. (2)
- Nước chảy, đá mòn. (3)
- Qua cầu nào biết cầu ấy. (4)
Ở ví dụ (3) ta thấy nét nghĩa thông thường mà ai cũng hiểu là: dù công việc khó
khăn nhưng nếu bền chí thì sẽ có ngày thành công. Sức thuyết phục của câu tục ngữ có
được chính là từ thực tế mà con người nhận thức qua được thiên nhiên, từ cảm nhận trực
quan. Sức thuyết phục của nó càng nhân lên từ chính hình ảnh đối lập
giữa“nước” và “đá”. “Nước” là chất lỏng; “đá” là “chất rắn”. Ấy thế mà theo dòng chảy
của thời gian, chất lỏng ấy lại có thể bào mòn đá cứng. Do phán đoán logic của tục ngữ
như thế nên cấu trúc hình thức của tục ngữ có những đặc trưng riêng. Có những câu tục
ngữ mà cấu trúc logic biểu hiện đầy đủ trong cấu trúc câu. Ví như những câu có quan hệ
hạn định trực tiếp như: “Lời nói không cánh mà bay”; “Sứa không nhảy qua đăng”;
“Nước suối có bao giờ đục”; “Ngựa khôn hay trái chứng” Tuy nhiên, có rất nhiều tục
ngữ mà cấu trúc hình thức và cấu trúc logic không có sự tương ứng với nhau. Điều này
thể hiện rõ nhất trong những câu tục ngữ có cấu trúc tỉnh lược. Ví dụ: “Đực phệ, sề
chõm”, “Tay làm, hàm nhai”, “Bút sa, gà chết”, “Con cha, gà giống” Điều quan trọng
ở đây là cấu trúc hình thức ấy phải phản ánh được đúng cái logic của tục ngữ. Do đó, việc
tìm hiểu ý nghĩa logic của các phán đoán trong tục ngữ là điều không thể thiếu.
2.4. Có rất nhiều dạng phán đoán. Điều này thể hiện khá rõ khuynh hướng muốn
đi sâu vào bản chất của sự vật, muốn phát hiện và khẳng định tính quy luật của các hiện
tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Ngoài ra, nó còn thể hiện tính chất linh
hoạt, uyển chuyển về sự nhận thức của con người, phản ánh tính chất phức tạp, nhiều vẻ
về mối quan hệ lẫn nhau của các sự vật và hiện tượng của thế giới khách quan. Chúng ta
có thể phân các phán đoán trong tục ngữ thành các dạng như sau:

2.4.1. Phân loại theo tiêu chí chất lượng:
+ Phán đoán xác thực:
- Sứa không nhảy qua đăng.
- Tấc đất, tấc vàng.
- Lời nói, gói vàng.
Dạng phán đoán này nói lên xu hướng khẳng định tuyệt đối trong suy nghĩ của
nhân dân về bản chất của các hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Dạng
phán đoán này chiếm tần số rất cao trong tục ngữ.
+ Ngoài ra, còn có dạng phán đoán xác suất và phán đoán bác bỏ. Hai
dạng này có số lượng không nhiều nhưng cũng có một số đặc điểm riêng.
* Phán đoán xác suất:
- Những người lử khử lừ khừ, chẳng ở Đại Từ cũng ở Võ Nhai.
- Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, chẳng thanh lịch cũng người Thượng Kinh.
Thực chất, dạng phán đoán xác suất cũng là phán đoán xác thực bởi vì kiểu
“Chẳng N cũng B” chính là một câu khẳng định dưới hình thức phủ định.
* Phán đoán bác bỏ:
- Thề cá trê chui ống.
- Thật thà cũng thể lái trâu, thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Chúng ta thấy những phán đoán bác bỏ ở đây không biểu thị bằng hình thức phủ định với
các từ “không”, “chẳng”, “không phải” mà lại có hình thức so sánh.
2.4.2. Phân loại theo tiêu chí tầng bậc:
Con người không thể ngay từ đầu nắm bắt và diễn tả đúng bản chất của sự vật và
hiện tượng. Nhận thức bắt đầu từ những sự vật, hiện tượng đơn nhất, từ sự quan sát
những mối quan hệ riêng lẻ, từ đó chuyển sang phân tích những sự vật, hiện tượng trong
tính phổ biến của chúng, trong tính tất yếu và tính quy luật của chúng. Đấy là mục đích
chủ yếu của quá trình nhận thức. Quá trình này đã được phản ánh vào các hình thức phán
đoán của tục ngữ. Có ba dạng phán đoán theo tiêu chí tầng bậc:
+ Phán đoán đơn nhất:
Ví dụ: - Người ta là hoa đất.
- Nước mưa là cưa trời.

- Dân như cây gỗ tròn.
+ Phán đoán bộ phận:
Ví dụ: - Có bát, mát mặt.
- Chồng bát còn có khi xô.
- Nốt tiền ở cổ có lỗ tiền chôn.
+ Phán đoán toàn thể:
Ví dụ: - Nguồn đục thì dòng cũng đục
- Chim khôn ai nỡ bắn, Người khôn ai nỡ nói nặng.
- Bà chúa đứt tay, ăn mày sổ ruột.
3. Quan hệ giữa các loại phán đoán và nghĩa biểu trưng của tục ngữ:
3.1. Nội dung biểu đạt của tục ngữ gắn liền với việc miêu tả những điều quan sát
trực tiếp hiện thực khách quan và sự nhận thức cảm tính về các sự vật muôn màu, muôn
vẻ đó. Nội dung biểu đạt của tục ngữ cũng đồng thời phản ánh kinh nghiệm và quan niệm
của nhân dân ta trong nhận thức cuộc sống. Mọi phán đoán đều dựa vào kinh nghiệm
sống nhưng có những phán đoán gắn liền với một mục đích, một tình huống và hành vi
nói năng cụ thể và có những phán đoán thể hiện tính quy luật, tính tất yếu và tính phổ
biến. Chỉ có những phán đoán thể hiện tính quy luật, tính tất yếu và tính phổ biến mới là
những phán đoán của tục ngữ. Phán đoán tục ngữ thể hiện tính quy luật, tính tất yếu và
tính phổ biến nhưng căn bản lại dựa vào kinh nghiệm, dựa vào sự quan sát trực tiếp. Cho
dù đấy là những kinh nghiệm của tập thể và đã được thực tế kiểm chứng nhưng những
kinh nghiệm ấy vẫn mang tính cá biệt ở những mức độ nhất định.
Các dạng phán đoán của tục ngữ đều phản ánh tri thức và kinh nghiệm dân gian của nhân
dân ta. Tục ngữ là những sản phẩm kết tinh trong lời nói do nhu cầu truyền đạt và lưu giữ
kinh nghiệm, do đó tục ngữ là kho tàng chứa đựng các kinh nghiệm đó. Trong cuộc sống,
không có kinh nghiệm khó mà tồn tại. Tuy nhiên, kinh nghiệm không được tư duy khái
quát lại, không phát triển thành phạm trù nhận thức và khái quát thành quy luật thì chỉ
dừng lại ở kinh nghiệm mà thôi. Có thể nói, mỗi câu tục ngữ là một kinh nghiệm nhất
định. Song cho dù đấy là những kinh nghiệm của một cộng đồng nhưng vì ở trạng thái
tách biệt nhau nên những tri thức ấy vẫn mang tính chất cá biệt ở những mức độ nhất
định. Thế nhưng, nếu dừng ở đây, nếu tìm hiểu tục ngữ ở từng câu riêng lẻ thì việc “giải

mã” tục ngữ vẫn còn là khoảng cách xa vời. Cần phải nhận thấy, không phải bất kì đối
tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp nào, nội dung kinh nghiệm của
tục ngữ cũng ở trạng thái bất biến. “Ở rất nhiều câu tục ngữ, trong quá trình được vận
dụng, nội dung kinh nghiệm mà chúng diễn đạt thường mở rộng ra, khiến cho ý nghĩa
của những kinh nghiệm ấy có khả năng bao hàm được cả nhận thức về bản chất và tính
quy luật của nhiều hiện tượng của thế giới khách quan.”[3, 135]
3.2. Như đã nói ở trên, phần lớn tục ngữ có hai nghĩa mà theo truyền thống người
ta gọi là nghĩa đen và nghĩa bóng. “Nghĩa bóng” được hình thành theo theo phương pháp
biểu trưng và làm nên nghĩa biểu trưng của tục ngữ. “Nghĩa bóng” này được hình thành
do cách nói chuyển nghĩa và do quá trình vận dụng đã tạo nên khả năng mở rộng nghĩa.
Ví dụ như câu “Tre già, măng mọc”. Trước hết, câu này phản ánh sự nhận thức về một
hiện tượng cụ thể, sinh động trong giới tự nhiên. Đây là một hiện tượng khách quan phản
ánh sự sinh sôi của một loài cây có sức sống bền bỉ, mạnh mẽ và rất gắn bó với quê
hương đất Việt. Và, từ hình ảnh khách quan này dần dần nó được dùng để biểu trưng cho
quy luật của tự nhiên, quy luật của muôn đời và quy luật của con người. Cái làm ta liên
tưởng đến sự nối tiếp nhau giữa các thế hệ với hình ảnh “tre già” và “măng mọc” đó
chính là mối quan hệ liên tưởng về nét tương đồng. Thực ra, hình ảnh “tre già” và “măng
mọc” được dùng để tạo nên tục ngữ trên không phải nhằm miêu tả một hiện tượng sinh
học. Người ta chỉ mượn hình ảnh đó để dùng làm dấu hiệu biểu trưng dựa theo quy tắc
chuyển nghĩa. Trừ những câu tục ngữ phản ánh những nhận thức của nhân dân ta về thế
giới tự nhiên, về lao động sản xuất như: “Mống vàng thời nắng, mống trắng thời mưa”;
“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống” còn lại thường được cấu tạo theo phương
pháp biểu trưng. Nói một cách chính xác, nghĩa biểu trưng của tục ngữ vừa phản ánh quá
trình tạo nghĩa của tục ngữ vừa phản ánh tư duy logic của tục ngữ. Lối suy nghĩ của tục
ngữ ban đầu là lối suy nghĩ dựa vào kinh nghiệm, dựa vào quan sát trực tiếp sự vật cụ
thể. Có nghĩa là ban đầu nó được dùng với nghĩa đen, nghĩa trực tiếp để phản ánh một sự
vật hoặc một hiện tượng cụ thể nào đó. Nhưng dần dần tục ngữ lại được dùng với nghĩa
bóng, nghĩa gián tiếp. Đấy là kết quả của sự mở rộng nghĩa của tục ngữ trong quá trình
vận dụng, lưu truyền. Sự mở rộng nghĩa này thực chất là sự mở rộng nội dung kinh
nghiệm được đúc kết trong tục ngữ.

3.3. Tục ngữ là một câu, là một phán đoán để truyền đạt một kinh nghiệm làm ăn,
một kinh nghiệm sống, một lời khuyên bảo. Những kinh nghiệm này nếu được diễn đạt
bằng lời nói hàng ngày thì hiệu quả giao tiếp của nó tác động không lâu và sẽ nhanh
chóng rơi vào quên lãng. Do đó, ngoài một cấu trúc lời nói thích hợp, hình ảnh được lựa
chọn phải là những hình ảnh phù hợp với điều cần nói, phù hợp với bối cảnh nói năng.
Nói cách khác, tuỳ theo nội dung tục ngữ, tuỳ theo kinh nghiệm muốn truyền đạt mà
người ta lựa chọn hoặc tưởng tượng một bối cảnh nào đó. Những bối cảnh này có khả
năng phù hợp với những bối cảnh xã hội khác nhau mà trong đó tục ngữ được vận dụng.
Điều này yêu cầu một khả năng liên tưởng dồi dào nhưng được xuất phát từ những trải
nghiệm trong đời sống. Đấy là những điều mắt thấy tai nghe được nhận thức và phản ánh
lại bằng chính sự vật hoặc bằng những hình tượng về sự vật nhằm nói lên chân lí của tục
ngữ ở mức khái quát nhất. Quá trình này nói theo triết học đó là quá trình trừu tượng hoá.
Chính quá trình trừu tượng hoá đã tạo nên nghĩa biểu trưng mà hình ảnh sử dụng chính là
phương tiện. Ví dụ câu tục ngữ “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Câu này nói về
một việc làm, một hoạt động cụ thể và một kết quả cụ thể. Kết quả này là kết quả thực tế
đã diễn ra như một kinh nghiệm sống. Thế nhưng hình ảnh “đi một ngày đàng” không nói
về một hoạt động đi cụ thể cùng một thời gian xác định mà nó biểu trưng cho một “quá
trình hoạt động thực tế trong cuộc sống”. Hình ảnh “sàng khôn” thì dùng biểu trưng cho
“sự hiểu biết và kinh nghiệm sống ở đời”. Hoặc như câu “Tre non dễ uốn”. Câu này trước
hết là kết quả từ nhận thức một hình ảnh có thực, cụ thể về một loài cây quen thuộc ở
Việt Nam. Tre già thì cứng, dòn. Tre non thì mềm, dẻo. Vì vậy, muốn cho cây suôn,
thẳng hoặc uốn lượn tùy thích thì phải tạo dáng lúc ban đầu. Và, từ hình ảnh có thực này
mà người ta mượn hình ảnh “ tre non dễ uốn” làm cái vỏ vật chất, làm phương tiện biểu
trưng cho một sự thực, nếu không nói là tính quy luật trong đời sống xã hội con người.
Mọi việc phải sửa chữa, uốn nắn ngay từ buổi ban đầu, đặc biệt là trong việc giáo dục con
người.
Chức năng biểu trưng này tạo nên nghĩa khái quát và do đó câu tục ngữ có thể
được vận dụng trong nhiều trường hợp khác nhau, tùy theo đối tượng. Mặt khác, ý nghĩa
biểu trưng ấy lại có khả năng tác động sâu sắc đến cả lí trí và tình cảm con người vì nó
được thể hiện bằng những hình ảnh thực tế được nhận thức từ chính cuộc sống và của cả

một cộng cồng. Người ta coi nó là chân lí, là quy luật, là những quy ước bất thành văn
nếu ai làm trái thì coi như không hợp lẽ, hợp đạo lí. Tất nhiên, không phải tất cả các câu
tục ngữ đều đúng, đều tích cực trong mọi trường hợp nhất là trong việc vận dụng nó
trong giao tiếp ngày nay. Nhưng, đàng sau mỗi câu tục ngữ, đằng sau những hình ảnh,
những kinh nghiệm được khái quát từ chính cuộc sống ấy là cả bản sắc văn hóa dân tộc,
là phong cách sống là lối tư duy logic riêng của tục ngữ Việt Nam.
3.4. Như vậy, từ lối suy nghĩ dựa vào kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày được
cố định hoá bằng các hình thức phán đoán, tục ngữ trong quá trình vận dụng đã ngày
càng mở rộng nghĩa và trở thành một thứ quy ước xã hội: “Những quy ước ấy là những
nếp sống, có khi là nếp nghĩ, cách diễn đạt nói năng, tất cả đã tạo thành một áp lực vô
hình, buộc con người phải làm như vậy mới hợp lẽ, hợp đạo lí.” [11,214]. Sự mở rộng
nghĩa của tục ngữ là kết quả của quá trình trừu tượng hóa “Quá trình trừu tượng hóa là
một quá trình tách những mặt riêng rẽ, căn bản nhất nào đó của cái cụ thể muôn vẻ. Ở
tục ngữ, quá trình trừu tượng hóa ấy chính là quá trình tạo ra nghĩa bóng.” [3,138].
Nghĩa của tục ngữ là nghĩa biểu trưng. Chính vì đại bộ phận tục ngữ được cấu tạo bằng
phương pháp biểu trưng nên chúng ta cho rằng cách nói của tục ngữ là cách nói ví von,
cách nói có hình ảnh dựa trên những mối quan hệ liên tưởng tương đồng hoặc logic
khách quan. Do đó, tiếp cận cấu trúc logic của tục ngữ không thể không tìm đến phương
pháp biểu trưng của tục ngữ. Từ cách tiếp cận này ta có thể hiểu rõ thêm tư duy logic của
tục ngữ. Điều này đã được Nguyễn Đức Dân khẳng định như sau: “ Dùng phương pháp
trên, chúng ta giải thích được vì sao hai tục ngữ dưới đây cùng một ý nghĩa:
- Không có trâu bắt chó đi cày.
- Không có chó bắt mèo ăn cứt.
Không thể dùng chó kéo cày cũng không thể bắt mèo ăn cứt. Vậy tại sao trong hai
tục ngữ trên bao chứa những điều không thể ấy? Vì chúng chỉ là cách dùng biểu trưng
theo cùng một phương pháp: “Khi không có cái tốt thì phải lấy cái kém để thay thế”. Hai
tục ngữ trên đồng nghĩa là vì thế. Hiểu theo phương pháp biểu trưng như vậy, chúng ta dễ
dàng nhận ra nghĩa của những tục ngữ tương tự của các dân tộc khác dù mới gặp lần đầu,
chẳng hạn “Không có ngựa thì cưỡi lừa” (Tục ngữ Acmêni). Ngựa dùng để cưỡi mà cũng
có thể dùng để kéo xe, trong khi đó gà thì không thể kéo xe. Thế mà câu dưới đây cùng

nghĩa với câu trên, và cũng có dáng dấp của một tục ngữ: “Không có ngựa bắt gà trống
kéo xe” ( )
Việc nhìn nhận nghĩa của tục ngữ được hình thành theo phương pháp biểu trưng
sẽ cho phép chúng ta dễ dàng phát hiện và giải thích đạo lí của một tục ngữ” [ 1,359]
Từ cách nói theo phương pháp biểu trưng này ta thấy logic trong tục ngữ đã có
những biểu hiện của tư duy khoa học, tư duy lí luận. Nét độc đáo của logic trong tục ngữ
là khi diễn đạt sự suy nghĩ trừu tượng không bằng những thuyết lí khô khan, đầy rẫy
những khái niệm mà bằng những hình ảnh sinh động, cụ thể. Những hình ảnh sinh động
cụ thể là sản phẩm của lối quan sát trực tiếp, của tư duy kinh nghiệm và trong quá trình
vận dụng nó dần dần mở rộng nghĩa. Những hình ảnh sinh động, cụ thể ấy dần dần trở
thành một tín hiệu, một phương tiện, một “mã nghệ thuật”. Cái “mã nghệ thuật” này tạo
nên cấu trúc logic của tục ngữ. Cấu trúc logic trong tục ngữ cũng tạo nên sự khu biệt giữa
tục ngữ với các loại hình văn học dân gian khác. Cũng cần phải nói thêm là sự mở rộng
nghĩa của tục ngữ không phải là vô tận. Sự mở rộng nghĩa này giới hạn trong một trường
liên tưởng và tuy có thể được vận dụng trong vô vàn những trường hợp khác nhau nó vẫn
có một số nét nghĩa chung. Ví dụ câu tục ngữ “Tre già, măng mọc”. 12 trường hợp vận
dụng sau đây mà chúng tôi thống kê được không phải là 12 nghĩa khác nhau mà chỉ có
cùng trường nghĩa biểu trưng chung và đã được vận dụng sáng tạo trong nhiều hoàn cảnh.
a)"Đội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ trước mặt bao nhiêu
người: "Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho ăn bùn". Ai chả hiểu
"người ta" đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ :"Thằng mọt già ấy chết, anh em
mình nên ăn mừng". Những người biết điều thì hay ngờ vực; họ chép miệng nói: "Tre già
măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình cũng chẳng lợi tí gì đâu".
(Nam Cao- Chí Phèo)
b)“- Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ
vừa đi, lại có Bình Chức ở đâu lần về.”
(Nam Cao- Chí Phèo)
c)"Tổ nữ chúng cháu tập cày là để đỡ vất vả cho các ông, các bác. Tre già măng
mọc, nhưng măng có mọc được cũng nhờ có bụi".
(Chu Văn- Hương cau- Hoa lim)

d)" Họ quyết gây được một cơ sở vững mạnh ở Sa Ngọc, những thanh niên nam nữ có
sức khoẻ, hăng hái. Tre già thì măng phải mọc. "
(Chu Văn - Bão biển (tập 1), NXB Văn học, HN 1982, tr 273)
e)" Nhưng anh ạ, chúng ta cũng cần phải nghĩ đến việc bổ sung ngay lực lượng mới cho
hàng ngũ đảng viên. Chúng mình trăm công ngàn việc, tuổi đời cũng chẳng trẻ trung
gì. Tre già cần có măng mọc."
(Chu Văn - Tuyển tập ( Bão biển -tập 2)- tr 659)
f)" Tấm lòng ông rồi sẽ được đền bù. Sự nghiệp một đời sẽ còn mãi trong thằng cháu
trưởng thành, nên người đó thôi. Ông bạn hãy nhìn đàng sau cội tùng kia đi. Tuổi trẻ là
đó, hi vọng là đó chứ đâu nữa. "Tre già măng mọc mà". Đừng buồn ông bạn già!"
(Nguyễn Ngọc Tuyết- Chiếc độc bình cổ-,"Truyện ngắn miền Tây",tr 288)
g)"Một số ít cán bộ già mắc bệnh công thần, cho mình là người có công lao, hay có thái
độ "cha chú" với cán bộ trẻ, đảng viên trẻ nói gì cũng gạt đi, cho là "trứng khôn hơn vịt",
"măng mọc quá tre".
(Hồ Chí Minh- Bài nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ )
h)"Mình thì nghĩ: tre già măng mọc, mình đi tất sẽ có người khác lên thay, chưa ai dám
nói chắc người sau nhất định phải non hơn người trước".
(Nguyễn Khải- Chiến sĩ)
i)" Có một thực tế đáng báo động là ở cả 12 hội VHNT trong khu vực ĐBSCL hiện đang
hụt hẫng những cây viết trẻ. Hội nào cũng già nua quá. Lớp người giữ cương vị nòng cốt
ở các Hội địa phương nhưng đều ngấp nghé ở lứa tuổi 50 cả rồi. Những cây viết chủ lực
trong hội thường cũng từ 40 tuổi trở lên. Tre tàn nhiều rồi mà măng chưa mọc "
(Phương Huy- Bàn tròn Thơ ĐBSCL)
k)"Tôi chỉ kiến nghị làm sao ta trở lại với truyền thống xưa, vừa trọng xỉ (tuổi tác) vừa lo
vun đắp cho lớp trẻ, mà ở thời phấn đấu chống tụt hậu này tre chưa già măng đã phải
mọc thì mới theo kịp thiên hạ được."
(Dương Trung Quốc-TTCN số 12, 28-3-2004, tr 9)

l) “Tre già măng mọc, một thế hệ mới đang ngoi lên trên bực thang lãnh đạo. Các gia
đình doanh nhân giàu có nhất Châu Á đang cố gắng chuyển mình hòng tiếp tục phát triển

cơ ngơi mà cha ông của họ đã khai phá.”
(Anh Nguyễn- Những đại gia Châu Á chuyển mình hội nhập-KTTN số 491,tr22)
m) “Trong quá khứ, Thể Công rất giỏi tạo dựng một nền tảng vững chắc. Tre chưa già
măng đã mọc, Thể Công không bao giờ rơi vào cảnh thiếu hụt lực lượng, vá víu nhặt
nhạnh từ nơi này nơi kia.”
(Thanh Niên chủ nhật, 25-4-2004, tr 20)
3.5. Những câu tục ngữ có khả năng mở rộng nghĩa là những câu nói về những
quan niệm về xã hội, nhân sinh. Khi mở rộng nghĩa, nghĩa của tục ngữ không còn mang
tính cố định khi chỉ về một hiện tượng, sự vật cụ thể nữa mà có thể đề cập đến nhiều sự
vật, hiện tượng mà người ta có thể đồng nhất hoá. Đến lúc này, nghĩa biểu trưng của tục
ngữ không chỉ phản ánh một sự vật, hiện tượng mà đã tiến đến khái quát hoá, trừu tượng
hoá tức đến gần tư duy khoa học. Nghĩa biểu trưng của tục ngữ được dùng để phản ánh
những quy luật chung nhất của thế giới khách quan, quy luật vận động và phát triển của
xã hội. “Nội dung của nhiều câu tục ngữ ấy có thể coi như là những phạm trù nhận thức,
những phạm trù triết học, được nhân dân dùng để nhận thức thế giới trong bản chất,
trong tính quy luật của nó.” [3,144] Chính điều này nên khi tìm hiểu nội dung của tục
ngữ ta cần tìm hiểu nghĩa biểu trưng. Việc tìm hiểu nghĩa biểu trưng của tục ngữ sẽ giúp
ta nhận biết những phạm trù mà tục ngữ đề cập. Ví dụ như câu tục ngữ “Đẹp nết hơn đẹp
người”. Trong câu tục ngữ này “đẹp nết” dùng để biểu trưng cho phẩm hạnh, đạo đức của
con người; “đẹp người” dùng để biểu trưng cho bề ngoài hoặc sắc đẹp. Nghĩa của câu tục
ngữ trên là “phẩm hạnh, tư cách đạo đức của con người hơn cái vẻ bề ngoài hay sắc
đẹp”. Như vậy, câu tục ngữ trên có sự so sánh giữa hai phạm trù “đạo đức” và “sắc đẹp”
và khái quát hơn đó là sự so sánh giữa hai phạm trù “nội dung” và “hình thức”.
Điều này thể hiện quan niệm của dân tộc ta là trọng đạo đức hơn sắc đẹp; xem nội dung
quan trọng hơn hình thức. Nhiều câu tục ngữ cũng phản ánh quan niệm trên:
- Đẹp chẳng mài mà uống.
- Đẹp chẳng độn đàng mà đi.
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.
Thậm chí có những câu tục ngữ như “Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối” dù không
thuộc phạm trù “xấu- đẹp” nhưng lại cùng phạm trù “nội dung- hình thức”. Như vậy,

việc tìm hiểu nghĩa biểu trưng cho ta thấy các phạm trù được đề cập trong tục ngữ. Và
như thế, nó không chỉ giúp ta hiểu đúng ý nghĩa câu tục ngữ mà còn giúp ta nắm được
cấu trúc logic của chúng.
Cái cốt lõi của tục ngữ là tư tưởng. Tư tưởng trong tục ngữ được thể hiện bằng các phán
đoán. Phán đoán logic của tục ngữ không giống như các phán đoán logic thông thường.
Phán đoán logic thông thường gắn với một tình huống, mục đích và hành vi nói năng cụ
thể. Phán đoán logic của tục ngữ thì lại thể hiện tính quy luật, tính tất yếu và tính phổ
biến của những hiện tượng trên. Hay nói cách khác, chỉ có những phán đoán thể hiện tính
quy luật, tính tất yếu và tính phổ biến mới có thể trở thành phán đoán logic của tục ngữ.
Cũng vì phản ánh tính quy luật, tính tất yếu và tính phổ biến về hiện thực khách quan mà
ý nghĩa của câu tục ngữ đã ngày càng mở rộng. Do đó, nghĩa của đại bộ phận tục ngữ là
nghĩa biểu trưng. Việc tìm hiểu nghĩa biểu trưng của tục ngữ giúp cho ta hiểu đúng nội
dung ý nghĩa và cũng giải thích vì sao một câu tục ngữ được vận dụng trong nhiều tình
huống khác nhau mà vẫn hợp. Do mang nghĩa biểu trưng nên có những câu tục ngữ đề
cập đến nhiều phạm trù khác nhau. Tuy nhiên, sự mở rộng nghĩa của tục ngữ, như chúng
tôi đã đề cập ở trên, không phải là vô tận mà nó nằm trong trường liên tưởng nhất định
phụ thuộc vào từng cấu trúc logic, cấu trúc hình thức và cấu trúc hình ảnh của chúng.
Tóm lại, theo chúng tôi, tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa biểu trưng.
Chính nghĩa biểu trưng tạo nên hiện tượng nhiều nghĩa của tục ngữ. Hiện tượng nhiều
nghĩa của tục ngữ là hiện tượng mang tính phổ quát và cũng chính vì thế mà nó có thể
được vận dụng trong những những hoàn cảnh khác nhau, đối tượng khác nhau, mục đích
khác nhau. Việc giải thích nghĩa của tục ngữ là điều không dễ dàng. Điều này do những
nguyên nhân về ngữ nghĩa, ngữ pháp và tri thức về văn hoá của một cộng đồng. Nghĩa
của tục ngữ chỉ được cụ thể hoá trong môi trường ứng dụng. Nhưng cũng chính môi
trường ứng dụng này cũng lại cho ta biết những cách hiểu khác nhau về tục ngữ, do trình
độ tiếp nhận và tái hiện của cả người thụ ngôn lẫn phát ngôn.


×