1. Tổng quan về Singapore
Đất nước Singapore có tổng diện tích 648,1 km2 trong đó diện tích đất liền là 585,4 km2,
còn lại là phần diện tích của 63 hòn đảo nằm rải rác trong biên giới biển. Với mật độ dân
cư khoảng 4,4 triệu người trong đó 76% là người gốc Hoa, 15% là người Malaysia, 8% là
Ấn Độ và 2% là các nước khác, điều này phản ánh sự đa dạng về văn hoá của người
Singapore.
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á
và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế
biến và lắp ráp máy móc. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử
và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở
châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc
dân). Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri
thức.
Năm 1960, GDP của Singapore chỉ là 0,7 tỷ đô-la Mỹ, thu nhập bình quân đầu người chỉ
là 427 đô-la Mỹ/ năm. Thế mà năm 2005, GDP của Singapore đã là hơn 116 tỷ đô-la Mỹ,
thu nhập bình quân đầu người là 26,892 đô-la Mỹ/năm. Nước Singapore hiện nay là nước
có thu nhập bình quân đầu người lớn thứ 2 ở châu Á, sau Nhật Bản và nằm trong hàng
các nước tiên tiến, văn minh, giàu có nhất trên thế giới.
Singapore có diện tích chỉ 660 km2, rộng hơn thành phố Hà Nội của Việt Nam một chút.
Tài nguyên thiên nhiên gần như không có gì cả. Chỉ có con người, và một ít đất để ở cùng
biển cả bao la
2. Nguyên nhân
• Khách quan:
a. Bối cảnh khu vực thuận lợi:
Những năm 1930-1975, hầu hết các nước Đông Nam Á đang trải qua cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc từ tay đế quốc, hứng chịu hậu quả của chiến tranh. Và sau đó
những năm 1965-1980, ảnh hưởng xấu của Chiến tranh lạnh lúc cao trào cũng là nguyên
nhân khiến cho các nước Đông Nam Á khác khó có điều kiện phát triển. Trong khi đó,
Singapore từ khi tách ra khỏi liên bang Maylaysia, không phải trải qua một cuộc chiến
tranh nào, điều kiện hòa bình, ổn định đó tạo tâm lý an toàn cho giới đầu tư phương Tây.
Singapore đã tận dụng rất tốt lợi thế này.
1
b. Lợi thế về mặt địa lý:
Singapore đã trở thành một thành phố hiện đại nhờ vào vị trí và bến cảng của mình.
Singapore không có tài nguyên, song vị trí địa lý mang lại cho Quốc đảo này những tiềm
năng "tài nguyên" vô cùng phong phú và nhiều ưu thế. Singapore nằm ở giao nhau của
con đường Huyết mạch chính vận chuyển hàng hải giữa Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương
và eo biển Malacca. Quốc đảo nhỏ bé này được tổ hợp nên bởi hơn 50 hòn đảo trong đó
Singapore là hòn đảo lớn nhất, chiếm 9/10 diện tích toàn quốc. Địa thê nơi đây phẳng
đều, những eo biển giữa các hòn đảo chính là nơi neo đậu thuận tiện của các thuyền bè.
Nằm tại một trong những giao lộ của thế giới, vị trí chiến lược của Singapore chính là
một yếu tố thuận lợi góp phần giúp quốc gia này phát triển thành một trung tâm quan
trong trong các lĩnh vực thương mại, viễn thông và du lịch. Ví trí của Quốc đảo này nằm
cách đường xích đạo 136,8 km về phía Bắc, giữa vĩ độ 103038' và 104006' vĩ độ đông.
Singapore nối liền Malaysia bởi hai cây cầu vượt, và những hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo
Riau của Indonesia chỉ cách quốc gia một chuyến tàu tốc hành. Đối với Singapore và
Philippine chỉ là một chuyến bay ngắn. Đảo quốc Singapore có một phi trường lớn phục
vụ hơn 69 hãng hàng không. Quả là đất nước "cửa ngõ" vào Đông Nam Á. Những thuận
lợi đó như một loại tài nguyên quý giá từ trước đến nay vẫn thúc đẩy sự cường thịnh của
nền kinh tế đất nước và biến Singapore thành một trung tâm giao thông và thông tin liên
lạc.
GIAO THÔNG ĐƯỜNG THỦY
Singapore là một trong những bến cảng sầm uất nhất thế giới về số lượng hàng hóa vận
chuyển ở đây. Đây cũng là một kho chứa hàng lớn, một trạm trung chuyển trọng yếu và
là một trung tâm phân phối hàng hóa. Các tàu thủy thuộc hơn 700 tuyến vận chuyển hàng
hải qua lại bến cảng này để nối Singapore với khoảng 600 hải cảng trên thế giới. Với 5
bến đỗ và khoảng 15 km cầu tàu, cảng Singapore có thể tiếp nhận tàu thuyền thuộc mọi
cỡ trọng tải
2
Đoàn tàu buôn của Singapore xếp hàng 15 trên thế giới với hơn 1.000 tàu thuyền thuộc
đủ các loại, từ tàu chở hàng rời, tàu chở container, tàu dầu, tàu khách. Trong số này có cả
những tàu trọng tải trên 100.000 tấn, một cỡ tàu vận tải xếp vào loại “siêu đại” trên thế
giới.
Ngành đóng tàu và sửa chữa tàu của Singapore cũng đã phát triển từ lâu, sau khi nước
này giành được độc lập. Ba xưởng đóng tàu lớn - Keppel, Sembawang và Jurong - trong
đó hầu hết là vốn nhà nước đảm đương phần lớn dịch vụ đóng và sửa chữa tàu. Ngoài ra
còn nhiều xưởng đóng tàu tư nhân chiếm khoảng 10% thị phần trong lĩnh vực này.
c. Khu công nghiệp Jurong:
Với hơn 300 nhà máy và cầu tàu, công ty Jurong Industrial Estate 1à tập đoàn công
nghiệp lớn nhất ở Đông Nam Á. Công ty này cùng với phi trường quốc tế Changi được
xây dựng phần lớn trên vùng đất trũng và đầm lầy của eo biển. Singapore có nhiều kho
dự trữ và nhà máy lọc dầu. Với việc phát triển căn cứ hải quân cũ của Anh Ở Sembawang
trên eo biển Johore thành một nhà máy đóng tàu thương mại, Singapore đã trở thành một
trung tâm lớn trong ngành đóng tàu sửa chữa tàu biển.
d. Đối tác:
Sau khi nước Anh rút đi, Singapore đã phát triển mối quan hệ mậu dịch với nhiều quốc
gia, trong đó có Mỹ, Nhật, Tây Âu và các nước trong khối ASEAN.
MỸ
Vào thập niên 1980, Mỹ đã trở thành đối tác quan trọng nhất của Singapore. Nước này đã
xuất khẩu sang Mỹ nhiều mặt hàng như ổ đĩa vi tính, mạch tích hợp, linh kiện bán dẫn,
các cơ phận của máy xử lý dữ liệu, ti vi, radio, máy cassette và hàng may mặc.
Singapore là một trong những quốc gia được Mỹ cho hưởng quyền ưu đãi mậu dịch. Với
sự ưa đãi này, Singapore có được nhiều thuận lợi trong việc buôn bán với Mỹ. Nhưng
đến năm 1989 Mỹ đã giải tỏa quyền ưu đãi này khi thấy chiều hướng phát triển thành
3
phần kinh tế của các nước này có khả năng dẫn tới sự cạnh tranh về mậu dịch, trở thành
đối thủ của Mỹ. Hậu quả là lượng hàng xuất khẩu của Singapore sang Mỹ đã giảm 15%,
trong đó có điện thoại, máy văn phòng, đồ gỗ và thiết bị y khoa, với thuế nhập khẩu bị
đánh ở mức 5% - 10%.
Những đối tác khác như Nhật Bản, Tây Âu cũng đầu tư đáng kể vào Singapore, trong đó
NB đứng thứ 2, sau Mỹ.
• Chủ quan:
a. Đảng PAP (People’s Action Party) lãnh đạo đất nước:
Đảng PAP của ông Lý Quang Diệu đã lãnh đạo đất nước Singapore từ khi giành được
độc lập từ người Anh năm 1959 đến nay, cũng giống như Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo nhân dân Việt Nam từ ngày giành được độc lập từ người Pháp năm 1945 đến nay.
Người của đảng Nhân dân hành động PAP của ông Lý Quang Diệu trực tiếp nắm các vị
trí lãnh đạo đất nước. Tổng bí thư đảng luôn luôn nắm chức Thủ tướng. Các đảng viên
cao cấp nắm các chức Bộ trưởng. Từ đó mà đường lối của đảng PAP được thực hiện trực
tiếp qua các đảng viên nắm chức vụ lãnh đạo Nhà nước.
b. Trọng dụng người tài:
Kinh nghiệm đầu tiên có thể thấy được là đảng PAP của ông Lý Quang Diệu tập hợp
được rất nhiều người tài, người có học vấn cao. Là người lãnh đạo, thì cần phải có nhiều
người tài. Không có tài, thì không thể lãnh đạo được. Đó là ý kiến của ông Lý Quang
Diệu. Bản thân ông Tổng bí thư Lý Quang Diệu đã tốt nghiệp ngành luật ở trường đại
học danh tiếng Cambridge của Anh năm 1949, khi ông 26 tuổi.
Vị Tổng bí thư thứ hai của đảng PAP, và cũng là vị Thủ tướng thứ hai của Singapore, từ
năm 1990 đến năm 2004, là ông Goh Chok Tong, tốt nghiệp tại trường Đại học danh
tiếng Williams College, Mỹ, về chuyên ngành Phát triển kinh tế.
4
Vị Tổng bí thư thứ ba của đảng PAP, tức là Thủ tướng thứ 3 hiện nay của Singapore Lý
Hiển Long, con trai cả của ông Lý Quang Diệu, sinh năm 1952, cũng đã tốt nghiệp
trường Đại học Cambridge của Anh về ngành toán và vi tính. Sau đó ông Lý Hiển Long
còn học về Hành chính công tại đại học Harvard - Mỹ.
Các đại biểu quốc hội Singapore là người của đảng PAP và các bộ trưởng cũng là người
của đảng PAP, cũng đều tốt nghiệp các trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Ông Phó
thủ tướng Jayakumar, đảng viên đảng PAP, phụ trách về an ninh quốc gia đã tốt nghiệp
tại khoa Luật, trường Đại học Yale Law của Mỹ. Đây là trường đại học mà vợ chồng ông
Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã học. Ông Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao George Yong-Boon
Yeo, đảng viên đảng PAP, sinh năm 1954, cũng tốt nghiệp trường Cambridge của Anh.
Ông Bộ trưởng Chánh Văn phòng Nội các Lim Swee Say, sinh năm 1954, đảng viên
đảng PAP, tốt nghiệp trường Loughborough của Anh. Ông Bộ trưởng Bộ quốc phòng
Teo Chee Hean, sinh năm 1954, tốt nghiệp trường Đại học Hoàng gia Imperial College
London -Anh.
Singapore đã lập hẳn ủy ban tuyển dụng tài năng Singapore sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1998.
Quan điểm của ông Tổng bí thư đảng kiêm Thủ tướng Lý Quang Diệu về trọng dụng, thu
hút nhân tài đã được đảng PAP thực hiện triệt để, rất có hiệu quả. “Lãnh đạo xấu sẽ đuổi
người tốt,người giỏi, không cho họ được giữ những chức vụ quan trọng”, ông Lý Quang
Diệu đã có lần nói như vậy. Nước Singapore không những tìm và sử dụng người tài trong
công dân Singapore, mà còn thu hút nhân tài từ nước khác đến. Người tài đến Singapore
làm việc, được định cư lâu dài, và được gia nhập quốc tịch Singapore dễ dàng.
c. Chính sách thu hút nhân tài:
+ Ưu đãi lao động giỏi
5
Đặc điểm chính của chính sách lao động Singapore là hạn chế tuyển dụng lao động nước
ngoài có kỹ năng thấp, trong khi tạo mọi điều kiện thuận lợi và ưu đãi nhằm thu hút lao
động có kỹ năng cao.Theo qui định, lao động có tay nghề thấp có mức lương dưới 2.500
đôla Singapore (khoảng 1.500 USD). Việc tuyển dụng lao động loại này hướng vào một
số nước, một số ngành cụ thể và chịu một số hạn chế.
Trong khi đó, chính phủ hết sức khuyến khích tuyển dụng những lao động có tay nghề
cao với mức lương trên 2.500 đôla Singapore. Nếu được chủ lao động nhận, lao động
diện này được cấp giấy phép làm việc ngay chỉ trong vài ngày và được quyền cho người
thân sang sống cùng.Singapore cũng rất chú trọng tuyển dụng nhân tài nước ngoài thông
qua kênh giáo dục. Hiện tại, Singapore có 35.000 sinh viên nước ngoài theo học tại các
trường đại học ở đây. Tại các trường như Đại học Quốc gia Singapore (NUS), Đại học
Kỹ thuật Nanyang, Đại học Quản lý Singapore, số sinh viên nước ngoài chiếm 20%.
Nhiều sinh viên Việt Nam theo học tại NUS cho biết sang học dưới dạng vay tiền của
Chính phủ Singapore. Đổi lại, sau khi tốt nghiệp các bạn trẻ này có nghĩa vụ làm việc cho
một công ty của Singapore (tại Singapore hoặc bất kỳ nước nào khác) trong thời gian tối
thiểu ba năm để trả nợ.Với cách làm này, Chính phủ Singapore luôn có nguồn lao động
chất lượng cao được bổ sung hằng năm để làm việc cho các công ty Singapore. Các
trường đại học của Singapore bù lại cũng có điều kiện và động lực để đầu tư hiện đại hóa
trường học theo tiêu chuẩn quốc tế và nhu cầu của thị trường lao động.
+ Lưu thông chất xám
Cũng giống như người Việt Nam, người Singapore thích nói đến câu “tiền nào của nấy”.
Họ tin rằng chỉ có nhờ sử dụng lao động chất lượng cao, trong đó có lao động nước
ngoài, Singapore mới có thể làm ra hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao.Quan niệm “chảy
máu chất xám” nay đã lỗi thời. Gần đây các nước đều nói nhiều hơn đến khái niệm “lưu
6
thông chất xám” nhằm tạo mọi điều kiện cho chất xám được di chuyển đến những nơi
nào mà nó có thể được phát triển tốt nhất.
d. Chính sách xã hội phù hợp:
Ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore trở thành một quốc gia độc lập. Khi nói về giai
đoạn chia tách này, ông Lý đã xúc động phát biểu: “Đối với tôi, đây là một thời khắc đau
buồn. Cả cuộc đời tôi, thời thanh niên của tôi, tôi đều tin tưởng vào sự hoà hợp và thống
nhất giữa hai vùng lãnh thổ”
Những thất vọng về chính trị chỉ là một phần trong những vấn đề mà Lý Quang Diệu phải
đối mặt. Ông nhớ lại “Chúng tôi đã gặp phải hàng loạt những vấn đề to lớn mà cơ hội
sống sót gần như không có…Singapore không phải là một đất nước tự nhiên hình thành
mà là một thương cảng do con người xây dựng, khi người Anh phát triển nơi đây thành
một điểm nút quan trọng trong giai đoạn thống trị trên biển khắp toàn cầu của họ.
Chúng tôi thừa hưởng hòn đảo này mà không có vùng nội địa, như một trái tim không có
cơ thể”. Vì thế ông Lý đã rất khôn ngoan khi giành ưu tiên hàng đầu cho những nhu cầu
cấp bách của đất nước mình. Đầu tiên là việc củng cố quốc phòng và giành được sự cộng
nhận của quốc tế với một ghế tại Liên Hợp Quốc. Để làm dịu lại tình hình sắc tộc bất ổn
trong nước, nội các đã nhanh chóng thành lập Bộ Quốc Phòng và Nội Vụ nhằm xây dựng
lực lượng cảnh sát và quân đội.
Cấp bách không kém là yêu cầu về kinh tế. Với việc đóng cửa các cơ sở của người Anh
(đóng góp tới 20% GDP), tình trạng thất nghiệp của Singapore đã tăng nhanh tới mức
14%. Để tạo thêm công ăn việc làm, đảng PAP đã thành lập Ban Phát Triển Nhà ở
(HDB), bắt đầu xây dựng nhà ở công cộng. Trong 18 tháng, đã xây dựng được nhà ở cho
30 nghìn người, cùng với đó cung cấp thêm hàng nghìn việc làm. Tới năm 2001, hơn
85% người dân sống trong các căn nhà do HDB xây dựng.
7
e. Chiến lược phát triển rõ ràng:
Sau nhiều năm nỗ lực thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu không thành công,
ông Lý và chính quyền của mình đã đi đến kết luận rằng tương lai của Singapore nằm ở
việc thu hút đầu tư trực tiếp từ các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ và châu Âu. Vì thế,
Singapore đã thiết lập một chiến lược với nhiều mục tiêu mũi nhọn. Đầu tiên, nước này
sẽ vượt qua các quốc gia láng giềng như những đối tác thương mại và thu hút các công
ty nước ngoài sản xuất ở Singapore và tái xuất sang các nước phương Tây.
Thứ hai, Singapore tự coi mình như một hòn đảo cấp 1 trong khu vực các nước thuộc thế
giới thứ 3. Những rào cản đầu tư và thương mại, dù rất thấp cũng đều được xoá bỏ. Khu
công nghiệp Jurong, một khu vực rộng lớn được tái thiết lại được một số người ví như
“con voi trắng”, được xây dựng làm cơ sở sản xuất cho các công ty thu hút nhiều lao
động bậc cao sản xuất hàng hoá theo các dây chuyền công nghệ Phương Tây.
Bộ Thương mại và đầu tư đã thành lập Uỷ Ban Phát Triển Kinh Tế (EDB) năm 1961 hoạt
động theo cơ chế một cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết nối trực tiếp với những
khách hàng tiềm năng ở chính quốc gia của các nhà đầu tư, các nhân viên của EDB cố
gắng thu hút các nhà đầu tư và định hướng đầu tư vào các lĩnh vực hoá dầu, sửa chữa tàu
thuyền, chế tạo kim loại và điện tử.
Những nhà đầu tư tiên phong cũng được miễn trừ các khoản thuế nhất định. Năm 1968,
một trong những thành công đầu tiên của EDB là nhà máy National Semiconductor, bắt
đầu sản xuất chỉ hai tháng sau khi quyết định đầu tư. Khi hai tập đoàn Texas Instruments
và Hewlett-Packard tái thiết hoạt động ở Singapore, cuộc đổ xô đầu tư bắt đầu.
f. Tích lũy tài chính:
Singapore có được sự tích lũy cao về tài chính chủ yếu là nhờ biện pháp thành lập Quỹ
Dự phòng Trung ương, trong đó người lao động phải đóng góp phần thu nhập của mình,
và Ngân hàng Tiết kiệm Bưu điện (Post Office Savings Bank), trong đó người dân có thể
ký thác tiền một cách tự nguyện. Quỹ Dự phòng Trung ương giúp đảm bảo nguồn tài
8
chính cho người lao động khi đã về hưu hoặc không còn làm việc, có thời gian đã qui
định mức đóng góp cưỡng bức lên đến 50% tổng thu nhập, trong đó người lao động và
người sử dụng lao động mỗi bên đóng một nửa. Ngoài khoản tiền trợ cấp sau khi nghỉ
việc, một phần trong quỹ này được người lao động rút ra để mua nhà và trả phí bảo hiểm
nhà, một phần được đưa vào các dự án đầu tư do chính quyền phê chuẩn, một phần khác
được rút ra để mua sắm các loại tài sản khác.
Ngoài ra người lao động cũng có thể rút tiền ở quy này để mua các loại cổ phần, cổ phiếu
chứng khoán, hay mua vàng dành cho việc đầu tư. Chính sách của quỹ dự phòng này là
đảm bảo tất cả số lượng đóng góp vào của người lao động cuối cùng đều được trả lại đầy
đủ và ngoài ra còn có thêm một khoản lãi suất nữa.
Đối với nhà nước Singapore, Quỹ Dự phòng Trung ương giúp ngân sách cho việc phát
triển các tiện ích công cộng, đối với cá nhân người lao động, Quỹ giúp điều tiết việc mua
sắm, tiêu dùng, do đó hạn chế được tình trạng lạm phát.
g. Tiếng Anh là quốc ngữ:
Tiếng Anh được đưa lên làm ngôn ngữ chính thức, cùng với tiếng Hoa. Ông Lý Quang
Diệu lãnh đạo đảng PAP để giành độc lập cho nhân dân Singapore từ người Anh, bỏ sự
lãnh đạo của người Anh, nhưng ông không bỏ tiếng Anh. Và cả bộ máy hành chính mà
người Anh xây dựng lên ở Singapore trong hơn 100 năm đô hộ, nước Singapore cũng
không bỏ. Ông Lý Quang Diệu cho tiếp thu tất cả nền hành chính tiên tiến đó. Nhân dân
được tự do cư trú, quyền tư hữu không bị xóa bỏ.
Ở nước Việt Nam ta, sau khi giành độc lập từ người Pháp, thì ta cũng bỏ luôn tiếng Pháp.
Và những cung cách quản lý hành chính tiên tiến, khoa học, không nhiều quan liêu giấy
tờ do Pháp xây dựng lên ở nước ta cũng không được tiếp tục áp dụng.
Về tầm quan trọng của tiếng Anh, ông Lý Quang Diệu nói: “-Nắm vững tiếng Anh, đó là
chìa khóa để giành lấy tri thức, công nghệ cao của phương Tây”.
9
h. Nhà nước dân chủ, tôn trọng dân:
Ông Lý Quang Diệu nói “Nếu chúng ta không ra sức làm việc, thì khi nhân dân mất lòng
tin, tội lỗi sẽ thuộc về chúng ta.,Khi nhân dân đã mất hết lòng tin, thì họ sẽ đòi hỏi một
chính phủ kiểu khác”. Ông Lý Quang Diệu cho rằng người dân không quan tâm lắm đến
thể chế, hình thức chính phủ, mà họ quan tâm đến “ họ có được một chính phủ được
thành lập qua bầu cử, họ có khả năng bầu ra chính phủ của họ và chính phủ sẽ đem lại
cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ và cho con cháu mai sau…”.
i. Chiến lược chống tham nhũng hiệu quả:
Ông Lý Quang Diệu nói “Sự sống còn của Singapore hoàn toàn dựa vào sự liêm khiết và
hiệu suất của các bộ trưởng và quan chức cao cấp của Chính phủ”. Ông nhiều lần khẳng
định “nhân dân quyết không thể dung tha những phần tử đầu cơ và lưu manh”. Về độ
trong sạch của bộ máy nhà nước, Singapore được xếp thứ 5 trong năm 2005, thuộc hàng
trong sạch nhất thế giới. Nhưng muốn chống tham nhũng tốt và muốn thu hút được nhân
tài, phải trả lương xứng đáng.
Những người bị kết tội tham nhũng có thể ngồi tù 5 năm và nộp phạt 100.000 đôla
Singapore (80.000 USD). Theo AP, Thủ tướng Lý Hiển Long còn muốn bổ sung nhiều
hình phạt khác để ngăn chặn tình trạng này. Sau một vụ tham nhũng hiếm hoi bị phát
hiện trong năm nay, ông Lý Hiển Long cho biết: "Thà chịu xấu hổ để giữ hệ thống trong
sạch, còn hơn là giả vờ như chẳng có gì sai và để khối ung nhọt này phát triển".
Tuy nhiên, pháp luật chỉ là một nửa chiến lược của Singapore. Đây là sự trừng phạt, chứ
không phải phần thưởng. Vì vậy, nước này đã trả lương rất hậu hĩnh cho các chính trị gia
và công chức nhà nước. Việc này vừa ngăn chặn nạn chảy máu chất xám, vừa diệt trừ
được tham nhũng tận gốc.
10
Vào năm 1985, ông Lý Quang Diệu khi đó nói rằng nước Singapore có 676 người giàu có
thuế thu nhập nộp ngân sách còn cao hơn lương các Bộ trưởng. Nhưng 3 vị bộ trưởng Tài
chính, Quốc phòng, và Nhà ở có vai trò quan trọng cho nước Singapore hơn 676 vị có thu
nhập cao kia. Và tiền lương trả cho toàn bộ bộ máy Chính phủ Singapore năm 1985 đó
chỉ là hơn 2,5 triệu đô-la Mỹ. Trong khi bộ máy Chính phủ đó quản lý một đất nước có
GDP là 17 tỷ đô-la Mỹ (1985). Còn công ty Vận tải biển Singapore chỉ làm ra doanh số
hơn 1 tỷ đô-la Mỹ, nhưng tiền lương của lãnh đạo cao cấp của công ty đó là gần 2 triệu
đô-la Mỹ.
j. Tài chính:
Sự phát triển nhanh chóng của Singapore có liên quan mật thiết với việc quản lý hữu hiệu
về tài chính. Những chính sách bảo thủ về tài chính và tiền tệ đã tạo ra mức tiết kiệm cao,
cùng với số lượng lớn về đầu tư nước ngoài đã giúp cho Singapore tăng trưởng mà không
bị tích lũy số nợ nước ngoài.
NHỮNG QUI ĐỊNH VỀ TIỀN TỆ, MẬU DỊCH VÀ ĐẦU TƯ
Singapore có một nền kinh tế đặc biệt cởi mở. Từ năm 1967 đến năm 1973, đồng đô la
Singapore bị buộc chặt vào đô la Mỹ, nhưng rồi sau đó được thả nổi. Cơ quan phụ trách
về tiền tệ của Singapore đã theo một chính sách can thiệp vào cả thị trường tiền tệ trong
nước cũng như thị trường ngoại hối để duy trì một mãi lực mạnh cho đồng tiền ở đây.
Chiến lược đa diện này đã được vạch ra để biến Singapore thành một trung tâm tài chính
bằng cách thu hút các loại quỹ tiền tệ đồng thời tránh sự mất cân bằng trong các hoạt
động chi thu khổng lồ của Quỹ Dự phòng Trung ương. Ngoài ra, đồng tiền mạnh ở đây
còn hỗ trợ cho chiến lược trả lương cao trong công nghiệp, dẫn tới sự đảm bảo lâu dài về
chất lượng hơn là chú trọng vào giá cả nhất thời, làm cơ sở cho sức cạnh tranh trong xuất
khẩu.
k. Quản lý đất đai:
11
Singapore là một nước có diện tích rất nhỏ trong khi dân số lại khá cao, từ đó mật độ dân
số ở đây được xếp vào một trong những nước cao nhất thế giới. Do đó việc quản lý, sử
dụng đất đai như thế nào cho hợp lý và hiệu quả về kinh tế là một vấn đề lớn cho chính
quyền ở đây. Việc quy hoạch các khu dân cư, xây dựng những cao ốc làm nhà ở cho nhân
dân đã được nhà nước thực hiện rất tốt, kết quả là hiện nay đa số người dân được sống
trong những căn hộ hiện đại và tiện nghi.
Ngoài lĩnh vực nhà ở dân dụng, quỹ đất ở Singapore còn phải tính toán cho mặt bằng của
các nhà máy, các cơ sở kinh doanh để tạo được hiệu quả cao về kinh tế.
Trách nhiệm này được giao cho một đơn vị có tên gọi là Công ty Thị trấn Jurong (Jurong
Town Corporation), thành lập vào năm 1968. Công ty này đã quy hoạch và xây dựng
nhiều nhà máy, cơ quan phục vụ khoa học, cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt và cảnh quan ở
Jurong như hàng ngàn nhà máy cho hàng trăm ngàn công nhân, Cảng Công nghiệp
Jurong, Khu Công viên Khoa học Singapore.
Theo quan điểm của ủy ban Kinh tế lúc đó, tỉ giá hối đoái của đồng đô la Singapore cần
được để cân bằng một cách tự nhiên theo giá trị thị trường thực tế của nó, chính quyền
không nên can thiệp vào. Khi nhà nước bỏ tất cả mọi sự kiểm soát về tỉ giá, các cá thể và
doanh nghiệp đã có thể tự do chuyển tiền, vốn đầu tư nhập khẩu hay lợi nhuận một cách
không hạn chế. Thuế nhập khẩu chỉ áp dụng cho một số ít các mặt hàng như ô tô, rượu,
dầu mỏ và thuốc lá, đồng thời chỉ có hàng nhập khẩu từ số ít các nước phương Đông là
cần phải xin giấy phép. Để khuyến khích xuất khẩu, tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều
được miễn thuế và nhà nước có kế hoạch bảo hiểm cho hàng hóa xuất ra nước ngoài. Sự
khuyến khích đầu tư cũng được xúc tiến qua việc miễn thuế cho vốn đầu tư, cho vay vốn
một cách mềm dẻo, linh hoạt, đồng thời hỗ trợ cho các doanh nghiệp nâng cấp hoặc mở
rộng.
l. Nông nghiệp:
12
Với diện tích rất nhỏ, cả nước chỉ bằng khoảng một phần ba diện tích Thành phố Hồ Chí
Minh, nhưng Singapore vẫn phát triển được một mức độ nông nghiệp của mình bằng
cách tập trung thâm canh để đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước.
Trong số những con đường cao cấp của Singapore, có một đường tên là Orchard (vườn
cây), vì nguyên thủy hai bên đường là những vườn cây trĩu quả và những luống rau xanh
tươi. Với quy hoạch đô thị để phát triển công nghiệp và thương mại, diện tích dành cho
nông nghiệp vốn đã nhỏ ngày càng bị thu hẹp lại. Tuy nhiên, ngoài số lượng rau quả và
thịt cá nhập từ các nước lân cận. Singapore cũng tự túc được một phần nhu cầu trong đó
có thịt gia cầm, trứng, thịt heo, rau, nấm và cá. Kỹ thuật cao cũng được quan tâm nghiên
cứu để đưa vào ứng dụng trong canh tác nhằm đạt tới sản lượng cao nhất trên một diện
tích nhỏ nhất.
Dù với diện tích nhỏ như vậy nhưng có những sản phẩm nông nghiêp như phong lan và
cây cảnh đã được Singapore xuất khẩu sang các thị trường Tây Âu, Nhật, Úc và Mỹ.
m. CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH
Chính sách tài chính của nhà nước nhằm tạo môi trường thúc đẩy một khu vực kinh tế tư
nhân năng động, tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ, lực lượng lao động tốt và đẩy mạnh sự
phát triển của Singapore.
Trọng tâm trong việc chi tiêu ngân sách của nhà nước được đặt vào việc cung ứng các
loại hàng hóa và dịch vụ công cộng thiết yếu, đặc biệt là trong các lĩnh vực giáo dục, nhà
ở, cơ sở hạ tầng kinh tế, y tế cơ bản và an ninh quốc gia. Giống như năm trước, gánh
nặng ngân sách của nhà nước dồn vào công cuộc phát triển xã hội (42%) và lĩnh vực an
ninh và đối ngoại (37%). Việc phát triển kinh tế chiếm 16% trong tổng ngân sách nhà
nước.
Trong thu nhập của nhà nước, chính sách thuế năm 2001 tiếp tục hướng trọng tâm vào
một cơ cấu thuế có sức cạnh tranh quốc tế nhằm khuyến khích các doanh nghiệp và thu
hút vốn đầu tư và nhân lực. Mặc dù có sự suy thoái mạnh trong môi trường bên ngoài
13
cũng như tình hình chững bước trong kinh tế Singapore, những thu nhập cần thiết vẫn
được tiến hành để làm nguồn tài chính cho các hoạt động của nhà nước và chi tiêu vào
việc phát triển.
n. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Chính sách tiền tệ tiếp tục đặt trọng tâm vào việc duy trì một mức lạm phát thấp và ổn
định, trong khi đó hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế trong giai đoạn mức cầu từ bên ngoài
suy giảm và dưới sức ép của một mức lạm phát nhẹ. Vào tháng Giêng năm 2001, cơ quan
phụ trách tiền tệ của Singapore quyết định duy trì một mức tăng giá thật nhẹ đối với đồng
đô la Singapore. Mục đích là để vượt qua sức ép lạm phát trong khi vẫn tiếp tục hỗ trợ
cho các hoạt động kinh tế trong giai đoạn mức tăng trưởng đang suy giảm. Vào tháng 7,
chính sách tiền tệ ở đây là giữ mứt trung tính trong tỉ giá hối đoái, với chỉ số tăng giá của
đồng đô la Singapore là 0%.
o. Tư hữu hóa:
Tư hữu hóa là một chính sách lâu dài của chính quyền có tác động rất nhiều đến nền kinh
tế cũng như đời sống của người dân Singapore. Năm 1986, ủy ban Kinh tế của Singapore
đã có một báo cáo trong đó nhận định rằng nền kinh tế trong nước đã đủ độ trưởng thành
để cho khu vực cá thể trở thành động cơ chính của guồng máy kinh tế. Đến năm 1987,
một đơn vị do chính quyền chỉ định, gọi là ủy ban về Đầu tư Khu vực Cá thể đã đề xuất
bán một số cổ phần của 41 trong số 500 cơ sở do nhà nước bao cấp, trong đó có cả Sân
bay Singapore và Công ty xổ số Quốc gia.
Một ý nghĩa khác trong việc tư hữu hóa là chính quyền Singapore muốn cởi bỏ những
chức năng chỉ có chi phí mà không thu nhập, chủ yếu là trợ cấp về nhà ở và y tế. Trách
nhiệm đó phải được chuyển dần sang cho người lao động và người sử dụng lao động. Cụ
thể là Quỹ Bảo hiểm Y tế đã được sát nhập vào Quỹ Dự phòng Trung ương. Nhà nước
không thể gánh vác những nhu cầu ngày càng tăng của người dân. Thế là có một sự dịch
chuyển, có thể gọi là từ “chủ nghĩa phúc lợi nhà nước” sang “chủ nghĩa phúc lợi công ty”
14
Những người trẻ trong tầng lớp lãnh đạo vẫn tâm đắc với việc tư hữu hóa về kinh tế. Mặc
dù họ nghiêng về đường lối chính trị độc quyền của Đảng Nhân dân Hành động, giới lãnh
đạo này lại lo ngại rằng người dân Singapore đã lệ thuộc quá sâu vào chính quyền và
mong muốn rằng người dân cần đứng ra giải quyết những vấn đề của họ.
p. NHỮNG CẢI CÁCH NHẰM TĂNG CƯỜNG THỊ TRƯỜNG
Những Thỏa Thuận về Tự Do Mậu Dịch
Singapore là một trong những nước ủng hộ mạnh nhất cho hệ thống mậu dịch đa phương
trong Tổ Chức Thương mại Thế giới (WTO): Trong khi đó Singapore cũng xúc tiến mậu
dịch tự do để tiến tới áp dụng mậu dịch và đầu tư tự do trước năm 2010 đối với các nền
kinh tế phát triển và trước năm 2020 đối với các nền kinh tế đang phát triển. Singapore là
thành viên của AFTA và đã ký kết Thỏa thuận Mậu dịch Tự do với New Zealand và Nhật
Bản vào cuối năm 2001.
Hệ Thống Kinh Tế Các Doanh Nghiệp
Singapore đã thực hiện những bước khởi đầu để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp khởi động, lớn mạnh và phát đạt. Singapore đang phát triển thành một trung tâm
tài chính cho kinh doanh với hàng loạt các loại quỹ tiền tệ nhằm hỗ trợ cho việc thành lập
và tăng trưởng của các doanh nghiệp. Việc khích lệ các doanh nghiệp khai thác nguồn tài
nguyên về tri thức cũng đã được áp dụng. Một trung tâm khoa học gần với các trường đại
học và các viện nghiên cứu sẽ được phát triển để làm môi trường hội tụ của những tài
năng và các công ty.
Khoa Học Và Công Nghệ
Chương trình Khoa học & Công nghệ 2005 cho 5 năm tới đã được thực hiện từ năm 2000
với 2 tỉ đô la Singapore dành cho việc nghiên cứu và phát triển công nghiệp. Theo thống
kê, trong 5 năm từ 1996 đến 2000, cứ 1 đô la chi phí cho chương trình nghiên cứu và phát
triển đã thu lợi được 4 đô la từ các hoạt động công nghiệp. Đây là một nguyên tắc quan
15
trọng đảm bảo quỹ nghiên cứu và phát triển được phát huy đúng hướng phục vụ cho kinh
tế. Mục tiêu của chương trình 2005 là chi phí hai phần ba quỹ nghiên cứu cho khu vực
kinh tế tư nhân.
Việc Tự Do Hóa Các Đơn Vị Cung Cấp Điện Năng Và Khí Đốt
Singapore đã triển khai thị trường tự do về cung cấp năng lượng để thúc đẩy sự cạnh
tranh trong việc sản xuất và bán lẻ năng lượng điện và khí đốt. Người tiêu dùng sẽ có cơ
hội chọn lựa một đơn vị cung cấp tốt với giá rẻ để hợp đồng mua điện hoặc khí đốt.
Những doanh nghiệp độc quyền trong việc truyền tải điện và vận chuyển khí đốt sẽ được
tiếp tục chỉnh đốn.
q. Ngân sách và kế hoạch:
Mặc dù Singapore theo chế độ kinh tế mở cửa tự do, nhưng chính quyền lại giữ quyền
can thiệp vào mọi hoạt động, từ việc hoạch định ngân sách cho đến việc thu gom rác.
Chính quyền sở hữu, kiểm soát, quy định hoặc phân phối đất đai, lao động và nguồn vốn.
Sự can thiệp này đã có những lác động tích cực đến lợi nhuận của các doanh nghiệp và cả
đời sống của nhân dân. Ngoài việc làm cho người lao động, chính quyền còn trợ cấp về
nhà ở, giáo dục, y tế, dịch vụ giải trí và giao thông công cộng.
Ngân sách và thuế là biện pháp thường xuyên để đạt các mục tiêu kinh tế. Những thay
đổi về ngân sách sau thời kỳ suy thoái đã tạo được nhiều lợi ích cho kinh doanh. Chẳng
hạn như ngân sách năm 1988 có khoản khích lệ cho các chương trình đầu tư nước ngoài,
miễn thuế cho các nhà đầu tư trong trường hợp thua lỗ. Các mục tiêu xã hội cũng được
đạt tới, như việc kiểm soát dân số bằng cách tăng giá thuốc men và học phí đối với đứa
con thứ ba trở đi.
16
17