Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Quản trị địa phương đối với hoạt động văn hóa ở Tp. HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.31 KB, 12 trang )

QUẢN TRỊ ĐỊA PHƢƠNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở TP.HCM
TS. Nguyễn Thị Tồn Thắng
Học Viện Cán Bộ TPHCM
Tóm tắt
Trong những năm gần đây, dƣới sự tác động của nền kinh tế thị trƣờng và q
trình tồn cầu hóa, bối cảnh văn hóa và giá trị văn hóa của đất nƣớc ta có nhiều sự
chuyển biến rõ rệt. Trong sự chuyển biến đó có những yếu tố tích cực và tiêu cực đan
xen lẫn nhau. Vấn đề đặt ra là trong q trình chuyển biến này, vai trị của công tác
quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa có ý nghĩa nhƣ thế nào, sức ảnh hƣởng
và năng lực quản lý có phù hợp với xu hƣớng phát triển, có tạo đƣợc nền tảng và động
lực cho sự phát triển hay khơng? Từ q trình xã hội hóa hoạt động văn hóa ở
TPHCM, bài viết đi tìm câu trả lời thật sự cho quản trị địa phƣơng đối với hoạt động
văn hóa trong bối cảnh hƣớng đến xây dựng nền hành chính hiện đại của đất nƣớc ta
trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Quản trị địa phương, hoạt động văn h a, quản lý văn h a…
Đặt vấn đề
Hoạt động văn hóa là một bộ phận của hoạt động xã hội, là quá trình sáng tạo, bảo
tồn, phân phối, tiêu dùng các sản phẩm văn hóa. Đây là cách hiểu dựa trên nhận thức
rộng nhất về văn hóa. Hoạt động văn hóa có các dạng hoạt động sau: Hoạt động sáng
tác và biểu diễn nghệ thuật; Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống; Hoạt động khai
trí – giáo dục nhằm góp phần nâng cao dân trí: diễn giảng, tọa đàm, thƣ viện; Hoạt
động lƣu giữ sản phẩm văn hóa nhƣ hoạt động bảo tàng, bảo tồn di sản văn hóa; Hoạt
động tiêu dùng sản phẩm văn hóa nhƣ đọc sách, nghe nhạc, xem phim - ảnh, xem biểu
diễn nghệ thuật, xem triển lãm, tham quan, du lịch; Hoạt động lễ hội, tín ngƣỡng, xây
dựng nếp sống, lối sống; Hoạt động vui chơi giải trí. Tuy nhiên, từ góc độ của hoạt
động quản lý, hoạt động văn hóa đƣợc xác định gồm các hoạt động sau: Thông tin,
tuyên truyền, cổ động; kinh doanh dịch vụ văn hóa; quản lý di tích lịch sử - văn hóa và
lễ hội truyền thống - hiện đại; quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở;
quản lý các thiết chế văn hóa, Thể dục thể thao; cơng tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm.
Để cho hoạt động văn hóa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thụ hƣởng văn hóa của ngƣời


dân, hƣớng đến những giá trị văn hóa tích cực phù hợp với thị hiếu của cộng đồng và
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, hầu hết các chính quyền địa phƣơng ln quan tâm
đến cơng tác quản lý hoạt động văn hóa trên những nguyên tắc mang tính định chế
quốc gia. Tuy nhiên, quản lý hoạt động văn hóa với phƣơng pháp quản lý hành chính
mệnh lệnh cho thấy những hạn chế nhất định về tính hiệu quả. Hạn chế lớn nhất là sự
thiếu kết nối giữa chính quyền và cộng đồng dân cƣ trong các hoạt động văn hóa. Các
chính sách và cơ chế quản lý không từ xuất phát điểm là nhu cầu của ngƣời dân càng
17


trở nên xa lạ và thiếu khả năng tác động lên ý thức và sự tham gia của cộng đồng. Do
đó, quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa, hƣớng tới nhu cầu và lợi ích của
cộng đồng cƣ dân dựa trên mơ hình tự quản với sự liên kết chặt chẽ giữa chính quyền
và ngƣời dân đã trở thành một xu hƣớng của nền hành chính hiện đại.
Bài viết này chia sẻ kết quả nghiên cứu quá trình thực hiện quản lý hoạt động văn
hóa của thành phố Hồ Chí Minh từ chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa trong
khoảng 10 năm trở lại đây dƣới nhãn quan của quản trị địa phƣơng với mong muốn
góp thêm một chút luận giải và đề xuất khoa học cho vấn đề quản trị địa phƣơng trong
một lĩnh vực cụ thể - hoạt động văn hóa.
1. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
Trƣớc khi phân tích kết quả nghiên cứu quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn
hóa ở thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta cần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận có liên
quan đến vấn đề cần trao đổi nhƣ: sự khác biệt giữa quản lý nhà nƣớc về văn hóa và
quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa; vai trị của quản trị địa phƣơng đối với
văn hóa trong q trình phát triển của địa phƣơng.
Quản lý nhà nƣớc về văn hóa chính là sự định hƣớng, tạo điều kiện, tổ chức điều
hành của nhà nƣớc, mục đích là làm cho văn hóa phát triển theo hƣớng vì sự phát triển
bền vững của con ngƣời và xã hội. Vậy có thể hiểu: Quản lý nhà nƣớc về văn hóa là sự
quản lý của nhà nƣớc đối với tồn bộ hoạt động văn hóa của quốc gia bằng quyền lực
của nhà nƣớc thông qua hiến pháp, pháp luật và cơ chế chính sách nhằm bảo đảm sự

phát triển của nền văn hóa dân tộc. Trong quản lý nhà nƣớc về văn hóa, Nhà nƣớc là
ngƣời đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền có trong hiến pháp của cơng dân
về văn hóa, điều tiết sự hài hịa của cơ cấu văn hóa, lợi ích văn hóa của nhóm xã hội,
các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của tồn xã hội trƣớc các mâu
thuẫn, nghịch lý nảy sinh từ sự vận động, phát triển xã hội. Con ngƣời là chủ thể sáng
tạo văn hóa, là ngƣời hƣởng thụ văn hóa. Hoạt động văn hóa là một hoạt động phức
tạp diễn ra trên bình diện rộng, trong tất cả các hoạt động xã hội. Vì thế, quản lý nhà
nƣớc về văn hóa thực chất là quản lý con ngƣời tham gia các hoạt động văn hóa để
thực hiện chức năng và nhiệm vụ đặt ra cho quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp
văn hóa.
Quản trị địa phƣơng đƣợc hiểu là tổng thể những cấu trúc tổ chức, những mơ hình,
những mối liên hệ giữa trung ƣơng với địa phƣơng. Thực chất của quản trị địa phƣơng
là tập trung vào tính tự quản của chính quyền địa phƣơng và sự tham gia của nhiều chủ
thể vào các công việc của cộng đồng. Vì vậy, nó có điểm tƣơng đồng với quản lý nhà
nƣớc ở địa phƣơng về mặt chức năng, nhƣng có những khác biệt trong cách thức tiến
hành hoạt động quản lý. ―Quản trị địa phương là việc quản trị ở cấp địa phương
khơng chỉ thuộc về bộ máy chính quyền mà cịn thuộc về cả cộng đồng nói chung và
những tương tác giữa cộng đồng với các cơ quan công quyền địa phương”.1 Thật ra,
1

Decentralization and democratic local governance programming handbook, 2000.

18


cho đến nay, khái niệm quản trị địa phƣơng vẫn chƣa tồn tại với một nội hàm chính
thức trên các văn kiện quốc tế hay Hiến pháp, pháp luật của bất cứ quốc gia nào. Khái
niệm đƣợc xem nhƣ là một chế định pháp lý và chính thức đƣợc xác định trong văn
bản pháp luật của một số quốc gia châu Âu là tự quản địa phƣơng. Tự quản địa
phƣơng đƣợc hiểu là quyền và khả năng thực tế mà các cơ quan tự quản địa phƣơng

đƣợc đƣa ra các quyết định và quy định các công việc quốc gia và quản lý các cơng
việc đó trên cơ sở và trong khuôn khổ pháp luật, tự chịu trách nhiệm và vì lợi ích của
nhân dân địa phƣơng. Quyền đó đƣợc thông qua các hội đồng hay hội nghị gồm những
ngƣời đƣợc bầu ra theo nguyên tắc bầu cử tự do. Từ nhận thức này, tự quản địa
phƣơng là quyền và các khả năng thực tế của các địa phƣơng, trong khuôn khổ các đạo
luật, quy định và xây dựng một phần chủ yếu các công việc tại địa phƣơng, trong sự tự
chịu trách nhiệm, vì hạnh phúc của nhân dân tại địa phƣơng mình. Chính quyền địa
phƣơng do ngƣời dân địa phƣơng lập ra và phụ thuộc vào sự lựa chọn của họ. Đó
chính là cơ sở cho dân chủ thực sự ở địa phƣơng, khơng phụ thuộc vào chính quyền.
Đồng thời, đây là cách để ngƣời dân tham gia đời sống chính trị ở địa phƣơng một
cách tự giác mà khơng cần đến sự vận động. Do đó, chính quyền địa phƣơng phải tôn
trọng và quan tâm thật sự đến dân chúng một cách thực chất, cụ thể, có trách nhiệm.
Từ các khái niệm trên, quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa đƣợc hiểu là
q trình quản lý các hoạt động văn hóa của chính quyền địa phƣơng có sự tham gia
của cộng đồng. Có thể thấy rằng, quản lý nhà nƣớc về văn hóa ở địa phƣơng có sự
khác biệt cơ bản với quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa.
Quản lý nhà nƣớc về văn hóa ở địa phƣơng là q trình thực hiện các chức năng
quản lý theo đúng những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó đƣợc vận dụng
thể hiện theo những phƣơng pháp nhất định. Phƣơng pháp quản lý văn hóa là biểu hiện
cụ thể mối quan hệ qua lại giữa nhà nƣớc với đối tƣợng và khách thể quản lý tại địa
phƣơng. Tính mệnh lệnh và nguyên tắc là đặc trƣng cơ bản của phƣơng thức quản lý
nhà nƣớc.
Trong khi đó, quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa hƣớng đến các hoạt
động văn hóa của địa phƣơng và lợi ích của nhân dân địa phƣơng. Do đó, q trình
quản trị hoạt động văn hóa cần căn cứ vào đặc điểm, nguồn lực của địa phƣơng và
nhu cầu của ngƣời dân địa phƣơng để xây dựng kế hoạch chiến lƣợc phát triển văn hóa
cho địa phƣơng. Chủ thể của quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa là cộng
đồng dân cƣ địa phƣơng, bao gồm các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức phi chính phủ… và công dân đang sinh sống, hoạt động tại lãnh thổ
địa phƣơng. Sự tham gia của các chủ thể vào quản trị địa phƣơng đối với hoạt động

văn hóa đƣợc thực hiện dƣới hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Chính quyền địa
phƣơng có quyền tự quản nhất định trong xây dựng và quản lý bộ máy của mình. Quản
trị địa phƣơng tại mỗi cấp có quyền tự quản nhất định về chức năng, nhiệm vụ, bộ
máy, ngân sách phù hợp với điều kiện của địa phƣơng theo quy định của pháp luật.
Đƣơng nhiên, quản trị địa phƣơng vẫn phải chịu sự kiểm sốt của chính quyền trung
19


ƣơng. Quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa hƣớng đến nhu cầu và sự đồng
thuận của cộng đồng là chủ yếu.
Từ những nhận thức trên, có thể thấy rằng, quản trị địa phƣơng đối với hoạt động
văn hóa có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, kích
hoạt các nguồn lực một cách hiệu quả trong quá trình phát triển đất nƣớc hiện nay. Khi
thực hiện quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa sẽ góp phần nâng cao trách
nhiệm đối với chính quyền địa phƣơng trên lĩnh vực này. Những cán bộ, công chức
trong bộ máy chính quyền địa phƣơng tham gia vào hoạt động quản lý với tƣ cách là
ngƣời cung cấp thông tin và dịch vụ theo nhu cầu của cộng đồng chứ không đơn thuần
là ngƣời thực thi nhiệm vụ hành chính trong cơng tác quản lý văn hóa. Điều này sẽ làm
gia tăng sự tham gia của ngƣời dân vào các quyết định, các kế hoạch liên quan đến
hoạt động văn hóa của địa phƣơng. Đồng thời làm gia tăng tính khả thi và tính hiệu
quả của hoạt động quản lý văn hóa. Bởi vì mối quan hệ song phƣơng, đa phƣơng giữa
các đối tƣợng trong hoạt động văn hóa đƣợc thiết lập trên mối quan hệ lợi ích và trách
nhiệm.
Với phƣơng thức đồng tham gia, quản trị địa phƣơng trong hoạt động văn hóa cũng
góp phần hạn chế và phịng ngừa tệ tham nhũng của các cán bộ, viên chức trong q
trình thực thi cơng vụ. Để kích hoạt sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động
quản lý văn hóa, tính minh bạch, cơng khai trong hoạt động quản lý đƣơng nhiên phải
đƣợc đảm bảo nhƣ một thang đo giá trị. Tham nhũng là hệ quả của sự kết hợp của độc
quyền và tự quyết trong trạng thái cực đoan trong khi các yếu tố trách nhiệm giải trình,
liêm chính và minh bạch bị loại trừ tối đa. Do đó, khi trách nhiệm giải trình, liêm

chính và minh bạch đƣợc gia tăng, tất yếu sự độc quyền và tự quyết sẽ giảm xuống.
Điều này chỉ thực sự xảy ra khi sự tham gia của cộng đồng đƣợc đảm bảo tối đa.
Một điểm yếu của hoạt động quản lý văn hóa ở cơ sở là sự lệ thuộc tài chính vào
ngân sách trung ƣơng. Quản trị địa phƣơng sẽ góp phần phá bỏ các rào cản về mặt thủ
tục và yếu tố pháp lý cản trở quá trình tiếp cận nguồn lực tài chính của các hoạt động
văn hóa. Quản trị địa phƣơng tạo khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực và hỗ trợ phát
triển kinh tế - xã hội địa phƣơng. Q trình xã hội hóa các hoạt động văn hóa dƣới sự
định hƣớng và quản lý khoa học của các cơ quan quản lý sẽ thúc đẩy sự gia tăng mạnh
mẽ các yếu tố nguồn lực trong cộng đồng. Khi yếu tố thẩm quyền, tài chính địa
phƣơng, năng lực quản trị địa phƣơng đƣợc củng cố sẽ tạo điều kiện cho chính quyền
và các doanh nghiệp tại địa phƣơng chú ý phát triển cộng đồng nói chung và các hoạt
động văn hóa phục vụ cộng đồng nói riêng. Sự tham gia của cộng đồng với tƣ cách là
chủ thể của quản trị địa phƣơng sẽ khuyến khích tinh thần tự nguyện tham gia và thực
hiện các kế hoạch phát triển văn hóa của địa phƣơng, là cơ sở quan trọng cho việc phát
huy sức mạnh tổng hợp của chính quyền địa phƣơng, qua đó, góp phần nâng cao uy tín
và hình ảnh của địa phƣơng.
Kết quả nghiên cứu của bài viết dựa trên phƣơng pháp phân tích số liệu, kết quả
thực hiện q trình xã hội hóa hoạt động văn hóa thơng qua báo cáo của các địa
20


phƣơng, các cơ sở diễn ra hoạt động văn hóa, các Phịng Văn hóa quận huyện và Sở
Văn hóa – Thể thao – Du lịch của thành phố Hồ Chí Minh; các Nghị định, thơng tƣ
của Chính Phủ, Bộ ngành về chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa. Để lý giải vấn
đề, tác giả bài viết dựa trên cơ sở của lý thuyết Nhu cầu, đặc biệt là nhu cầu đƣợc trực
thuộc và nhu cầu tự thể hiện của Maslow và những tri thức của lý thuyết cấu trúc chức
năng để lý giải sự tham gia của cộng đồng trong quản trị địa phƣơng.
2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
2.1 Thực trạng của công tác quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa
từ chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh

Trong những năm gần đây, trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, thành
phố Hồ Chí Minh đã hƣớng đến hoạt động tự quản của địa phƣơng trên một số phƣơng
diện quản lý văn hóa thơng qua hoạt động xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Xã hội hóa theo nhận thức của quản lý nhà nƣớc là huy động, khuyến khích sự tham
gia tích cực của cả xã hội vào việc cung ứng dịch vụ, tạo ra sự đa dạng, phong phú về
loại hình, chất lƣợng và giá cả dịch vụ; tạo ra cho đời sống xã hội nhiều nguồn lực
phục vụ nhu cầu của xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho xã hội, thơng qua đó tăng
cƣờng ý thức, trách nhiệm của mọi ngƣời đối với những vấn đề liên quan đến quyền
lợi chung của cộng đồng. Với nhận thức này ―xã hội hóa hoạt động văn h a được hiểu
là sự vận động và tổ chức nhằm thu hút toàn xã hội, mọi lực lượng trong và ngoài
nước, các thành phần kinh tế tham gia các hoạt động sang tạo, cung cấp và phổ biến
văn h a, tạo điều kiện cho văn h a phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, phong phú và nâng
cao dần mức hưởng thụ văn h a của nhân dân trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng và công tác quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn h a”2.
Với quan điểm thực hiện xã hội hóa hoạt động văn hóa là xây dựng cộng đồng trách
nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện đời sống văn hóa, mở
rộng các nguồn đầu tƣ, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã
hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho
hoạt động văn hóa phát triển nhanh hơn, có chất lƣợng cao hơn. Xã hội hóa hoạt động
văn hóa đƣợc kỳ vọng là một thành tựu trong công tác quản trị địa phƣơng đối với hoạt
động văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua.
Trên lĩnh vực hoạt động nghệ thuật, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thực hiện
xã hội hóa hoạt động điện ảnh, các hãng phim do các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp,
các đơn vị nhà nƣớc và đơn vị tƣ nhân thành lập nhƣ: hãng phim Trẻ (thuộc Thành
Đoàn), hãng phim Phƣơng Nam (thuộc cơng ty văn hóa Quận 11), hãng phim TFS
(Đài truyền hình Thành Phố), hãng phim Đào Thu, Lý Huỳnh, Phƣớc Sang, Hoan
Khuê, Cửu Long film, hãng phim Thiên Ngân….Các hãng phim này hoạt động sôi
động, tạo ra nhiều tác phẩm phim thƣơng mại, cung ứng nhu cầu thụ hƣởng của ngƣời
2


Đinh Xuân Dũng, Xã hội hóa hoạt động văn h a – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Ban Tƣ tƣởng Văn hóa
Trung ƣơng, Hà Nội, 2000, tr21.

21


dân và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hoạt động mạnh mẽ của các hãng phim tƣ nhân
đã kích thích cho sự chuyển đổi của các hãng phim nhà nƣớc, chuyển đổi sang công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên để bƣớc vào thị trƣờng cạnh
tranh. Đối với hoạt động sân khấu, hoạt động xã hội hóa đã đƣợc thực hiện ở các sân
khấu kịch nhƣ sân khấu 5B – Võ Văn Tần, sân khấu kịch IdeCaf, sân khấu kịch Phú
Nhuận, sân khấu kịch Sài Gòn, sân khấu kịch Trần Cao Vân, sân khấu kịch Hồng
Thái Thanh. Các sân khấu kịch này chính là điểm sáng văn hóa của thành phố, đóng
góp thiết thực cho sự phát triển của hoạt động văn hóa ở thành phố, góp phần thỏa mãn
nhu cầu thụ hƣởng văn hóa lành mạnh của nhân dân thành phố. Tuy khơng phát triển
mạnh nhƣ các sân khấu kịch, sân khấu cải lƣơng cũng có sự chuyển mình mạnh mẽ
trƣớc làn sóng xã hội hóa. Nhà hát cải lƣơng Trần Hữu Trang là một điển hình trong
lĩnh vực này nhƣng chỉ hoạt động hiệu quả từ 1999 – 2006. Đến nay, chƣa có thêm mơ
hình nào trên lĩnh vực cải lƣơng đƣợc hình thành từ xã hội hóa. Ở các địa phƣơng nhƣ
quận, huyện có tồn tại các câu lạc bộ, các nhóm đờn ca tài tử nhƣng khơng phát triển
theo hƣớng mở rộng. Các loại hình nghệ thuật truyền thống khác nhƣ hát Bội, múa rối,
xiếc chƣa thực sự phát triển ở mơ hình xã hội hóa tuy cũng có liên kết tổ chức biễu
diễn với các cơng ty bên ngồi. Hoạt động ca múa nhạc cũng là một điểm sáng của xã
hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố Hồ Chí Minh với hoạt động sơi động của sân
khấu 126, sân khấu Trống Đồng, sân khấu Lan Anh, các phịng trà ca nhạc nhƣ: M và
Tơi, Đồng Dao, Khơng Tên….bên cạnh đó là các hoạt động khiêu vũ, karaoke cũng ra
đời góp phần thúc đẩy hoạt động ca múa. Trƣớc hoạt động mạnh mẽ của các sân khấu
tƣ nhân, các đơn vị biểu diễn nghệ thuật nhà nƣớc nhƣ Nhà hát ca múa nhạc Bông Sen,
Trung tâm ca nhạc nhẹ thành phố, Nhà hát Giao hƣởng và Vũ Kịch vẫn cịn loay hoay
và chƣa tìm đƣợc hƣớng phát triển mang tính cạnh tranh nhằm phục vụ nhu cầu thụ

hƣởng văn hóa ngày càng cao của ngƣời dân. Hoạt động mỹ thuật và nhiếp ảnh của
thành phố diễn ra với sự ra đời và hoạt động của các cơ sở nhiếp ảnh tƣ nhân, các
gallery nhỏ. Tuy nhiên, ngay từ đầu trên lĩnh vực này chƣa có các đơn vị sự nghiệp
nên thực tế xã hội hóa ở hoạt động này đã không diễn ra. Sự tồn tại của các cơ sở tƣ
nhân là hoạt động hoàn toàn tự thân dựa trên nhu cầu của xã hội mà khơng có sự tham
gia tác động bởi quản lý nhà nƣớc. Nó hoạt động dựa trên sự quản lý của các cơ quan
quản lý kinh tế. Nhìn chung, ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật ở thành phố Hồ Chí Minh,
xã hội hóa diễn ra khá rõ nét và mạnh mẽ.
Trên các lĩnh vực văn hóa lịch sử nhƣ: hoạt động bảo tàng, hoạt động bảo tồn di tích
lịch sử - văn hóa, thành phố cũng đã có chủ trƣơng thực hiện xã hội hóa. Tuy nhiên ở
thành phố vẫn chƣa thực sự có bảo tàng tƣ nhân nào ra đời. Trong khi hoạt động của
những bảo tàng nhà nƣớc lại có những chuyển biến rõ rệt. Các bảo tàng ở Thành phố
đã xã hội hóa hoạt động bảo tàng bằng các phƣơng thức: Xây dựng mạng lƣới cộng
tác viên cung cấp thông tin để sƣu tập hiện vật ở khắp các địa phƣơng; Vận động các
tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, đặc biệt là các nhà sƣu tập tƣ nhân (kể cả trong
và ngoài nƣớc), nghệ nhân, họa sĩ, điêu khắc gia hiến tặng tƣ liệu, hình ảnh, các bộ sƣu
tập, hiện vật quý cho các bảo tàng; Tổ chức trƣng bày chuyên đề với sự phối hợp của
22


các nhà sƣu tập tƣ nhân; Tạo mối quan hệ hợp tác với hệ thống bảo tàng các nƣớc, các
tổ chức hữu nghị để đƣợc nhận nguồn tài trợ, tổ chức trƣng bày, triển lãm chuyên đề ở
nƣớc ngoài; Mời các cá nhân, tổ chức nƣớc ngoài đến trƣng bày, triển lãm tại các bảo
tàng; Chủ động tổ chức hoạt động dịch vụ văn hóa phù hợp với chức năng bảo tàng.
Đối với hoạt động bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, đến hết tháng 12/2009, tồn thành
phố c 124 cơng trình, địa điểm được quyết định xếp hạng di tích, với 01 di tích quốc
gia đặc biệt (di tích lịch sử), 53 di tích quốc gia (25 di tích lịch sử, 26 di tích kiến trúc
nghệ thuật, 02 di tích khảo cổ học), 70 di tích cấp thành phố (28 di tích lịch sử, 42 di
tích kiến trúc nghệ thuật). Xét về quyền sở hữu di tích chỉ có 30 di tích chiếm 24,2%
di tích thuộc sở hữu Nhà nước. Từ năm 2007 -2008 trên địa bàn thành phố có 13 di

tích được thực hiện tu bổ, tôn tạo với 83,4% từ ngân sách thành phố, 16,6% từ nguồn
của cá nhân, tổ chức xã hội3. Từ năm 2009 – 2010, việc xã hội hóa hoạt động tu bổ,
tơn tạo di tích phát triển mạnh với 9 di tích đƣợc thực hiện tu bổ, tơn tạo từ nguồn vốn
xã hội hóa. Các quận – huyện cũng chủ động phối hợp với các ban ngành, trùng tu, tôn
tạo các di tích tại địa phƣơng.
Đối với lĩnh vực văn hóa đời sống nhƣ: Hoạt động thƣ viện, hoạt động lễ hội…hoạt
động xã hội hóa cũng đã đƣợc kích hoạt và phát triển. Các thƣ viện công lập nhƣ Thƣ
viện Khoa học Tổng hợp TPHCM đã thực hiện xã hội hóa bằng cách liên kết với các
đơn vị bạn để tìm thêm nguồn tài trợ cho hoạt động của thƣ viện, liên kết với các đơn
vị bên ngoài giúp thƣ viện có thêm kinh phí đầu tƣ cho các thiết bị phục vụ cho hoạt
động của thƣ viện. Điểm nổi bậc của hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực này là các
thƣ viện công lập đã biến các tủ sách gia đình trở thành chân rết, mạng lƣới của thƣ
viện Tổng hợp và thƣ viện quận huyện, phục vụ văn hóa đọc cho cộng đồng ở các địa
phƣơng tại cơ sở. Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa cũng đã mở đƣờng cho
việc thành lập một số thƣ viện tƣ nhân tại TP. Hồ Chí Minh. Hoạt động này đƣợc tổ
chức dƣới một số hình thức nhƣ thƣ viện nhỏ với các loại sách báo và phục vụ khơng
vụ lợi cho cơng chúng hoặc dƣới hình thức các quán cà phê có phục vụ sách (cà phê
sách)… Số lƣợng các thƣ viện tƣ nhân chƣa nhiều và đƣợc thành lập chủ yếu do sự
nhiệt tình của các cá nhân với hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, sau thời gian hoạt động,
hầu hết trong số đó hoặc đóng cửa hoặc chuyển sang mục đích phục vụ khác, duy chỉ
có hệ thống cà phê sách của Phƣơng Nam book trong khn viên Đại học Y dƣợc TP.
Hồ Chí Minh nằm ở giao điểm giữa đƣờng Lê Duẩn và Đinh Tiên Hồng, Tơn Đức
Thắng là cịn hoạt động. Hoạt động Nhà Văn hóa, Trung tâm Văn hóa ở TP. Hồ Chí
Minh đã có những chuyển biến từ sau khi đất nƣớc chuyển mình sang thời kỳ đổi mới.
Từ sau khi có chủ trƣơng xã hội hóa của Chính phủ, các hoạt động tại các Nhà Văn
hóa cấp thành phố, Trung tâm Văn hóa quận, huyện đã có nhiều phƣơng thức thực
hiện chủ trƣơng xã hội hóa. Có thể kể đến một vài đơn vị điển hình nhƣ: Nhà Văn hóa
Thanh niên trong tổ chức các hoạt động Câu lạc bộ, đội nhóm, Văn hóa nghệ thuật,
3


Bảo tàng Cách mạng TP. Hồ Chí Minh, Di tích lịch sử văn h a TP.
1998.

23

ồ Chí Minh, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh,


Khoa học giáo dục, Công nghệ thông tin, Thể dục thể thao, Tổ chức sự kiện… thu hút
đông đảo các đối tƣợng thanh niên, sinh viên, học sinh đến tham dự, và trở thành địa
điểm quen thuộc không thể thiếu để họ vui chơi, giải trí, học tập và rèn luyện các kỹ
năng sống. Cũng bằng phƣơng thức xã hội hóa, Nhà Văn hóa Phụ nữ đã hồn tồn chủ
động đƣợc nguồn kinh phí thơng qua việc tổ chức hoạt động các lớp đào tạo năng
khiếu, từ nhiều nguồn lực về con ngƣời có tài, có tâm, tạo ra nhiều loại hình đào tạo
năng khiếu phong phú, đa dạng, hấp dẫn, thu hút quần chúng tham dự rất đông đảo,
giúp cho nguồn thu của đơn vị tăng lên đáng kể, hồn tồn chủ động trong việc thực
hiện các chƣơng trình hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị của thành phố. Từ các
phong trào do Nhà Văn hóa, Trung tâm Văn hóa ni dƣỡng từ lâu đã xuất hiện các
câu lạc bộ, đội nhóm nghệ thuật quần chúng trƣởng thành, có tên tuổi, đóng góp thiết
thực cho bộ mặt văn hóa thành phố nhiều loại hình đa dạng, màu sắc phong phú theo
địa bàn cƣ dân, trình độ dân trí, mức sống, giới tính, sở thích, nhu cầu.… Tại thành
phố, tuy chƣa có Nhà Văn hóa, Trung tâm Văn hóa ngồi cơng lập, nhƣng lần đầu tiên
đã xuất hiện một loại hình khác ngồi cơng lập với quy mơ khá lớn, đó là các Cơng
viên Văn hóa nhƣ Đầm Sen, Suối Tiên, các công viên này ra đời với chức năng thuần
là khu vui chơi giải trí, và họ đã thành cơng trong việc thu hút cơng chúng, góp phần
nâng cao đời sống tinh thần cho quần chúng nhân dân sau những giờ làm việc, học tập.
Đây cũng là mô hình mà bất kỳ đơ thị hiện đại nào trên thế giới cũng áp dụng.
Từ khi có chủ trƣơng xã hội hóa hoạt động văn hóa, các lễ hội hiện đại với những
ngày kỷ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại đƣợc Nhà nƣớc tiếp tục nắm quyền tổ chức
với cơ chế điều hành từ Ban tổ chức lễ nhƣ giai đoạn trƣớc, nhƣng Nhà nƣớc vừa cấp

kinh phí, vừa vận động tài trợ bằng nhiều phƣơng thức; để có lực lƣợng tham gia hoạt
động, Nhà nƣớc huy động từ các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp Nhà nƣớc đến
các doanh nghiệp tƣ nhân, các tổ chức xã hội; Nhà nƣớc chủ yếu nắm kế hoạch, mục
tiêu yêu cầu, duyệt nội dung. Với cơ chế ấy, các lễ hội hiện đại đƣợc tổ chức ngày
càng có tính chất lễ hội, có nhiều màu sắc phong phú hơn. Vì vậy lễ hội hiện đại cũng
đã dần giảm đi tình trạng phải huy động lực lƣợng đến với lễ hội bằng biện pháp phân
cơng theo mệnh lệnh hành chính. Các lễ hội với sự tham gia của các đơn vị ngồi cơng
lập cùng với Nhà nƣớc. Đối với các lễ hội truyền thống, thành phố cũng chuyển giao
cho các doanh nghiệp tƣ nhân trong việc tổ chức thực hiện trong những năm gần đây.
Tuy có những thành tựu nhất định nhƣng q trình xã hội hóa hoạt động văn hóa
vẫn là một hình thức quản lý văn hóa trong quản lý nhà nƣớc bằng hệ thống văn bản
pháp quy đƣợc ban hành từ trung ƣơng xuống địa phƣơng. Vẫn còn dựa trên tƣ duy
quản lý hành chính mệnh lệnh. Tính tự chủ trong quá trình tham gia của các đối tƣợng
trong hoạt động văn hóa chƣa cao. Cơ chế giám sát của cộng đồng chƣa đủ mạnh và
mục tiêu hoạt động từ nhu cầu thụ hƣởng của cộng đồng chƣa đƣợc xem xét đầy đủ và
phù hợp.
Mặt khác, xã hội hóa hoạt động văn hóa đã bị hiểu sai lệch và phát triển theo hƣớng
gia tăng lợi ích kinh tế của các hoạt động văn hóa, giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách
24


Nhà nƣớc. Sự liên kết giữa các tổ chức trong q trình xã hội hóa đƣợc thực hiện trong
mối tƣơng quan lợi ích của các bên. Nhu cầu thụ hƣởng văn hóa của cộng đồng chƣa
thực sự trở thành nền tảng, mục tiêu và động lực cho các liên kết xã hội và sự tham gia
giữa các cá nhân, tổ chức. Vai trò tham gia vào việc giám sát các hoạt động văn hóa
của cộng đồng cịn mờ nhạt. Do đó, quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa ở
thành phố Hồ Chí Minh chƣa thực sự diễn ra, chƣa thực sự có sức ảnh hƣởng tích cực
và hiệu quả cao đối với quá trình phát triển văn hóa của thành phố.
2.2 Những điều kiện và giải pháp giúp cho công tác quản trị địa phƣơng đối
với hoạt động văn hóa tốt hơn

Muốn xây dựng một xã hội văn minh, cần hƣớng đến một nền quản trị xã hội trên
tinh thần dân chủ. Đối với hoạt động văn hóa, cơng tác quản trị chỉ có thể thực sự đƣợc
thúc đẩy khi nền hành chính của chúng ta thỏa các điều kiện sau:
+ Trình độ dân trí và mức độ ý thức về quyền công dân của ngƣời dân phải đƣợc
nâng cao: Trình độ dân trí cao giúp cho ngƣời dân có thể tham gia vào q trình quản
trị xã hội nói chung và quản trị về hoạt động văn hóa nói riêng. Khi tham gia vào các
cơng việc liên quan đến quản lý nhà nƣớc về văn hóa ngƣời dân sẽ nắm bắt nhanh
chóng các quy trình, thủ tục hành chính do pháp luật quy định đối với các hoạt động
văn hóa. Từ đó, ngƣời dân sẽ địi hỏi cơ quan quản lý nhà nƣớc và đội ngũ các bộ,
công chức ở địa phƣơng phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, nhằm đáp ứng
đƣợc yêu cầu này của ngƣời dân. Trong một xã hội có trình độ dân trí cao, ngƣời dân
nhận thức rất rõ về quyền lợi và trách nhiệm công dân của họ. Họ sẽ chủ động đề đạt
mong muốn của mình đến các cơ quan quản lý nhằm tạo ra những chính sách hƣớng
đến cung ứng nhu cầu thụ hƣởng và phát triển văn hóa chính đáng của nhân dân. Do
đó, cần hƣớng đến giáo dục nâng cao dân trí, truyên truyền và khuyến khích ngƣời dân
tham gia vào hoạt động quản lý văn hóa với nhiều hình thức khác nhau.
+ Gia tăng mức độ tham gia của các tổ chức xã hội vào quản trị địa phƣơng đối với
hoạt động văn hóa. Sự tham gia của các tổ chức xã hội góp phần tạo cơ sở khuyến
khích nguồn tài chính từ cộng đồng, khuyến khích đóng góp về vật chất và lao động.
Đồng thời, sự tham gia của các tổ chức xã hội sẽ giảm thiểu những rào cản giữa chính
quyền và nhân dân, tiếp nhận đƣợc các thông tin phản hồi hữu ích của ngƣời sử dụng
dịch vụ văn hóa, tránh những hậu quả xấu do không tham khảo ý kiến của những
ngƣời thụ hƣởng dịch vụ văn hóa. Sự tham gia của cộng đồng sẽ hình thành quan hệ
đối tác trong quản trị cấp địa phƣơng nhằm ngăn cản sự thao túng của các nhóm lợi
ích. Thơng qua mối quan hệ này, khi thực hiện các quyết định quản lý hoạt động văn
hóa, chính quyền địa phƣơng sẽ hạn chế mức thấp nhất những sai sót ảnh hƣởng đến
lợi ích của ngƣời dân, thúc đẩy sự phát triển thực sự của hoạt động văn hóa. Tuy nhiên
sự tham gia này chỉ có thể phát huy đƣợc tính tích cực khi có sự sự cam kết và ủng hộ
chính trị, trở thành văn hóa chính trị trong quản trị địa phƣơng. Khi công dân tin rằng
các quan chức và lãnh đạo địa phƣơng sẵn sàng cung cấp thông tin, lắng nghe và cùng

thƣơng thuyết sẽ khuyến khích họ tham gia vào công việc của địa phƣơng. Đồng thời,
25


dựa trên cơ sở trách nhiệm của các bên để đảm bảo những ngƣời thụ hƣởng cùng đóng
góp vào hiệu quả quản trị. Sự cam kết này đƣợc thể hiện bằng văn bản pháp luật.
+ Đảm bảo tính minh bạch trong báo cáo, giải trình cũng là một điều kiện quan
trọng cần đƣợc đảm bảo trong quá trình quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn
hóa. Hiện nay, trong quản lý hoạt động văn hóa, hoạt động báo cáo, giải trình theo
phƣơng thức cơ quan quản lý cấp dƣới báo cáo tổng kết trình lên cơ quan quản lý cấp
trên. Cộng đồng khó tiếp cận với các báo cáo, giải trình của các cơ quan trong quá
trình quản lý hoạt động văn hóa. Năng lực tham gia và giám sát của cộng đồng khơng
đƣợc tơn trọng thỏa đáng thì quản trị địa phƣơng không thể đƣợc thực thi thực sự.
Xu hƣớng xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại đang là nhu cầu cấp bách của
tất cả mọi quốc gia muốn hƣớng đến lợi ích cộng đồng và sự phát triển toàn diện con
ngƣời. Thực hiện quản trị địa phƣơng xét cho đến cùng đều nhằm vào việc khẳng định
vai trị quan trọng của chính quyền địa phƣơng, trả lại cho họ những quyền tự quản
theo nguyên lý của nhà nƣớc pháp quyền vì mục tiêu cơng bằng xã hội, dân chủ, văn
minh cho mọi công dân. Dù ở bất cứ hoạt động nào của xã hội, khi chính quyền địa
phƣơng thực hiện chính sách dựa trên nhu cầu, quyền và lợi ích chính đáng của ngƣời
dân, chắc chắn sẽ nhận đƣợc sự đồng thuận và tham gia tích cực của họ. Đảng và Nhà
nƣớc ta ln đề ra phƣơng châm Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Phƣơng châm
này nếu đƣợc thi thi và chuyển hóa vào thực tiễn đúng đắn chính là nền tảng đúng đắn
cho sự phát triển của mơ hình quản trị địa phƣơng.
Thơng qua q trình nghiên cứu và bài viết này, tác giả mạn phép đề xuất một số
giải pháp giúp cho quản trị địa phƣơng đối với hoạt động văn hóa đƣợc hiệu quả hơn
nhƣ sau:
Thứ nhất, thay đổi căn bản nhận thức của các cá nhân, cơ quan quản lý Nhà nƣớc
về văn hóa và tồn thể nhân dân về ý nghĩa quan trọng của quản trị địa phƣơng nhằm
hƣớng đến xây dựng một nền văn hóa mang tinh thần dân chủ theo tinh thần của Nghị

Quyết TW 5 Khóa VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thông qua hoạt động tuyên truyền và giáo
dục. Nhận thức cao nhất hƣớng đến lợi ích và nhu cầu tối đa của ngƣời dân trong q
trình hoạt động văn hóa và thụ hƣởng văn hóa.
Thứ hai, cần có sự nghiên cứu và thể hiện cụ thể quan điểm và nhận thức của
Đảng, Nhà nƣớc bằng những chiến lƣợc, chính sách và khung pháp lý cụ thể, rõ ràng,
minh bạch đối với từng lĩnh vực cụ thể của hoạt động văn hóa, hƣớng tới sự tự chủ và
liên kết giữa chính quyền địa phƣơng và cộng đồng dân cƣ. Q trình hoạch định và
thực thi chính sách phải lấy quyền lợi và nhu cầu của cộng đồng dân cƣ là trung tâm.
Thứ ba, với từng lĩnh vực cụ thể trong hoạt động văn hóa, cần có những phƣơng
thức phù hợp để kết nối cộng đồng trên cơ sở tơn trọng nhu cầu và lợi ích. Ví dụ với
26


lĩnh vực văn hóa lịch sử, Thái Lan có một kinh nghiệm quản trị rất hay. Ở các di tích,
chính quyền trang bị và cung cấp tồn bộ thơng tin liên quan đến di tích cho tồn thể
cộng đồng dân cƣ sinh sống và có sự liên kết với di tích. Chính những ngƣời dân này
sẽ là ngƣời cung cấp thơng tin của di tích cho du khách và hƣởng những lợi ích kinh tế
trực tiếp từ q trình tƣơng tác đó. Từ sự lựa chọn có phần mang tính chất duy lý,
nhƣng đã tạo nên chất keo kết nối và gắn cộng đồng vào hoạt động bảo tồn và phát
huy các giá trị của di tích văn hóa lịch sử.
3. Kết luận
Quản lý hoạt động văn hóa cơ sở là một nội dung trong quản lý nhà nƣớc về văn
hóa. Tuy nhiên, xu hƣớng phát triển của các nền hành chính hiện đại là nhằm vào việc
khẳng định vai trị quan trọng của chính quyền địa phƣơng. Qua đó, xây dựng một
chính quyền gần dân hơn, tạo điều kiện để ngƣời dân tham gia nhiều hơn vào các công
việc của địa phƣơng, tăng cƣờng tính trách nhiệm của lãnh đạo địa phƣơng trong ban
hành và thực thi các quyết định của chính quyền.
Để đảm bảo đƣợc giá trị của quản trị địa phƣơng trong tất cả các hoạt động nói
chung và hoạt động văn hóa nói riêng. Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc phải bắt đầu từ

cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích tối đa cho con ngƣời, đặc biệt là với cộng đồng dân cƣ
tại địa phƣơng.
Sự phù hợp của thiết chế và điều kiện kinh tế cũng phải đƣợc tính đến. Đồng thời,
tính hợp lý của những đặc thù văn hóa, lịch sử cũng nhƣ nhu cầu thực sự của cộng
đồng cũng là một thang đo cho sự thành công hay thất bại của quản trị địa phƣơng. Sự
thiếu đồng bộ và tính khả thi của các thiết chế trong quản lý nhà nƣớc về văn hóa sẽ
đƣợc giải quyết khi các chính quyền địa phƣơng chuyển sang cơ chế quản trị.
Tính ƣu việt của quản trị địa phƣơng giúp giải quyết những tồn tại của một nền
hành chính mang tính chất cai trị, hƣớng tới hồn thiện mơ hình xã hội lấy dân chủ là
giá trị cốt lõi của mục tiêu phát triển. Đó chính là lý do mà chúng ta cần quan tâm
nhiều hơn đến sự phát triển của quản trị địa phƣơng trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội của nƣớc ta hiện nay.

27


Tài liệu tham khảo:
1. ―Báo cáo hoạt động xã hội h a các lĩnh vực văn h a nghệ thuật TP. Hồ Chí
Minh”, số 854/SVHTT-BC, ngày 07/04/2008.
2. Bảo tàng Cách mạng TP. Hồ Chí Minh, Di tích lịch sử văn h a TP. ồ Chí
Minh, Nxb Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1998.
3. Dƣơng Thúy Cầm, Xã hội h a hoạt động điện ảnh ở TP. CM: Thực trạng và
giải pháp, />4. ThS Lê Tú Cẩm, Xã hội h a hoạt động ảo tàng ở thành phố
.

ồ Chí Minh,

5. Đinh Xuân Dũng, Xã hội hóa hoạt động văn h a - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Ban tƣ tƣởng Văn hóa Trung Ƣơng, Hà Nội, 2000
6. Học viện Hành chính Quốc gia, Quản lý nhà nước đối với ngành và lĩnh vực,

Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2007.
7. Sở Văn hóa – Thơng tin, Các tổ chức và hoạt động văn h a thông tin TP. ồ
Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2000.
8. Đào Thị Thanh Thủy, Quản trị địa phương - phương thức nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, Tạp chí Tổ chức nhà nƣớc,
2016.
9. Thƣ viện Khoa học Tổng hợp, ―Thư viện tổng hợp TP. Hồ Chí Minh tiếp tục
đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa và phát triển các dịch vụ phù hợp chuyên
môn và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng Thư viện”, 2010.
10. Trƣờng Đại học Văn hóa - Hà Nội, Quản lý hoạt động văn h a, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1998.

28



×