1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên luôn là yếu tố quan trọng quyết
định sức mạnh của một quốc gia. Bởi chúng ta biết rằng đất nước nào nằm giữ nhiều
nguồn tài nguyên sẽ luôn có được nhiều ưu thế và tạo đà phát triển cho chính quốc
gia đó. Việt Nam chúng ta đang có ưu thế về nguồn tài nguyên dồi dào được ưu đãi
với những trữ lượng kim loại và khoáng chất lớn, trong đó có quặng bô-xít, đất
hiếm, vonfram, titan, phốt-phát, than đá và sắt. Tuy nhiên, ngoại trừ than đá, phần
lớn các dự án khai thác hiện tại trong nước có quy mô nhỏ, đây là cơ hội tiềm năng
để phát triển quy mô lớn hơn.
Với dân số cả nước hơn 90 triệu, nước đông dân thứ 13 trên thế giới và thứ 3
trong khu vực, Việt Nam có nhiều lợi thế trong khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên
của mình.
Việc khai thác và sử dụng khoáng sản đã mở ra một ngành công nghiệp có vai trò
quyết định trong nền kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đó là
ngành công nghiệp khai khoáng. Công nghiệp khoáng sản là ngành đem lại lợi
nhuận cao nhất cho nền kinh tế quốc dân.Theo thống kê ở Việt Nam ngành công
nghiệp khoáng sản đã đóng góp được trên 100 sản phẩm,giá trị sản xuất công nghiệp
khoáng sản tăng liên tục từ 47 lên 90 nghìn tỷ đồng (từ năm 2010 đến năm 2013),
chiếm 26% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp trong nước và 5% -6% GDP cả
nước.
Việt Nam đã và đang bước vào hội nhập thế giới, từng bước tiến tới chiếm lĩnh
khoa học công nghệ cao, vì thế đòi hỏi trong khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên cần có một lộ trình khoa học, khai thác hợp lý. Đặc biệt chú trọng quản
lý nhà nước về khai thác khoáng sản ở các địa phương.
Công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản là một trong những ngành công
nghiệp quan trọng đối với mỗi quốc gia. Nó không chỉ góp phần tạo ra nguồn
2
nguyên liệu ổn định cho các nhu cầu trong nước mà còn đóng góp vào mức độ phát
triển chung của đất nước, đem lại nguồn thu nhập lớn cho những nước đang phát
triển như nước ta. Ngành khai thác khoáng sản đã dần khẳng định được vai trò và vị
trí xứng đáng cuả mình. Khoáng sản không những được dùng để phục vụ cho sản
xuất trong nước, cho đời sống dân sinh mà còn xuất khẩu để trao đổi hàng hóa và
thu đổi ngoại tệ về cho đất nước.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp khai khoáng, là một ngành đầu tư dài hạn, các dự
án luôn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Đó là những rủi ro về kinh tế, chính trị, kỹ
thuật và điều kiện địa chất - tự nhiên. Đứng trên góc độ nhà quản lý, khi quyết định
cấp phép khai thác vào một dự án nào đó bao giờ họ cũng mong tránh được rủi ro
hoặc những rủi ro họ gặp phải là thấp nhất như ảnh hưởng đến môi trường, an sinh
xã hội. Chính vì vậy, nâng cao sự giám sát trong quản lý khai thác khoáng sản tại địa
phương là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho các địa phương nắm bắt được lợi
thế của mình khi có các nguồn khoáng sản. Hơn lúc nào hết, sự quản lý khai thác
khoáng sản trên cả nước nói chung và địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng đang đứng
trước vận hội mới và trách nhiệm hết sức nặng nề, cần phải phát huy vai trò, vị trí đã
và đang có nhằm góp phần tích cực, hiệu quả vào sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện
đại hoá đất nước.
Những yêu cầu cấp bách trên đòi hỏi tỉnh Sơn La không những phải năng động
trong việc phát huy tiềm lực hiện có mà phải nâng cao chất lượng quản lý địa
phương để khai thác hợp lý, bền vững nguồn tài nguyên khoáng sản góp phần vừa
tăng thu nhập cho tỉnh vừa tham gia tích cực bảo vệ môi trường để toàn tỉnh cùng
với cả nước tiến tới thành công đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của công nghiệp khoáng sản và công tác
quản lý nhà nước của địa phương tôi chọn đề tài “Quản lý địa phương đối với hoạt
động khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La” làm đề tài nghiên cứu luận văn.
3
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu và bài viết về quản lý,
khai thác khoáng sàn ở Việt Nam, pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác, chế biến khoảng sản, cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới
về quản lý, khai thác khoáng sản theo hướng thân thiện môi trường, phát triển bền
vững. Điển hình như:
1) Bộ Tài nguyên và Môi trường (2015), Báo cáo công tác quản lý nhà nước về
khoáng sản năm 2014 và kết quả 6 tháng đầu năm 2015 và nhiệm vụ trọng tâm 6
tháng cuối năm 2015.
Báo cáo chỉ rõ những kết quả đã đạt được về những nội dung quản lý nhà nước
đối với hoạt động khoáng sản bao gồm:
Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tuyên truyền, phổ biến chính
sách, pháp luật; Công tác lập quy hoạch và phê duyệt quy hoạch khoàng sản; công
tác cấp phép hoạt động khoáng sản và đấu giá quyền khai thác khoáng sản; công tác
thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực khoáng sản; công tác tính tiền cấp quyền khai thác
khoáng sản; công tác xác định và hoàn trả kinh phí đã điều tra, đánh giá, thăm dò
khoáng sản bằng ngân sách nhà nước,…
Báo cáo khẳng định đến nay khung pháp luật và tiên đề pháp lý của quản lý nhà
nước về khoáng sản ngày càng được hoàn thiện (Chính phủ, các bộ ngành đã ban
hành 4 nghị định, 3 quyết định, 2 chỉ thị của Thủ tướng, hơn 30 thông tư của Bộ,
liên bộ; địa phương đã ban hành 173 quyết định, hơn 800 văn bản của 61/63 tỉnh,
thành phố kế từ sau khi Luật Khoáng sản 2010 có hiệu lực thi hành đên năm 2014).
Công tác lập va phê duyệt quy hoạch được đẩy mạnh. Công tác cấp phép ngày càng
được chấn chỉnh, chặt chẽ theo quy định pháp luật. Công tác xác định và hoàn trả
kinh phí điều tra, thăm dò khoáng sản băng ngân sách được triển khai đồng bộ, đạt
kết quả đáng kể. Công tác thanh tra, kiểm tra được đẩy mạnh, hiệu quả hơn.
4
Bên cạnh đó, còn những tồn tại cần khắc phục: triển khai quy định pháp luật còn
chậm, một số quy định tính khả thi không cao, công tác hậu kiểm sau kết luận thanh
tra còn mang nặng tính hành chính, chưa thực chất. Phối hợp cơ quan quản lý, thanh
tra, trong đó có cơ quan thuế chưa cao, chưa hiệu quả. Chính quyền cấp xã chưa tích
cực vào cuộc xử lý vi phạm.
2) Đặng Văn Cương (2014),“Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động
khai thác khoáng sản”, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Đề tài tổng quan những vấn đề lý luận về hoạt động khai thác và chế biến khoáng
sản, tác động của nó tới môi trường và sự cần thiết phải bảo vệ môi trường bằng
pháp luật đối với các hoạt động trên. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo vệ
môi trường trong các hoạt động khai thác, chế biến khoảng sản ở nước ta. Chỉ ra
những tác động xấu của hoạt động trên đối với môi trường, mặt tích cực và hạn chế
của pháp luật về môi trường đối với các hoạt động đó ở nước ta hiện nay. Đề suất
một số giải pháp về quy hoạch khai thác, chế biến khoáng sản, nâng cao tính hiệu
lực và phối hợp thực hiện pháp luật về môi trường trong hoạt động khai thác và chế
biến khoáng sản ở nước ta.
3) PGS.TS Nguyễn Đức Khiển (2002), “Luật và các tiêu chuẩn chất lượng môi
trường”, Nhà xuất bản Hà nội .
Công trình của tác giả đã làm rõ những nhận diện về quản lý trong các hoạt động
có ảnh hưởng đến môi trường và các khuyến nghị đi kèm với các hoạt động khai
thác đó chính là sự quản lý chặt chẽ của các Bộ ban ngành, các địa phương có nguồn
tài nguyên. Đề tài đưa ra dẫn chứng về tiêu chuẩn chất lượng môi trường trong khai
thác các nguồn tài nguyên, lấy kinh nghiệm của một số nước trên thế giới như; Nhật
bản, Trung Quốc, Mỹ làm bài học cho xây dựng pháp luật về môi trường cho Việt
Nam.
4) Phan Thị Linh (2014), “Phân tích hiệu quả dự án đầu tư khai thác mỏ khoáng
sản” , Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 10/2014.
5
Tác giả đã trình bày một số kinh nghiệm quản lý khai thác khoáng sản của Trung
Quốc, Nhật Bản, Mỹ … Từ đó rút ra một số bài học đối với các địa phương có hoạt
động khai thác khoáng sản ở Việt Nam. Theo tác giả, hiệu quả quản lý trong khai
thác khoáng sản rất quan trọng và đặc biệt là trong quá trình triển khai các dự án.
Đồng thời phải tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong hoạt động
khai thác như đảm bảo khai thác bền vững, đảm bảo về môi trường và an sinh xã hội
trên địa bàn có hoạt động khai thác diễn ra.
5) Trần Thanh Bình (2014), “Khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên khoáng
sản của Việt Nam”, Tạp chí khoa học và môi trường, số 9/2014.
Tác giả đã giới thiệu 4 phương thức quản trị rủi ro đối với khai thác khoáng sản,
tác giả nêu và đánh giá cao các vấn đề khai thác bền vững các nguồn tài nguyên như
tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và đánh giá tầm quan trọng có tính
quyết định đến sự phát triển của đất nước đó chính là tài nguyên khoáng sản. Từ đó
rút ra một số giải pháp về quản lý hoạt động khai thác để hạn chế rủi ro và đảm bảo
cho hoạt động khai thác tài nguyên được bền vững không có tác động xấu đến môi
trường.
Các công trình, bài viết nêu trên đã nghiên cứu một ở các góc ộ tiếp cận khác
nhau, nhưng đã khái quát hóa những vấn đề thuộc nội dung và trách nhiệm quản lý
của nhà nước, của địa phương và chủ thể hoạt động khoáng sản hướng tới việc khai
thác, chế biến và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên, khoáng sản ở nước ta;
kiểm soát rủi ro trong hoạt động khai thác, chế biến; và khẳng định cần có các chính
sách, biện pháp quản lý kết hợp các mục tiêu kinh tế với môi trường, an sinh xã hội,
an ninh để đảm bảo tính hiệu quả và bền vững.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên không nghiên cứu trực tiếp về địa bàn tỉnh
Sơn La. Tại thời điểm hiện nay, một số quy định mới của pháp luật liên quan tới ký
quỹ cải tạo và khôi phục môi trường trong hoạt động khoáng sản, tính quyền cấp
phép khai thác khoáng sản, thu thuế về môi trường,.. vẫn mang tính thời sự, cần tiếp
6
tục có những công trình nghiên cứu, nhất là quản lý của tỉnh Sơn La về hoạt động
khia thác khoáng sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu:
- Phân tích, đánh giá tình hình khoáng sản, khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Sơn La.
- Phân tích, đánh giá tình hình quản lý của địa phương đối với hoạt động khai
thác khoáng sản trên địa bàn.
- Chỉ rõ những vấn đề đặt ra về hoạt động khai thác khoáng sản, chính sách và
biện pháp quản lý của địa phương (tỉnh Sơn La) đối với khai thác khoáng sản, quy
định pháp luật của nhà nước về hoạt động khoáng sản nói chung, hoạt động khai
thác khoáng sản nói riêng còn những hạn chế, bất cập cần bổ sung, sửa đổi, hoàn
thiện.
- Đưa ra giải pháp và kiến nghị về hoàn thiện các chính sách quản lý khai thác
khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả và đảm bảo
phát triển bền vững.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Xây dựng đề cương và kế hoạch nghiên cứu.
- Xây dựng những tiền đề lý luận cơ bản về khoáng sản, hoạt động khi thác
khoáng sản và quản lý nhà nước về hoạt động khai thác khoáng sản, trong đó luận
giải rõ phần nội dung và trách nhiệm quản lý của địa phương theo phân công, phân
cấp quản lý nhà nước.
- Thu thập, xử lý các dữ liệu, thông tin với các phương pháp phù hợp để phân tích
kết quả hoạt động khai thác khoáng sản tại địa phương (tỉnh Sơn La).
- Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý của tỉnh Sơn La đối với hoạt động
khai thác khoảng sản trên địa bàn giai đoạn 2010-2014.
7
- Chỉ rõ những mặt thành công, hạn chế, nguyên nhân và phát hiện các vấn đề bất
cập, nảy sinh từ thực tiễn cần giải quyết về quản lý khai thác khoáng sản trên địa bàn
tỉnh Sơn La.
- Xây dựng các luận chứng và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện công tác quản lý của tỉnh Sơn La đối với hoạt động khai thác khoáng sản trên
địa bàn giai đoạn 2015-2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chính
sách quản lý của địa phương liên quan đến khai thác khoáng sản tại địa bàn tỉnh Sơn
La.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các hoạt động khai thác khoáng sản và quản
lý của cấp tỉnh về hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn. Về nội dung quản
lý, tập trung vào công tác quy hoạch, ban hành văn bản hướng dẫn thực thi pháp
luật, phổ biên tuyên truyền và giáo dục pháp luật, thực hiện các hoạt động cấp phép,
gia hạn, nhượng quyền khai thác khoáng sản, cho thuê đất, hạ tầng, đấu giá quyền
khai thác khoáng sản và công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về
khoáng sản.
Về không gian: phân tích, đánh giá hoạt động khai thác khoáng sản, các nội dung
quản lý của UBND tỉnh Sơn La, trách nhiệm quản lý của các sở ngành và các cấp
chính quyền trong tỉnh đối với hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn.
Về thời gian: nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng các hoạt động khai thác
khoáng sản và quản lý của địa phương về hoạt động khai thác khoáng sản giai đoạn
từ 2010 đến 2014. Đề suất các giải pháp và kiến nghị về quản lý hoạt động trên cho
giai đoạn 2015-2020.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
8
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Tham khảo các tài liệu lý luận khoa học, sách báo tạp chí kinh tế, các tài liệu liên
quan của thực tiễn được khái quát hóa thành tiền đề lý luận như các quy định pháp
luật, chính sách quản lý của nhà nước hoặc chiến lược, quy hoạch phát triển kinh
tế… Các tài liệu này được thu thập, xử lý theo phương pháp tổng quan, hệ thống
hóa, kế thừa có chọn lọc và trên cơ sở đó vận dụng vào phân tích, đánh giá thực
trạng, các yếu tố ảnh hướng tới công tác quản lý khai thác khoáng sản tại địa
phương. Từ đó rút ra những tồn tại, nguyên nhân, từ đó hoàn thiện chính sách khai
thác bền vững nguồn tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La
5.2. Phương pháp thu thập số liệu
Thu thập và sử dụng các nguồn thông tin khác nhau để nghiên cứu thực trạng
hoạt động khai thác khoáng sản và quản lý của địa phương về hoạt động khai thác
khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La như: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội qua các
năm 2010- 2014 và các báo cáo về tình hình khai thác khoáng sản nói chung và tình
hình khai thác khoáng sản tại tỉnh Sơn La nói riêng, các quy định pháp lý của nhà
nước và cụ thể hóa các văn bản quản lý, hướng dẫn và tổ chức triển khai chính sách,
pháp luật nhà nước của tỉnh. Nguồn thu thập tại cơ quan quản lý tổng hợp (kế hoạchthống kê), chuyên ngành (tài nguyên – môi trường, công thương, khoa học công
nghệ,…) của tỉnh, nguồn từ các nghiên cứu của các chuyên gia, nhà quản lý và
nguồn khác.
5.3. Phương pháp phân tích số liệu
a. Phương pháp thống kê mô tả
Được sử dụng để thu thập, mô tả số liệu về số lượng, quy mô khoáng sản trong
các quy hoạch điều tra, thăm dò và khai thác, phương thức và kết quả hoạt động của
các doanh nghiệp khai thác khoáng sản trong thời gian nghiên cứu.
b.Phương pháp thống kê so sánh
9
Phương pháp này được dùng để so sánh tình hình khoáng sản Việt Nam với các
nước, của Sơn La so với cả nước, so sánh các chỉ tiêu, các yếu tố định lượng kết quả
khai thác khoáng sản trong giai đoạn 2010-2014. So sánh tình hình thanh tra, kiểm
tra, xử lý các vi phạm chính sách, pháp luật về khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh
Sơn La qua các năm. So sánh, đánh giá định tính các nhân tố ảnh hưởng hoặc các
biện pháp quản lý địa phương đã áp dụng để khai thác khoáng sản đảm bảo sự phát
triển bền vững.
5.4. Phương pháp phân tích hệ thống
Phân tích hệ thống thể hiện trong luận văn ở chỗ: phân tích các nhân tố ảnh
hưởng trong mối quan hệ ràng buộc của từng nhân tố đên công tác quản lý, kết quả
hoạt động khai thác khoáng sản cũng như các nguồn tài nguyên trên địa bàn. Nó đòi
hỏi phân tích các chính sách, biện pháp quản lý hoạt động khoáng sản nói chung,
hoạt động khai thác nói riêng phải có tính hệ thống, đồng bộ, phải gắn kết giữa nội
dung quản lý và trách nhiệm quản lý của từng ngành, từng cấp quản lý trên địa bàn
lãnh thổ (tỉnh) theo quy định của pháp luật.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất: Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động khai thác
khoáng sản và quản lý của địa phương về hoạt động đó. Vận dụng vào nghiên cứu,
đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp hoàn thiện chính sách biện pháp của địa
phương (tỉnh Sơn La) trong quản lý hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên nói
chung và khoáng sản nói riêng đảm bảo tính hiệu quả, bền vững.
Thứ hai: Kết quả của luận văn có ý nghĩa giúp nâng cao năng lực công tác của
bản thân về tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, giải quyết vấn đề kinh tế, quản lý
đặt ra trong thực tiễn.
Thứ ba: Luận văn có thể tài liệu tham khảo cho cơ quan quản lý, hoạch định và
thực thi chính sách quản lý tài nguyên và hoạt động khai thác khoáng sản tại địa
phương cũng như những tổ chức, cá nhân khác có quan tâm.
10
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý địa phương đối với hoạt động khai
thác khoáng sản.
Chương 2: Thực trạng quản lý địa phương đối với hoạt động khai thác khoáng
sản trên địa bàn tỉnh Sơn La
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý của địa
phương đối với hoạt động khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh Sơn La.
11
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐỊA PHƯƠNG ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN
1.1. Các khái niêm cơ bản
1.1.1. Tài nguyên khoáng sản, hoạt động khoáng sản và hoạt động khai thác
khoáng sản
a. Tài nguyên
Theo nghĩa rộng tài nguyên gồm tất cả các nguồn vật liệu, năng lượng, thông tin
có trên Trái đất và trong vũ trụ mà con người có thể sử dụng phục vụ cuộc sống và
sự phát triển của nhân loại.
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai, được hình thành,
tồn tại trong tự nhiên và tất cả những gì thuộc về thiên nhiên mà con người có thể
khai thác, sử dụng thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
Tài nguyên thường được phân thành tài nguyên thiên nhiên gắn liên với các nhân
tố thiên nhiên và tài nguyên con người gắn liên với nhân tố con người và xã hội. Tài
nguyên là tất cả các dạng vật chất hữu dụng phục vụ cho sự tồn tại và phát triển cuộc
sống con người và thế giới động vật. Tài nguyên thiên nhiên là một phần của các
thành phần môi trường như rừng cây, đất đai, nguồn nước, khoáng sản, cùng tất cả
các loài động- thực vật khác.
Tài nguyên thiên gồm: Tài nguyên vĩnh viễn như năng lượng mặt trời, đây là một
nguồn đến từ nguồn chính không bao giờ hết; Tài nguyên không phục hồi tồn tại
trong kho dự trữ được xác định trong những chỗ thay đổi trong vỏ trái đất mà mỗi
loài được cung cấp cho quá trình tự nhiên hoặc được cung cấp rất lâu mà chúng
được dùng. Theo quan điểm kinh tế, các tài nguyên trên được xem như cạn kiệt nếu
khai thác không hợp lý; Tài nguyên có thể phục hồi là nguyên tài nguyên có thể cạn
kiệt trong thời gian ngắn nếu được sử dụng nhưng sẽ được thay thế qua một quá
trình lâu dài.
12
Theo bản chất tự nhiên thì tài nguyên bao gồm:
Tài nguyên khoáng sản: là nguồn liệu tự nhiên có nguồn gốc vô cơ hoặc hữu cơ
và phần lớn nằm trong lòng đất. Quá trình hình thành loại tài nguyên này có liên
quan mật thiết đến lịch sử phát triển của vỏ trái đất trong một thời gian dài hàng
nghìn năm, có khi hàng trăm triệu năm.
Tài nguyên năng lượng là một dạng tài nguyên vật chất xuất phát từ hai nguồn
chủ yếu là năng lượng mặt trời và năng lượng lòng đất. Năng lượng mặt trời tồn tại ở
dạng chính là bức xạ mặt trời, năng lượng sinh học, năng lượng chuyển động của khí
quyển và thủy quyển, năng lượng hóa thạch; Năng lượng lòng đất biểu hiện ở các
nguồn địa nhiệt, lửa và năng lượng phóng xạ.
Tài nguyên đất là một hỗn hợp phức tạp bao gồm các hợp chất vô cơ, các mảnh
vụn hữu cơ đã và đang bị phân ra, nước, không khí và vô số các vi sinh vật đang
sinh sống trong đó. Đồng thời, đất còn là môi trường sống của con người và hầu hết
sinh vật trên cạn, là nền móng cho toàn bộ các công trình xây dựng phục vụ hoạt
động kinh tế và xã hội.
Tài nguyên nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng cho tất cả các sinh vật
trên trái đất. Nước là nguồn cung cấp thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp. Nước
rất cần cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, cho sinh hoạt của con người. Nước
còn được coi là một khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ một nguồn năng lượng lớn và
lại hòa tan nhiều vật chất có thể khai thác phục vụ cho nhu cầu nhiều mặt của con
người.
Tài nguyên rừng là một hệ sinh thái phong phú nhất có trên mặt đất. Ở đó, các
loài thực vật đóng vai trò như một nhà máy khổng lồ cung cấp các chất hữu cơ, cung
cấp oxy và điều hòa khí hậu. Rừng cò là một guồng máy tự điều chỉnh lưu lượng
nước rất hiệu quả trên trái đất. Như vậy, rừng có ý nghĩa trong sự phát triển kinh tế
xã hội, sinh thái và môi trường.
13
Tài nguyên biển là một tài nguyên vô tận mà trời phú cho con người. Các nguồn
lợi hải sản quan trọng phải kể đến là cá, tôm, cua, rong biển...
Tài nguyên khí hậu, cảnh quan bao gồm các yếu tố về thời tiết, khí hậu và địa
hình cảnh quan. Địa hình cảnh quan là một dạng tài nguyên mới với đất đại, rừng
xanh, động thực vật, nước và không khí hợp thành nguồn tài nguyên môi trường
thống nhất. Nó không những là nền tảng để phát triển công nghiệp du lịch mà còn
đem lại sự hưởng thụ về tinh thần và tâm lí cho con người, duy trì trạng thái cân
bằng, cung cấp nguồn nguyên liệu sản xuất.
b. Khoáng sản
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “Khoáng sản là những thành tạo
khoáng vật trong vỏ trái đất có thể sử dụng trong nền kinh tế quốc dân”. Luật
Khoáng sản năm 2010 quy định: “Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích
được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt đất,
bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ”.
Khoáng sản cũng có thể được hiểu là nguồn nguyên liệu tự nhiên có trong nguồn
gốc vô cơ hoặc hữu cơ, tuyệt đại bộ phận nằm trong lòng trái đất và quá trình hình
thành có liên quan mật thiết đến quá trình lịch sử phát triển của vỏ trái đất trong thời
gian dài từ hàng ngàn năm đến hàng chục năm, hàng triệu năm.
Như vậy, dù được hiểu bằng khái niệm nào thì khoáng sản đều là tích tụ vật chất
dưới dạng hợp chất hoặc đơn chất trong vỏ trái đất mà ở trong đó điều kiện hiện tại
con người có đủ khả năng lấy ra các nguyên tố có ích, sử dụng trực tiếp chúng phục
vụ nền kinh tế quốc dân hoặc trong đời sống hàng ngày.
Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể khai thác lại cũng
là khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản thường tập trung trong một khu vực gọi là mỏ
khoáng sản. Khoáng sản có ý nghĩa rất lớn và quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, mỗi địa phương và mỗi vùng. Khoáng sản là nguồn
vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải cho con người.
14
Khoáng sản được phân loại theo nhiều cách khác nhau:
Theo nguồn gốc có khoáng sản nội sinh (sinh ra trong lòng đất) và khoáng sản
ngoại sinh (sinh ra trên bề mặt trái đất).
Theo dạng tồn tại thì có khoáng sản rắn, khoáng sản lỏng và khoáng sản khí.
Theo thành phần hóa học có khoáng sản kim loại, khoáng sản phi kim và khoáng
sản cháy.
c. Hoạt động khai thác khoáng sản
Trong hoạt động khoáng sản có hai hoạt động chính là thăm dò khoáng sản và
hoạt động khai thác khoáng sản (theo điều 2 Luật Khoáng sản 2010).
Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm xác định trữ lượng, chất lượng khoáng
sản và các thông tin khác phục vụ khai thác khoáng sản.
Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản bao gồm: xây dựng
cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan.
Khai thác tận thu khoáng sản là hoạt động khai thác khoáng sản còn lại ở bãi thải
của mỏ đã có quyết định đóng cửa.
Theo nghĩa rộng hoạt động khoáng sản bao gồm các hoạt động: khảo sát, thăm
dò, khai thác và chế biến khoáng sản, theo đó cần phân biệt nội hàm các khái niệm
này như sau:
* Hoạt động khảo sát khoáng sản
Khảo sát khoáng sản là hoạt động nghiên cứu tư liệu địa chất về tài nguyên
khoáng sản, khảo sát thực địa nhằm khoanh định khu vực có triển vọng để thăm dò
khoáng sản.
Như vậy, khảo sát khoáng sản là hoạt động được tiến hành trước giai đoạn thăm
dò khoáng sản. Khi khảo sát không tiến hành thi công các công trình địa chất như
đào hào, giếng hoặc khoan thăm dò, mà chủ yếu là nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực
địa hoặc thực hiện các công nghiệp vụ khác ngoài thực địa. Kết quả có được khi kết
thúc giai đoạn khảo sát là cơ sở cho giai đoạn thăm dò khoáng sản. Tuy nhiên, trong
15
thực tế không nhất thiết phải thực hiện công tác khảo sát khoáng sản đối với tất cả
các loại hình khoáng sản.
* Hoạt động thăm dò khoáng sản
Thăm dò khoáng sản là hoạt động nhằm tìm kiếm, phát hiện, xác định trữ lượng,
chất lượng khoáng sản, điều kiện kỹ thuật khai thác, kể cả việc lấy, thử nghiệm mẫu
công nghệ và nghiên cứu khả thi về khai thác khoáng sản.
Để xác định trữ lượng, chất lượng khoáng sản cũng như xác định những yếu tố
kỹ thuật - công nghệ khai thác, khi tiến hành thăm dò phải tiến hành các công việc
chính như: Thi công các công trình địa chất (hào, giếng, khoan thăm dò v.v..) và các
công tác nghiệp vụ khác. Kết quả của hoạt động thăm dò là cơ sở quan trọng để thực
hiện các công việc tiếp theo cho giai đoạn nghiên cứu khả thi, thiết kế khai thác
khoáng sản. Tuy nhiên, thăm dò khoáng sản có các đặc điểm: mức đầu tư tương đối
lớn, không thể thực hiện trong thời gian ngắn; tính rủi ro cao, nhất là đối với khoáng
sản kim loại phân bố trong các cấu trúc địa chất phức tạp.
* Hoạt động khai thác khoáng sản
Theo điều 3, Luật Khoáng sản năm 1996: Khai thác khoáng sản là hoạt động xây
dựng cơ bản mỏ, khai đào, sản xuất và các hoạt động có liên quan trực tiếp nhằm thu
hồi khoáng sản từ lòng đất. Theo điều 2, Luật Khoáng sản năm 2010: Khai thác
khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản bao gồm: xây dựng cơ bản mỏ,
khai đào, làm giàu và các hoạt động có liên quan.
Đây là hoạt động được tiến hành sau khi đã có Giấy phép khai thác khoáng sản
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được tính từ khi mỏ bắt đầu xây dựng cơ
bản (hay còn gọi là mở mỏ), khai thác bình thường theo công thức thiết kế, cho đến
khi mỏ kết thúc khai thác (đóng cửa mỏ - phục hồi môi trường).
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, kế hoạch hóa tập trung hoạt động khai thác
khoáng sản chủ yếu do các Tông công ty, công ty nhà nước thực hiện tại các mỏ do
đã được tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn vốn ngân sách như apatit, quặng sắt, than, đá
16
vôi, sét làm nguyên liệu xi măng, thiếc,…. với số lượng rất ít. Từ khi có Luật
Khoáng sản năm 1996 và sau này là Luật Khoáng sản năm 2010 ban hành, với chính
sách của nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động khoáng
sản, nên hoạt động khai thác đã phát triển nhanh về quy mô với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế.
* Hoạt động chế biến khoáng sản
Chế biến khoáng sản là hoạt động phân loại, làm giàu khoáng sản và các hoạt
động khác nhằm làm tăng giá trị khoáng sản đã khai thác. Thông thường, một doanh
nghiệp tiến hành hoạt động chế biến khoáng sản cùng với hoạt động khai thác
khoáng sản (VD: khai thác đá nguyên khai sau đó thực hiện công tác nghiền sàng,
phân loại đá).
Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp chỉ đơn thuần thực hiện hoạt động chế
biến khoáng sản mà không tiến hành hoạt động khai thác khoáng sản.
* Hoạt động khai thác tận thu khoáng sản
Khai thác tận thu là hình thức khai thác lại, khai thác tại bãi thải ở các mỏ đã có
quyết định đóng cửa để thanh lý (do khai thác hết trữ lượng khoáng sản).
1.1.2 Đặc điểm về tài nguyên khoáng sản Việt Nam
Hiện nay, các nhà địa chất đã phát hiện trên đất nước ta có gần 5.000 mỏ và điểm
mỏ của hơn 60 loại khoáng sản khác nhau. Những loại khoáng sản trữ lượng lớn
đáng kể là dầu khí (tính về sản lượng khai thác hàng năm, Việt Nam đứng thứ ba ở
Đông Nam Á sau Indonesia và Malaisia), than khoáng, urani, địa nhiệt, quặng nhôm,
đất hiếm, titan, wolfram, crôm, sắt, mangan, đồng, vàng, bạc, nickel, thiếc... Ngoài
các loại khoáng sản kể trên, từ năm 1987 nước ta đã phát hiện nhóm đã quý ruby,
saphia, peridot... với trữ lượng không lớn. Riêng ruby ở Yên Bái và Nghệ An được
thế giới đánh giá có chất lượng cao đạt chất lượng Quốc tế, tương đương với ruby
nổi tiếng của Myanmar.
17
Nếu so sánh tiềm năng khoáng sản Việt Nam với các nước trong khu vực Đông
Nam Á và trên thế giới thì có thể xếp nước ta vào hàng các nước có tiềm năng
khoáng sản đáng kể.
Đặc điểm đáng chú ý về tài nguyên khoáng sản của nước ta:
Thứ nhất, nước ta không có tiềm năng lớn về các khoáng sản năng lượng. Dầu
khí chỉ đảm bảo khai thác được khoảng 30 năm nữa, do vậy cần tăng cường tìm
kiếm thăm dò khai thác. Than biến chất cao với trữ lượng đã được đánh giá đạt hàng
tỷ tấn cần phải khai thác sâu hàng trăm mét và hơn nữa mới bảo đảm nhu cầu phát
triển kinh tế của đất nước. Than biến chất thấp ở dưới sâu đồng bằng Sông Hồng tuy
dự báo có tài nguyên đến vài trăm tỷ tấn nhưng độ sâu hàng ngàn mét dưới lòng đất,
điều kiện khai thác cực kỳ khó khăn và phức tạp cả về công nghệ, an ninh xã hội và
môi trường. Tiềm nang Urani và địa nhiệt không đáng kể và chưa được thăm dò để
đánh giá trữ lượng cụ thể.
Thứ hai, nước ta có nhiều khoáng kim loại nhưng trữ lượng không nhiều. Rất
nhiều khoáng sản kim loại (vàng, bạc, đồng, thiếc, kẽm, chì...) thế giới rất cần trong
khi trữ lượng lại có hạn, chỉ khai thác mấy chục năm là cạn kiệt nên không đảm bảo
tiêu dùng trong nước phục vụ cho phát triển kinh tế. Một số ít khoáng sản như
Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng lớn nhưng các khoáng sản này trên thế giới
các quốc gia khác cũng có trữ lượng tương đương hoặc lớn hơn nước ta. Trữ lượng
Bauxit trên thế giới là 27 tỉ tấn với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 200 triệu
tấn. Đất hiếm trên thế giới đạt 99 triệu tấn, nhu cầu hàng năm chỉ khoảng 125.000
tấn. Trữ lượng Titan trên thế giới đạt hơn 2 tỷ tấn, hàng năm thế giới tiêu thụ hơn 6
triệu tấn titan và dự báo khoảng 128 năm nữa thế giới sẽ khai thác hết.
Thứ ba, nước ta có nhiều khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng phục vụ
tốt cho phát triển kinh tế đất nước và có thể xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên
này không có giá trị kinh tế cao.
18
Thứ tư, các loại khoáng sản quý có giá trị kinh tế cao như đá quý, ruby, kim
cương...chưa xác định rõ trữ lượng, các loại đá quý khác cũng chưa được khảo sát và
phát hiện.
Tóm lại, nước ta có nhiều khoáng sản nhưng trữ lượng hầu hết chưa đủ lớn. Một
số khoáng sản như Bauxit, đất hiếm, ilmenit có trữ lượng tầm cỡ thế giới nhưng trên
thế giới nhiều quốc gia cũng có những loại khoáng sản này. Điều đó có nghĩa là loại
khoáng sản thế giới cần nhiều thì trữ lượng của nước ta lại nhỏ, loại khoáng sản
nước ta có nhiều thì thế giới lại không cần nhiều hoặc không có nhu cầu. Điều này
cần phải quan tâm nghiên cứu đánh giá khách quan để xác định chiến lược lược sử
dụng tài nguyên khoáng sản đúng đắn, hợp lý, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước .
1.1.3 Vai trò của tài nguyên khoáng sản trong phát triển kinh tế - xã hội
Tài nguyên khoáng sản là một yếu tố nguồn lực quan trọng của quá trình sản
xuất. Xét trên phạm vi toàn thế giới, nếu không có tài nguyên, đất đai thì sẽ không
có sản xuất và cũng không có sự tồn tại của con người. Tuy nhiên, đối với tăng
trưởng và phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên chỉ là điều kiện cần và đủ. Trên
thực tế, nếu công nghệ là cố định thì lưu lượng tài nguyên sẽ là mức hạn chế tuyệt
đối về sản xuất vật chất trong ngành công nghiệp sử dụng khoáng quặng làm nguyên
liệu đầu vào như nhôm, thép... Tài nguyên khoáng sản chỉ trở thành sức mạnh kinh
tế khi biết khai thác và sử dụng một cách hiệu quả. Thực tế đã có nhiều quốc gia
mặc dù có trữ lượng tài nguyên phong phú, đa dạng, điều kiện thuận lợi song vẫn là
nước ngoài và kém phát triển. Ngược lại nhiều quốc gia có ít tài nguyên khoáng sản
nhưng lại trở thành nước phát triển như Nhật Bản, Anh, Pháp...
Có thể nói, tài nguyên thiên nhiên khoáng sản là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát
triển, các nước đang phát triển thường quan tâm đến việc xuất khẩu sản phẩm thô,
đó là những sản phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của
đất nước, chưa qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng
19
là cơ sở để phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, công nghiệp chế
biến, công nghiệp năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng...
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định. Đối với
hầu hết các nước, việc tích lũy vốn đòi hỏi một quá trình lâu dài, gian khổ liên quan
chặt chẽ với tiêu dùng trong nước và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên,
có nhiều quốc gia, nhờ những ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên nên có thể rút ngắn
quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để bán hoặc để đa dạng
nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Như trên chúng ta thấy, nguồn tài nguyên thiên nhiên là cơ sở để phát triển các
ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và cung cấp nguyên liệu cho
nhiều ngành kinh tế khác, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Sự giàu
có về tài nguyên, đặc biệt về năng lượng giúp cho một quốc gia ít lệ thuộc hơn vào
các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một cách ổn định, độc lập khi thị trường tài
nguyên thế giới rơi vào tình thái bất ổn . Tài nguyên khoáng sản còn tham gia vào
thương mại quốc tế. Nước ta cũng như nhiều nước trên thể giới, nhờ xuất khẩu
khoáng sản, cho thuê đất cũng mang lại nguồn thu đáng kể cho đất nước.
Ngoài phương diện kinh tế, đáp ứng nhu cầu phát triển các ngành kinh tế, bản
thân ngành khai khoáng cũng có cơ hội phát triển và tahm gia vào thương mại, đàu
tư quốc tế, tài nguyên khoáng sản có có ý nghĩa về phương diện chính trị. Các quốc
gia ít có tài nguyên khoáng sản sẽ ở vào thế kém độc lập, tự chủ hơn trong giao lưu
quốc tế, thường lệ thuộc về cả kinh tế và chính trị đối với các quốc gia có ưu thế về
vấn đề này.
1.1.4 Quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản
a. Quản lý nhà nước về khai thác khoáng sản.
Đó là một bộ phận của quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản, thuộc lĩnh vực
tài nguyên và môi trường. Quản lý nhà nước về hoạt động khai thác khoáng sản là sự
tác động có định hướng, có tổ chức của các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ
20
chức, cá nhân và các hoạt động khai thác khoáng sản của họ nhằm đạt mục tiêu đã
xác định thông qua việc áp dụng các nguyên tắc, công cụ và biện pháp quản lý phù
hợp với điều kiện môi trường, hoàn cảnh kinh tế-xã hội cụ thể trong từng giai đoạn.
Mục tiêu của quản lý nhà nước đối với hoạt động khoáng sản nhằm khai thác lợi
thế của quốc gia phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo
giữ gìn, bảo vệ môi trường đấp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Đồng thời hạn chế
và tiến tới xoá bỏ những bất cập, tác động tiêu cực của hoạt động khai thác khoáng
sản tran lan, lãng phí tài nguyên quốc gia và hủy hoại mồi trường, ảnh hưởng xấu tới
sức khỏe và đời sống con người..
Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động khai thác khoáng sản được phân
công theo ngành và phân quyền, trách nhiệm quản lý theo cấp (trung ương, địa
phương). Đó là chủ thể của quản lý nhà nước, là người ra quyết định ban hành,
người tổ chức, triển khai thực thi các quy định chính sách, luật pháp cuả nhà nước và
tác động tới các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác
khoáng sản nhằm thực hiện mục tiêu trên.
Nhà nước sử dụng quyền lực của mình trong điều hành và quản lý, điều tiết và
kiểm soát vĩ mô các hoạt động khai thác khoáng sản thông qua việc xây dựng, ban
hành và tổ chức thực thi các công cụ chính sách, luật pháp cũng như các quyết định
khác liên quan đến tạo lập môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản. Để đạt
mục tiêu đặt ra, sự tác động của các cơ quan chức năng quản lý nhà nước các cấp
phải vừa tuân thủ các nguyên tắc của quản lý nhà nước về kinh tế, môi trường vừa
phải tôn trọng các quy luật của thị trường và sử dụng hợp lý các phương pháp, công
cụ quản lý vĩ mô.
Các nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế, về tài nguyên và môi
trường: thống nhất quản lý nhà nước theo chính sách, pháp luật, theo quy hoạch; kết
hợp quản lý tập trung và phân quyền, dân chủ chủ hóa trong quản lý, giám sát; kết
hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ; kết hợp các lợi ích, các mục tiêu; đảm bảo tính
21
hiệu lực và hiệu quả, tiết kiệm. Các quy luật cơ bản của thị trường cần phải coi trọng
và vận dụng trong quản lý nhà nước, đó là các quy luật giá trị, quy luật cung cầu và
quy luật cạnh tranh.
Nhà nước sử dụng hợp lý các biện pháp về giáo dục, tuyên truyền, phổ biến,
hướng dẫn chính sách, pháp luật (về khoáng sản, tài nguyên và môi trường, về đầu
tư, về thương mại,…), các định hướng trong chiến lược và quy hoạch, kế hoạch
khai thác, chế biến và sử dụng tài nguyên khoáng sản. Có các biện pháp kinh tế, tổ
chức, kỹ thuật thích hợp để điều tiết, phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực, các
tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai thác khoáng sản, áp dụng các định mức
kinh tế- kỹ thuật, các đòn bảy kich thích, các ưu đãi thích hợp để nâng cao hiệu quả
hoạt động đầu tư, khai thác khoáng sản. Nhà nước kết hợp các biện pháp trên với
biện pháp hành chính, xử lý các khiếu nại, khiếu tố, thưởng, phạt rõ ràng trong hoạt
động khai thác và bảo vệ, giữ gìn tài nguyên quốc gia, môi trường sinh thái, trật tự
xã hội và an ninh quốc gia. Đặc biệt, xử lý nghiêm minh việc khai thác tài nguyên,
khoáng sán trái pháp luật, vi phạm nghiêm trọng chính sách, pháp luật trong hoạt
động khai thác khoáng sản,
b. Quản lý của địa phương về hoạt động khai thác khoáng sản
Đối với phạm vi địa phương (cấp tỉnh), quản lý nhà nước ở đây chính là quản lý
của tỉnh thông qua các cơ quan chức năng đối với các hoạt động khai thác khoáng
sản trên địa bàn. Đó tác động có tổ chức, có hướng đích nhằm đạt mục tiêu của các
cơ quan quản lý của địa phương đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
khai thác khoáng sản trên địa bàn.
Các cơ quan chức năng (mà đầu mối là ngành tài nguyên và môi trường) của tỉnh
triển khai quản lý các hoạt động khai thác khoáng sản theo thẩm quyền và trách
nhiệm với các nội dung cụ thể dựa trên các quy định của pháp luật (về khoáng sản,
về bảo vệ tài nguyên và môi trường, về đất đai, đầu tư,…và pháp luật về tổ chức
22
chính phủ, thanh tra). Quản lý bắt đầu từ khâu mở mỏ (xây dựng căn bản mỏ), khai
thác bình thường theo công suất và khâu đóng mỏ (kết thúc khai thác).
Khác với quản lý nhà nước trên tầm vĩ mô (cả nước), chính quyền địa phương chỉ
quản lý hoạt động khai thác khoảng sản thuộc phạm vi địa phương được chính phủ
giao, trong đó, quản lý hành chính kinh tế lãnh thổ theo phân cấp, quản lý trực tiếp
hoạt động khai thác khoáng sản đối với các mỏ do địa phương quản lý. Các nội dung
hoạt động quản lý của địa phương cấp tỉnh chủ yếu ban hành các văn bản cụ thể hóa
chính sách, pháp luật của nhà nước, hướng dẫn của các cơ quan quản lý ngành, liên
ngành của cấp trên (trung ương). Tổ chức phổ biến, tuyên truyền chính sách, pháp
luật của nhà nước về khoáng sản, các nguyên tắc hoạt động khoáng sản, quyền lợi
của địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, các hành vi bị cấm
trong hoạt động khoáng sản; tổ chức triển khai thực thi các chủ trương chính sách
của nhà nước về khai thác khoáng sản (như lập quy hoạch, kế hoạch khai thác, đấu
thầu, đấu giá khai thác mỏ, cho thuê đất, hạ tầng kỹ thuật, thẩm định các hồ sơ, cấp
giấy chứng nhận đầu tư, cấp giấy phép khai thác khoáng sản, thu hồi giấy phép, gia
hạn hoặc chuyển nhường quyền khai thác khoáng sản, thu thuế, phí về môi trường,
các biện pháp kiểm soát môi trường, giải quyết bồi thường, hỗ trợ phát triển sinh kế
cho người dân tái định cư tại khu vực khai thác khoáng sản,… phân công sở ngành
chịu trách nhiệm quản lý theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cấp trên);
thanh tra, kiểm tra xử lý các khiêu nại, khiếu tố và vi phạm phạm luật theo thẩm
quyền.
Chính quyền cấp tỉnh chỉ đạo các sở ngành phối hợp với chính quyền cấp huyện
và tương đương quản lý khai thác khoáng sản trển địa bàn lãnh thổ tương ứng theo
quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước (trung ương).
Lưu giữ, phổ biến và cung cấp thông tin, … phục vụ quản lý của địa phương và quốc
gia. Phối hợp quản lý của chính quyền với quản lý của các chủ thể khai thác khoáng
sản trên địa bàn.
23
1.2. Sự cần thiết, mục tiêu và nguyên tắc quản lý của địa phương đối với
hoạt động khai thác khoáng sản
1.2.1. Sự cần thiết của quản lý địa phương đối với hoạt động khai thác khoáng
sản
Tài nguyên khoáng sản đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết
yếu cấu tạo nên các vật chất, với Việt Nam nó là nhân tố quyết định sự tồn tại và
phát triển bền vững của Quốc Gia.
Khoáng sản đang ngày càng khan hiếm, suy giảm cả về số lượng và chất lượng,
trong khi nhu cầu sử dụng nguyên liệu này ngày càng tăng và đó chính là nguyên
nhân gây ra nạn khai thác khoáng sản tràn lan, gậy hậu quả nghiêm trọng về môi
trường. Việc quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên khoáng sản có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của địa phương, nơi có
nguồn khoáng sản và hoạt động khai thác khoáng sản. Vì vậy quản lý tại địa phương
đối với việc quy hoạch khai thác khoáng sản ngày càng trở lên cấp thiết không chỉ
đối với địa phương mà luôn là chủ đề được bàn thảo nhiều nhất trên các diễn đàn lớn
trong nước. Giải quyết các vấn đề liên quan đến khai thác khoáng sản cần thiết phải
xem xét các yếu tố có liên quan trên quan điểm tổng hợp, toàn diện và mục tiêu cuối
cùng là đạt được sự hài hòa trong phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi
trường.Trước đây tài nguyên khoáng sản được quản lý theo hướng tiếp cận đơn
ngành, nghĩa là khoáng sản được quản lý theo từng ngành dọc, theo các đơn vị sử
dụng khoáng sản riêng lẻ và không có sự kết nối.
Đây được coi là nền tảng của công tác quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên khoáng
sản ở các địa phương của nước ta hiện nay. Như vậy, quản lý tổng hợp tài nguyên
khoáng sản không đơn thuần là việc lập quy hoạch, kế hoạch mà đây là một quá
trình, trong đó cần nỗ lực quản lý theo hướng tổng hợp, cần giải quyết tốt các mối
quan hệ tương tác giữa con người và tự nhiên; giữa đất, nước và khoáng sản; giữa
24
khoáng sản bề mặt và khoáng sản dưới đất; giữa khối lượng và chất lượng; giữa
trong nước và ngoài nước; giữa các đối tượng sử dụng khoáng sản.
Nói một cách tổng quát, sự cần thiết của quản lý tổng hợp tài nguyên khoáng sản
tại địa phương được nhìn nhận với ý nghĩa là: một quá trình để quản lý tài nguyên
khoáng sản ngày một hiệu lực hơn vì mục tiêu phát triển bền vững; một quan điểm
bao trùm từ trách nhiệm nhà nước đến trách nhiệm các tổ chức và cộng đồng khai
thác sử dụng hiệu quả tài nguyên khoáng sản; và một cách tiếp cận vận dụng hài hòa
các dạng thể chế quản lý tài nguyên khoáng sản ngành khai thác và vật liệu.
1.2.2. Mục tiêu quản lý
Nằm trong vùng có cấu trúc địa chất phức tạp giữa Tây Bắc giáp Đông Bắc Bắc
bộ nên lãnh thổ Sơn La có điều kiện thuận lợi cho việc hình thành nhiều loại mỏ
khoáng sản khác nhau. Kết quả công tác điều tra tài nguyên khoáng sản trên địa bàn
tỉnh đã phát hiện và đánh giá được trên 260 mỏ và điểm khoáng sản thuộc nhiều loại
hình có nguồn gốc khác nhau. Bao gồm: khoáng sản nhiên liệu (than đá, than nâu),
kim loại (sắt, đồng, chì–kẽm, vàng, đất hiếm...), khoáng sản làm khoáng chất công
nghiệp (kaolin, felspat, graphit, thạch anh, đá hoa...), khoáng sản làm vật liệu xây
dựng (đá vôi, dolomit, sét, cát, cuội, sỏi...), đá quý, nước khoáng, nước nóng. Có thể
nói Sơn La có gần như đầy đủ các loại khoáng sản chính mà Việt Nam có (trừ apatit,
bauxit và titan).
Nhìn chung, khoáng sản của Sơn La phong phú, đa dạng về chủng loại, trong đó
có những khoáng sản ít nơi có như vàng, đá hoa trắng. Song trừ, đá hoa và đá vôi
làm vật liệu xây dựng, các điểm mỏ phần lớn có quy mô nhỏ, phân tán, điều kiện
khai thác khó khăn, hiệu quả kinh tế và tính cạnh tranh thấp so với một số tỉnh trong
khu vực. Cho đến nay có thể nhận định rằng khoáng sản là thế mạnh của Sơn La cả
về trữ lượng, chất lượng, điều kiện khai thác, lợi thế cạnh tranh và nhu cầu thị
trường. Xuất phát từ các yếu tố trên việc đặt ra một lộ trình quản lý và khai thác các
khoáng sản, nhằm đưa Sơn La trở thành điểm sáng trong lĩnh vực này thì hơn lúc
25
nào hết Sơn La cần đặt ra mục tiêu cho mình trong quản lý khai thác tài nguyên
thiên khoáng sản tại địa bàn. Việc quản lý luôn phải thể hiện thông qua việc ban
hành các chính sách nhằm khai thác bền vững nguồn tài nguyên khoáng sản tại địa
phương, khai thác có chọn lọc và nhất là vấn đề bảo vệ môi trường luôn phải đặt lên
hàng đầu.
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản của quản lý địa phương về khai thác khoáng sản
a. Thống nhất quản lý khai thác khoáng sản theo chiến lược và quy hoạch
khoáng sản.
Tài nguyên khoáng sản là tài sản quốc gia, nên nhà nước thống nhất quản lý (cả
quản lý ngành và địa phương) đối với hoạt động khoáng sản nói chung và hoạt động
khai thác khoáng sản nói riêng theo chiến lược và quy hoạch khoáng sản. Điều 3,
Luật Khoáng sản năm 2010 chi rõ: Nhà nước có chiến lược, quy hoạch khoáng sản
để phát triển bền vững kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng trong từng thời kỳ. Tại
Điều 4, Luật trên cũng quy định: Hoạt động khoáng sản của tổ chức, cá nhân phải
phù hợp với chiến lược, quy hoạch khoáng sản trong từng thời kỳ đã phê duyệt.
Chiến lược khoáng sản phải đảm bảo các nội dung, nguyên tắc, căn cứ khoa học
và có độ dài thời gian 10 năm và tầm nhìn 20 năm theo thời kỳ chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội. Chiến lược là căn cứ để thiết kế và lập quy hoạch.
Quy hoạch khoáng sản bao gồm quy hoạch điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng
và quy hoạch khai thác, sử dụng từng nhóm, từng loại khoáng sản (làm vật liệu xây
dựng thông thường và khoáng sản khác). Quy hoạch khoáng sản cũng phải đảm ứng
các yếu cầu, đảm bảo các nguyên tắc, căn cứ khoa học, thực tiễn. Quy hoạch khoáng
sản có thể được bổ sung, điều chỉnh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội.
Việc khoanh định khu vực khai thác, cấm khai thác hay tạm dừng khai thác có quan
hệ với quy hoạch khoáng sản của quốc gia cũng như từng địa phương.
b. Quản lý hoạt động khai thác khoáng sản phải tuân thủ các quy định của pháp
luật