Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Đề cương ôn tập THPT môn văn trường THPT yên dũng số 2 năm 2021 2022

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.74 KB, 26 trang )

BỘ ĐỀ ÔN TỐT NGHIỆP THPT
ĐỀ 1
I. Đọc hiểu (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Cuộc sống hiện đại ngày càng trở nên gấp gáp với những thay đổi chóng
mặt. Thế giới đang trở thành một ngôi làng nhỏ bé. Cánh cửa mở ra xã hội rộng
lớn đôi khi che khuất giá trị nhỏ bé của mỗi cá nhân. Có những người bị cuốn
theo vịng xốy của cuộc đời để rồi cuối cùng khơng biết mình là ai, đang đi về
đâu và mục đích lớn lao của cuộc đời mình là gì? Và trong quá trình mải mê tìm
kiếm những giá trị vật chất, tinh thần của cuộc sống, họ đã bỏ rơi chính giá trị
của bản thân.
Chỉ đến khi bừng tỉnh, rời khỏi giấc mộng phù du, họ mới nhận thức được
con người mình, trở về những giá trị sống đích thực và cảm nhận được ý nghĩa,
hạnh phúc của cuộc sống này…
Vậy các bạn hãy nhớ, đừng làm mòn giá trị của bản thân bằng việc so sánh
mình với người khác, bởi vì mỗi người trong tất cả chúng ta đều là người đặc
biệt. Cũng đừng đề ra những mục tiêu lớn lao chỉ vì người khác cho đó là quan
trọng. Chỉ có bạn mới biết điều gì là tốt nhất cho mình, và hãy nhận thức nó một
cách đúng đắn.
(Chương trình FM Sức khỏe, Kênh VOV giao thông quốc gia)
Câu 1:Khi “bừng tỉnh, rời khỏi giấc mộng phù du”, con người được những gì?
Câu 2: Anh/chị hiểu như thế nào về hình ảnh “giấc mộng phù du”?
Câu 3: Theo tác giả, nguyên nhân nào khiến con người đánh mất giá trị của bản
thân?
Câu 4:Anh/ Chị có đồng ý với ý kiến cho rằng: “Thế giới đang trở thành một
ngơi làng nhỏ bé”? Vì sao?
II. Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến
được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: “Mỗi người trong tất cả chúng ta đều
là người đặc biệt”.


Câu 2 (5.0 điểm)
Trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, nhân vật Tnú được
miêu tả:
- Khi xông ra cứu vợ con:
“Một tiếng hét dữ dội. Tnú đã nhảy xổ vào giữa bọn lính. Anh khơng biết
đã làm gì. Chỉ thấy thằng giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy
vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Rồi Mai ômđứa con chui vào
ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ
con Mai”.
- Khi bị kẻ thù tra tấn:
“Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng
vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng “Giết !”. Tiếng chân người


đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ:
“Chém ! Chém hết!”. Cụ Mết đúng rồi, cụ Mết đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong
tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên
trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá T nú
mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về… ”
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn văn trên.
ĐỀ2
Phần I: Đọc hiểu (3.0 điểm)
Đọc đoạn thơ sau đây và trả lời các câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
… Ta ra đi mười năm xa vòng tay của
ta quên mất thềm xưa dáng mẹ ngồi
mẹ
chờ
Sống tự do như một cánh chim bằng
giọt nước mắt già nua không ứa nổi
Ta làm thơ cho đời và cho biết bao

ta mê mải trên bàn chân rong ruổi
người con gái
mắt mẹ già thầm lặng dõi sau lưng
có bao giờ thơ cho mẹ ta không ?
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
Những bài thơ chất ngập tâm hồn
mấy kẻ đi qua
đau khổ - chia ly- buồn vui - hạnh
mấy người dừng lại ?
phúc
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
Có nhưng bàn chân đã giẫm xuống
trái tim lo âu đã giục giã đi tìm
tim ta độc ác
ta vẫn vơ tình
mà vẫn cứ đêm về thao thức làm thơ
ta vẫn thản nhiên ?
(Trích Mẹ – Đỗ Trung Quân, 1986)
Câu 1: Xác định thể thơ được sử dụng.
Câu 2: Nêu tác dụng của biện pháp nhân hóa được sử dụng trong câu:
Con hốt hoảng trước thời gian khắc nghiệt/ Chạy điên cuồng qua tuổi mẹ già nua.
Câu 3: Nhà thơ đã nhận ra được điều gì trong những câu thơ sau:
Khi gai đời đâm ứa máu bàn chân
mấy kẻ đi qua
mấy người dừng lại?
Sao mẹ già ở cách xa đến vậy
trái tim âu lo đã giục giã đi tìm
Câu 4: Tình cảm, suy tư nào của nhà thơ được bộc lộ trong đoạn thơ trên khiến anh, chị
đồng cảm sâu sắc nhất?
Phần II: Làm văn (7.0 điểm)

Câu 1( 2 điểm)
Từ lối sống vô tình, thản nhiên của người con với mẹ trong văn bản trên,
anh, chị hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ mình về lối sống
thờ ơ vơ cảm với những người thân xung quanh mình của giới trẻ trong cuộc
sống hôm nay.
Câu 2 (5.0 điểm)
Hồn Trương Ba: Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi
muốn được là tơi tồn vẹn.
Đế Thích: Thế ơng ngỡ tất cả mọi người đều được là mình tồn vẹn cả ư? Ngay
cả tơi đây. Ở bên ngồi, tơi đâu có được sống theo những điều tơi nghĩ bên
trong. Mà cả Ngọc Hồng nữa, chính người lắm khi cũng phải khn ép mình
cho xứng với danh vị Ngọc Hồng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông.


Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào. Thân thể thật của ơng đã tan rữa trong
bùn đất, cịn chút hình thù gì của ơng đâu!
Hồn Trương Ba: Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện
không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông
chỉ nghĩ đơn giản là cho tơi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần
biết!
Đế Thích: (không hiểu) Nhưng mà ông muốn gì?
Hồn Trương Ba: Ơng từng nói: Nếu thân thể người chết cịn ngun vẹn, ơng
có thể làm cho hồn người đó trở về. Thì đây, (chỉ vào người mình) thân thể anh
hàng thịt cịn lành lặn ngun xi đây, tơi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho
hồn anh ta được sống lại với thân xác này.
Đế Thích: Sao lại có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần
hồn tầm thường của anh hàng thịt?
Hồn Trương Ba: Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta, sẽ sống hòa thuận
được với thân anh ta, chúng sinh ra là để sống với nhau. Vả lại, còn…còn chị
vợ anh ta nữa…chị ta thật đáng thương!

(Trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” – Lưu Quang Vũ, SGK Ngữ văn
12 tập hai, trang 149, NXB Giáo dục 2008, tr149)
Phân tích vẻ đẹp nhân cách của Trương Ba thể hiện qua đoạn đối thoại
với Đế Thích. Từ đó nhận xét về chiều sâu triết lí được tác giả gửi gắm qua
đoạn trích?
ĐỀ 3
I/ ĐỌC HIỂU: ( 3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
…Khi ai đó gieo những hạt mầm tốt đẹp, nhất định nó sẽ có ngày nảy nở
thành vụ mùa bội thu, khiến cho dù chủ nhân có khơng cịn trên cõi đời, thì hương
hoa thơm, vị quả ngọt vẫn nhắc khôn nguôi về họ. Khi ta gieo một hạt mầm tốt
đẹp, ta làm cho cuộc sống của mình tỏa hương.
[…] Cho nên điều cần nhất trên đời là cảm hứng muốn gieo hạt, muốn ươm
mầm thiện trong mỗi người. Cho nên, một dòng tin tức về một bác doanh nhân
nhân hậu ở Sa Đéc đến lúc bệnh trọng, biết không qua khỏi vẫn không ngừng
gieo hạt khiến ta phải rưng rưng. Ông nhắc ta phải giữ cho mình hi vọng, dù giữa
ồn ào những điều xấu xa vẫn hi vọng vào lòng tốt và tin vào điều tốt. Tin để tiếp
tục gieo. Dẫu cho mình đang tuổi nhỏ, cũng hãy bắt đầu vụ mùa thật sớm bằng
cách gieo trồng điều tốt đẹp nhất mỗi ngày…
(Chỉ là những bông hoa cỏ may, Hà Nhân, Hoa học trò, số
1157)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, khi gieo một hạt mầm tốt đẹp thì cuộc sống của chính ta
sẽ trở nên thế nào?
Câu 3. Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ chính được sử dụng trong
câu sau: "Khi ai đó gieo những hạt mầm tốt đẹp, nhất định nó sẽ có ngày nảy nở


thành vụ mùa bội thu, khiến cho dù chủ nhân có khơng cịn trên cõi đời, thì hương

hoa thơm, vị quả ngọt vẫn nhắc khôn nguôi về họ.”
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm của tác giả “điều cần nhất trên
đời là cảm hứng muốn gieo hạt, muốn ươm mầm thiện trong mỗi người” khơng?
Vì sao?
II/ TẬP LÀM VĂN: ( 7 điểm)
Câu 1: ( 2 điểm)
Từ ngữ liệu phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình
bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề sau: Hãy ln tin vào lịng tốt và và điều tốt”
Câu 2: ( 5 điểm)
Thế mà hơn bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến
cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân
đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối khơng cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân
tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột cơng nhân ta
một cách vơ cùng tàn nhẫn.
(Trích "Tun ngơn Độc lập", Hồ Chí Minh)

Trình bày cảm nhận của Anh/Chị về nét đặc sắc của đoạn trích trên. Từ đó, liên
hệ với "Bình Ngơ đại cáo" của tác giả Nguyễn Trãi để thấy rõ điểm tương đồng
và khác biệt của hai tác giả, hai thời đại.
ĐỀ 4
I. ĐỌC HIỂU(3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Hội chứng vơ cảm hay nói cách khác là căn bệnh trơ cảm xúc trước niềm
vui, nhất là nỗi đau của người khác, vốn là một mặt trong hai phương diện cấu
trúc bản chất Con – Người của mỗi sinh thể người. Tính “con” và tính “người”
ln ln hình thành, phát triển ở mỗi con người từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi


nhắm mắt xuôi tay. Cái thiện và cái ác luôn luôn song hành theo từng bước đi,
qua từng cử chỉ, hành vi của mỗi con người trong mối quan hệ với cộng đồng,
với cha mẹ, anh chị em, bạn bè, bà con làng xóm, đồng bào, đồng loại. Trong
cuộc hành trình lâu dài, gian khổ của một đời người, cái mất và cái được không
phải đã được nhận ra một cách dễ dàng. Mất một đồng xu, một miếng ăn, mất
một phần cơ thể, mất một vật sở hữu, con người nhận biết ngay. Nhưng có những
cái mất, cái được nhiều khi lại khơng dễ gì cảm nhận được ngay. Nhường bước
cho một cụ già cao tuổi, nhường chỗ cho bà mẹ có con nhỏ trên tàu xe chật chội,
biếu một vài đồng cho người hành khất… có mất có được nhưng khơng phải ai
cũng đã nhận ra cái gì mình đã thu được; có khi là sự thăng hoa trong tâm hồn
từ thiện và nhân ái. Nói như một nhà văn lớn, người ta chỉ lo túi tiền rỗng đi
nhưng lại khơng biết lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khô héo dần. Tôi muốn đặt
vấn đề là cùng với sự báo động những hiểm họa trông thấy, cần báo động cả
hiểm họa khơng trơng thấy hay khó trơng thấy. Hiện nay đã có quá nhiều dấu
hiệu và sự kiện trầm trọng của hiểm họa vô cảm trong xã hội ta, nhất là trong
tuổi trẻ. Bạo lực đã xuất hiện dữ dằn những tháng ngày gần đây báo hiệu nguồn
gốc sâu xa ở sự xuống cấp nghiêm trọng về nhân văn, về bệnh vơ cảm.
(Trích Nguồn gốc sâu xa của hiểm họa, Bài tập Ngữ văn 12, Tập một, NXB

Giáo dục Việt Nam, 2017, trang 36 – 37)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, nguồn gốc sâu xa của nạn bạo lực xuất hiện gần đây là gì?
Câu 3.Tác giả đã thể hiện thái độ gì khi bàn về hiểm họa vô cảm trong xã hội
hiện nay?
Câu 4. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào khi có những người chỉ lo túi tiền rỗng
đi lo tâm hồn mình đang vơi cạn, khơ héo dần?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về
ý kiến được nêu ở phần Đọc – hiểu: Bệnh vô cảm.
Câu 2 ( 5.0 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã miêu tả về nhân vật bà cụ Tứ:
Chiều hôm trước, khi biết Tràng “nhặt” vợ: “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà
lão hiểu rồi. Lịng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa
ai ốn vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ơi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở
mặt sau này. Cịn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dịng
nước mắt… Biết rằng chúng nó có ni nổi nhau sống qua được cơn đói khát
này khơng.
Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt
xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp
bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có
vợ được… Thơi thì bổn phận là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… May ra
mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó n bề nó,
chẳng may ra ơng giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết
được?


Và trong buổi sáng hôm sau: “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác

hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn
thu dọn, quét tước nhà cửa. Hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp cửa nhà
cho quang quẻ, nền nếp, thì cuộc đời của họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm
khá hơn.
Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm
rau chuối thái rồi, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon
lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói tồn
chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:
- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu
bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có
ngay đàn gà cho mà xem...”
Trích Vợ nhặt – Kim Lân, Ngữ Văn 12, Tập 2,
NXB Giáo dục 2008, tr 28,29,30,31)
Phân tích sự thay đổi tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ qua hai lần miêu tả
trên. Từ đó nhận xét về tư tưởng nhân đạo của tác giả.
ĐỀ 5
I. Đọc- hiểu
Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi :
“13.3.69
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh. Anh bị một vết thương xuyên thấu bụng.
Sau cuộc mổ tình trạng khơng tốt mà xấu dần, có lẽ vì một sự chảy máu trong, do
miếng mảnh khơng tìm thấy cọ xát làm đứt một mạch máu nào đó. Sau hội chẩn,
ý kiến chung không đồng ý mổ lại. Riêng mình vẫn băn khoăn lưỡng lự. Cuối
cùng anh đã chết - cái chết của anh làm mình suy nghĩ đến đau đầu. Anh chết vì
sao? Vì sự thiếu kiên quyết của mình chăng? Rất có thể là như vậy. Nếu mình
kiên quyết, ít ra 100% thì hy vọng sống của anh cũng có thể có 10%. Mình đã
theo đi quần chúng, bỏ qua một việc nên làm.
Anh chết rồi, trong túi áo trước ngực anh có một quyển sổ nhỏ trong có
nhiều kiểu ảnh của một cơ gái với nụ cười duyên dáng trên môi và lá thư kiên
quyết sắt son chờ anh. Trước ngực anh cịn có chiếc khăn nhỏ thêu dòng chữ

“Đợi chờ anh”. Ơi người con gái ở hậu phương kia ơi! Người cô yêu sẽ không
bao giờ về nữa, trên vành khăn đau đớn mà cô sẽ phải cài lên mái tóc xanh của
cơ nặng trĩu đau thương, chất đầy tội ác của kẻ giết người là quân đế quốc Mỹ
và có cả niềm ân hận của tôi, một người thầy thuốc đã không cứu sống được anh
trong khi cịn có thể cứu được!”
(“Nhật ký Đặng Thùy Trâm” (tr133, 134), Đặng Thùy Trâm, NXB Hội
nhà văn, 2005)
Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?
Câu 2: Tác giả bộc lộ “Sau hội chẩn, ý kiến chung khơng đồng ý mổ lại.
Riêng mình vẫn băn khoăn lưỡng lự”. Theo anh/ chị, tại sao tác giả lại băn khoăn
lưỡng lự?


Câu 3: Nêu nội dung của đoạn văn từ “Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh”
đến “bỏ qua một việc nên làm”.
Câu 4: Trình bày ngắn gọn cảm xúc của anh/ chị khi đọc đoạn văn: “Ơi
người con gái ở hậu phương kia ơi! Người cô yêu sẽ không bao giờ về nữa, trên
vành khăn đau đớn mà cô sẽ phải cài lên mái tóc xanh của cơ nặng trĩu đau thương,
chất đầy tội ác của kẻ giết người là quân đế quốc Mỹ và có cả niềm ân hận của
tôi, một người thầy thuốc đã không cứu sống được anh trong khi cịn có thể cứu
được!”
II. Làm văn (7.0 đ)
Câu 1: (2.0 đ) Anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về tác
hại của thói “theo đuôi quần chúng”.
Câu 2: (5.0 đ) Cảm nhận của anh/ chị về diễn biến tâm trạng nhân vật Mị
trong đoạn trích sau. Từ đó liên hệ đến sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình
mùa xuân để thấy được sự phát triển ý thức trong con người Mị.
“Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu khơng có bếp lửa sưởi
kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không
biết bao nhiêu lần.

Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì
các chị em trong nhà mới bắt đầu ra dóm lị bung ngơ, nấu cháo lợn. Mỗi đêm,
khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng
lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn
sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A
Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ
còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã
ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa
bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một
dịng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hóm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình
cảnh như thế, Mị chợt nhớ đêm năm trước A Sử trói Mị , Mị cũng phải trói đứng
thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi
được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thơi, nó
bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc
ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn đợi ngày
rũ xương ở đây thơi... Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ ... Mị phảng phất
nghĩ như vậy.
Ðám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng khơng đứng lên. Mị nhớ lại
đời mình, Mị tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn
được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói
thay vào đấy. Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao
Mị cũng không thấy sợ...
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt,
nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ
cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần
lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ
thì thào được một tiếng “Ði ngay...”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống,



khơng bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức
vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp
A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh
buốt:
- A Phủ cho tơi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất”.
(“Vợ chồng A Phủ”- Tơ Hồi, Ngữ văn 12 tập hai, NXB giáo dục, 2008,
tr13, 14).
ĐỀ 6
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc bài thơ dưới đây:
“Giấy báo con đậu đại học
Mẹ mừng quýnh vấp bờ nương
Cha mừng buông rơi cán cuốc
Vùng kinh tế mới tưng bừng
Vội bán non hai sào đậu
Cho con hành trang lên đường
“Thị thành xa hoa rực rỡ
Mình nghèo, ráng học nghe con!”
Con đi việc nhà dồn lại
Vai mẹ thêm gầy mẹ ơi!
Bầy em vẫn cịn thơ dại
Mình cha cặm cụi trên đồi

Thư cha đến giữa giảng đường
Con đọc quên nghe thầy giảng

Lá thư còn đọng mùi hương
Cỏ, rơm, đất bùn, mưa nắng...
“Việc đồng dạo này bận quá
Nhớ con không biết làm xao
Con hãy dữ dìng sứt khỏe
À nhà vừa bán con heo…”
Thư viết đầy lỗi chính tả
Con bật khóc giữa giảng đường
Vịng tay ni con khôn lớn
Lần đầu cầm bút rưng rưng...”.

(Thư của cha, Nguyên Hương)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? Nêu dấu hiệu nhận biết?
Câu 2. Nội dung chính của bài thơ trên?
Câu 3. Chỉ ra và nêu hiệu quả của biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ
thứ tư?
Câu 4. Suy nghĩ của anh/ chị về việc tác giả trích nguyên văn các lỗi chính tả
trong bức thư người cha gửi cho con ở khổ thơ thứ năm?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1: (2.0 điểm)
Từ bài thơ ở phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
bày tỏ suy nghĩ về cách dung hòa giữa ước nguyện của cha mẹ và việc con cái
lựa chọn hướng đi cho cuộc đời mình.
Câu 2: (5.0 điểm)
Trong tác phẩm Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành hai lần miêu tả
hình ảnh của rừng xà nu. Lần đầu, trong phần đầu văn bản: “Làng ở trong tầm
đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng
sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu
hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu



hàng vạn cây khơng có cây nào khơng bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang
nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn
trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc
quện thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có cây sinh sôi nẩy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu
mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó
phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vơ số hạt bụi vàng từ nhựa cây
bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị
đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa cịn trong, chất dầu cịn lống,
vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng
cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những
con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác khơng giết nổi chúng, nhưng vết
thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt
lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã… Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu
ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì
khác ngồi những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.”
Và lần thứ hai khi kết thúc tác phẩm: “Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn
năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh
nắng hè. Quanh đó vơ số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú
khỏi mặt đất, nhọn hoắt như những mũi lê.
Ba người đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng khơng thấy gì
ngồi những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.”
( Nguyễn Trung Thành- Ngữ văn 12, Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2005)
Phân tích vẻ đẹp biểu trưng của rừng xà nu trong hai lần miêu tả, từ đó làm
nổi bật nét đặc sắc của tác giả trong việc xây dựng hình tượng nghệ thuật này.

ĐỀ 7
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Cuộc sống là một bức tranh đa màu bởi nó được ghép nên từ suy nghĩ đa
dạng của rất nhiều cá nhân. Chỉ khi nào ta tin tưởng vào suy nghĩ độc lập của
bản thân thì khi đó một tư duy riêng biệt mới được hình thành trong ta. Đừng
nghĩ rằng người khác khơng đồng tình với ta nghĩa là ta không đúng. Trên thực
tế, đôi khi theo đuổi một cách nhìn riêng biệt sẽ giúp ta có được những cống hiến
to lớn và ý nghĩa nhất cho bản thân và người khác. Vì thế, hãy trân trọng suy
nghĩ của riêng mình.
Ngược lại, cũng khơng nên ép buộc người khác phải có cách nhìn nhận
giống mình. Cố gắng thuyết phục các thành viên trong gia đình tin tưởng những
điều mình từng trải qua là một việc làm vơ nghĩa, bởi trước tiên, mỗi người đều
có những trải nghiệm của riêng mình. Bên cạnh đó, mỗi người lại có tầm hiểu
biết riêng và thái độ về sự hiện diện cũng như vai trò của bản thân trong cuộc
sống cũng rất khác nhau. Cho rằng bằng cách nào đó, họ sẽ suy nghĩ giống ta là
một điều ảo tưởng. Mỗi chúng ta trải qua tuổi thơ của mình theo những cách khác
nhau và mỗi người đều có quyền giữ những cảm nhận đó cho riêng mình.
Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để người khác cũng có được cảm giác
( Qn hơm qua sống cho ngày mai – Tian Dayton, Ph.D,


NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr. 102- 103)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0,5 điểm)
Câu 2. Theo tác giả, vì sao khơng nên ép buộc người khác phải có cách nhìn
nhận giống mình? (0,5 điểm)
Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích. (1,0 điểm)
Câu 4. Anh/ Chị có đồng tình với ý kiến: Hãy vui vẻ khi là chính mình và hãy để
người khác cũng có được cảm giác ấy? Vì sao? (1,0 điểm)
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1 (2.0 điểm)
Từ đoạn trích phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (200 chữ)
trình bày suy nghĩ về tầm quan trọng của cách nhìn riêng trong cuộc sống.
Câu 2 (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hành động Mị cắt dây trói cứu A phủ trong đêm
mùa đơng trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi. Từ đó liên hệ đến sức
sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân để thấy được sự phát triển ý thức
trong con người Mị.
ĐỀ 8
PHẦN I: ĐỌC HIỂU ( (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
[…] Thay đổi là chuyện đương nhiên, vì thế hãy ngưng than vãn để nhìn nhận
mọi chuyện theo hướng tích cực. Phần lớn chúng ta đều được nuôi dưỡng để lớn
lên là những người biết suy tính cẩn thận. Trước khi nói phải nhớ “uốn lưỡi 7
lần”. Làm việc gì cũng phải “nhìn trước ngó sau”, phải “nghĩ cho chín”. Nhưng
điều gì cũng có hai mặt. Chính thói quen suy nghĩ quá nhiều, cẩn thận quá mức
đã cướp đi sự tự tin, khiến ta nhìn đâu cũng thấy người xấu, ngồi đâu cũng nghe
chuyện xấu. Như vậy, khi hoàn cảnh biến chuyển và khó khăn hiện hữu, ta sẽ chỉ
thêm sợ hãi và lo lắng bởi chỉ biết suy nghĩ tiêu cực.
Bên cạnh đó, đặc điểm chung của những người thành công là không ngủ
quên trên chiến thắng. Kể cả khi đã có những chiến tích lớn, họ vẫn khơng ngừng
làm mới mình. Tờ báo lừng danh Washington Post có lẽ đã sớm lụn bại trong
cuộc cạnh tranh khốc liệt của truyền thông hiện đại nếu ông chủ Jeff Bezos không
nhanh chóng cải tổ lại bộ máy “già nua”. Ơng cho xây hẳn một tịa soạn mới
theo mơ hình tân tiến nhất, lắp đặt các thiết bị hiện đại để hỗ trợ phân tích số
liệu, nhu cầu đọc của độc giả… và đẩy mạnh sản xuất các tác phẩm báo chí mới
mẻ bắt kịp xu hướng. Hay gần gũi hơn với chúng ta là sự thay đổi không ngừng
của Facebook. Mặc dù đã có hơn 1 tỷ người dùng tồn cầu, Mark Zuckerberg và
các cộng sự vẫn liên tục cập nhật các tính năng mới để tối đa thời gian chúng ta
“lang thang” trên mạng xã hội này.

Cuộc sống không ngừng biến chuyển, và chúng ta cần phải biết thích ứng
linh hoạt trong mọi hoàn cảnh. Hãy nhớ rằng, bất cứ ai trên đời cũng phải thay
đổi nếu không muốn bị tụt hậu.
(Chàng tí hon, miếng pho mát và bài học về sự thay đổi, VÂN ANH SPIDERUM,
theo Trí thức trẻ 20:55 05/04/2017)


Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản ?
Câu 2. Theo tác giả, đặc điểm chung của những người thành cơng là gì ?
Câu 3. Anh chị hiểu như thế nào về ý kiến Trong quá trình đối mặt với những
biến động trong cuộc đời, rào cản lớn nhất của mỗi người suy cho cùng đều là
chính mình ?
Câu 4. Anh, chị có đồng tình với quan niệm Chính thói quen suy nghĩ q nhiều,
cẩn thận quá mức đã cướp đi sự tự tin, khiến ta nhìn đâu cũng thấy người xấu,
ngồi đâu cũng nghe chuyện xấu? Vì sao?
PHẦN II: LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm): Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn
văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thay đổi bản thân.
Câu 2 (5,0 điểm): Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tơ Hồi), tiếng sáo
trong đêm tình mùa xn là một chi tiết xuất hiện trở đi trở lại nhiều lần. Hãy
phân tích ý nghĩa của chi tiết tiếng sáo trong hai lần xuất hiện sau:
“…Ngồi đầu núi đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng
lại thiết tha bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người u…”;
Và “…Trong bóng tối Mị đứng im lặng như khơng biết mình bị trói. Hơi rượu
cịn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những
đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao

nào…”Mị vùng bước đi nhưng tay chân đau không cựa được…”
Từ đó nhận xét về tài năng nghệ thuật của nhà văn Tơ Hồi.
ĐỀ 9
Phần 1: Đọc hiểu (3điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:
Nhiều người Việt kiếm tiền bằng mọi giá, đánh đổi cả liêm xỉ, danh dự để
có tiền. Sự kiếm tiền nào độc ác hơn là kiếm tiền trên sức khỏe và mạng sống
đồng bào mình? Trung bình hai giờ đồng hồ có ba mươi người chết vì bệnh ung
thư- một con số tàn nhẫn đến rợn người. Bao giờ người Việt mới thôi độc ác với
nhau? Đó là câu hỏi trăn trở của khơng biết bao nhiêu người có lương tâm và
dường như đến thời điểm này họ vẫn đang bất lực. Làm thế nào để con người biết
yêu thương nhau hơn? Đơn giản vậy thơi nhưng nó quyết định vận mệnh của cả
dân tộc, cả thế giới này. Người nông dân chỉ cần thương người tiêu dùng một
chút đã không nhẫn tâm tưới thuốc độc lên rau củ quả để đào huyệt chôn đồng
bào mình và chơn sống chính mình. Các quan chức chỉ cần bớt lãng phí một chút
thơi, sẽ có bao nhiêu bệnh viện được xây và bao nhiêu đứa trẻ được đến trường
(Lê Bình, trích Tạp chí kinh tế xn Bính ThânPhẳng hay khơng phẳng,
VTV1, 12/2/2016)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?


Câu 2. Tác giả thể hiện thái độ gì đối với các vấn đề còn tồn tại của xã hội? Thái
độ đó được bộc lộ qua những yếu tố ngơn ngữ nào?
Câu 3. Theo tác giả, vấn đề cơ bản nhất cần giải quyết là gì?
Câu 4. Từ góc độ cá nhân, anh/chị hãy trả lời câu hỏi: Bao giờ người Việt mới
thôi độc ác với nhau?
Phần 2: Làm văn (7 điểm)
Câu 1 (2 điểm): Em suy nghĩ gì về nhận định của nhà báo Lê Bình? Trình bày
quan điểm của mình trước vấn đề vệ sinh an tồn thực phẩm hiện nay bằng một
đoạn văn không quá 200 từ.

Câu 2 (5 điểm):
Hãy phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu để thấy được cách nhìn về con người và cuộc
sống của tác giả.
ĐỀ 10
Phần I: Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích dưới đây và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Điện thoại đã được cấm sử dụng trong các giờ học ở Pháp, tuy nhiên vào
năm học tới, học sinh nước này còn bị cấm sử dụng điện thoại trong giờ ra chơi,
giờ ăn trưa và thời gian luân chuyển giữa các tiết học.
Phản ứng của giáo viên và phụ huynh trước lệnh cấm này được chia thành
2 phe đối lập. Một số nói rằng, trẻ phải được “sống trong thời gian riêng của
mình”. Ở Pháp, khoảng 93% trẻ từ 12-17 tuổi sở hữu điện thoại di động.
“Ngày nay, trẻ khơng cịn hứng thú với việc vui chơi chạy nhảy trong giờ ra
chơi nữa. Tất cả chúng đều dán mắt vào điện thoại. Và dưới góc độ giáo dục thì
đó là một vấn đề” – ông Jean-Michel Blanquer, Bộ trưởng Giáo dục Pháp nhận
định.
“Điều này là để đảm bảo rằng các quy định và điều luật được tôn trọng.
Việc sử dụng điện thoại bị cấm trong lớp học. Với các hiệu trưởng, giáo viên và
phụ huynh, chúng ta phải tìm ra cách để bảo vệ học sinh khỏi việc bị mất tập
trung vì màn hình và điện thoại” – ơng nói.
(Trích Trường học Pháp cấm điện thoại di động cả trong giờ ra chơi dẫn theo
Vietnamnet.vn, 13/12/2017)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên?
Câu 2. Anh chị hiểu "Sống trong thời gian riêng của mình” như thế nào?
Câu 3. Lí do Bộ trưởng Giáo dục Pháp cấm học sinh sử dụng điện thoại trong giờ
ra chơi là gì?
Câu 4. Là học sinh, anh/chị có đồng ý với quan điểm của Bộ trưởng Giáo dục
Pháp khơng? Vì sao?
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)

Câu 1(2 điểm): Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về tác hại của việc lạm dụng công nghệ.
Câu 2: (5 điểm): Trong truyện ngắn Người lái đị Sơng Đà, Nguyễn Tn đã hai
lần miêu tả hình ảnh người lái đị. Đó là ”Ơng lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sơng thần đá. Ơng đã thuộc quy luạt phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm
trở này”. Và “ đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn


bàn về các anh vũ cá dầm xanh…cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nòa về cuộc
chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi”.
Phân tích hình ảnh ơng lái đị trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, anh/chị hãy
làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật này.
ĐỀ 11
Phần I. Đọc hiểu (3,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
[...]Cứ tới chủ đề về ơn nghĩa sinh thành thì ngập hộp thư “Thay lời muốn
nói ” sẽ là những câu xin lỗi ba mẹ từ các bạn trẻ. Là những lời xin lỗi được gửi
đến những ba-mẹ-còn-sống. Mà, nội dung của những lời xin lỗi cũng... na ná
nhau, kiểu như “Con biết ba mẹ rất cực khổ vì con... Con biết con đã làm cho ba
mẹ buồn rất nhiều. Con xin lỗi ba mẹ. Xin lỗi, nhưng mình hay gọi đây là “những
lời xin lỗi mang tính phong trào ”, và những áy náy ray rứt này là “những áy náy
ray rứt theo làn sóng”, mỗi khi có ai hay có chương trình nào gợi nhắc, thì các
bạn mới sực nhớ ra. Mà khổ cái, bản thân những lời xin lỗi ấy sợ rằng khó làm
người được xin lỗi vui hơn, bởi vì đâu đợi tới chính họ, ngay cả chúng mình là
những người làm chương trình đây cũng đều hiểu rằng, có lẽ chỉ vài ngày sau
chương trình, cùng với nhịp sống ngày càng nhanh ngày càng vội, cùng với lịch
đi học, đi làm, đi giải trí sau giờ học, giờ làm..., những lời xin lỗi ấy sợ rằng sẽ
sớm được vứt ra sau đầu; và những cảm giác áy náy, ăn năn ấy sẽ sớm chìm sâu,
chẳng cịn mảy may gợn sóng. Cho đến khi... lại được nhắc mà sực nhớ ra, lần
kể tiếp.

Điều đó, đáng buồn là một sự thật ở một bộ phận không nhỏ những người
trẻ, bây giờ.
(Thương cịn khơng hết..., ghét nhau chi, Lê Đỗ Quỳnh Hương, Nxb Trẻ, tr.3132)
Câu 1. Chỉ ra những nghịch lí trong những lời xin lỗi của các bạn trẻ được nêu
trong đoạn trích.
Câu 2. Tác giả thể hiện tâm trạng như thế nào trước thực trạng những lời xin lỗi
phong trào tràn ngập mỗi dịp làm về chủ đề về ơn nghĩa sinh thành?
Câu 3. Theo anh/chị, nguyên nhân nào dẫn tới những lời xin lỗi phong trào và
những áy náy ray rứt theo làn sóng trong ứng xử của một bộ phận không nhỏ
những người trẻ ngày nay?
Câu 4. Theo anh/chị, điều gì quan trọng nhất trong một lời xin lỗi? Vì sao?
Phần II. Làm văn (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ thơng điệp của đoạn trích, hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ với
chủ đề: Giá trị của lời xin lỗi đúng cách.
Câu 2. (5,0 điểm)
Trong truyện Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tơ Hồi đã hai lần nói về việc Mị
“vùng bước đi” và “băng đi” ở hai đoạn văn sau:
Đoạn 1:


“...Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như khơng biết mình đang bị trói. Hơi
rượu cịn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những
đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào...
Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo
nữa... ”
Đoạn 2:
“...Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưnng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp
A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc. Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh

buốt:
A Phủ cho tơi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
Ở đây chết mất.... ”
(Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi, sách Giáo khoa Ngữ văn 12, cơ bản, Nxb Giáo
dục Việt Nam, 2008, tr 9,11)
Phân tích nhân vật Mị qua hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật khát vọng
sống của nhân vật này.
ĐỀ 12
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
[1] …Thật khó để rao giảng sự tự hào dân tộc. Hầu như chúng ta có cảm
xúc đó
trong một hồn cảnh cụ thể khi chúng ta đứng trước một biển người cùng hòa
vang quốc ca hoặc khi chúng ta nghe một câu chuyện thành công của những nhân
tài của đất nước hay chúng ta bất bình trước một vấn đề ảnh hưởng đến con
người và q hương mình. Nhưng hãy nói về một câu chuyện đơn giản hơn, ở lứa
tuổi học sinh, chúng ta sẽ thể hiện sự tự hào đó như thế nào?
[2] Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta thuộc ca dao, tục ngữ, thơ
văn lưu
lốt mà là có sự cảm nhận về vẻ đẹp của văn hóa dân tộc và mang trong mình
tâm thế chia sẻ, quảng bá những vẻ đẹp truyền thống của đất nước ra thế giới.
Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta thuộc lịng những tình tiết lịch sử
nước nhà mà là tơn trọng các nền văn hóa, các quốc gia khác nhau và biết hành
động vì vị thế của đất nước. Tự hào dân tộc không phải là việc vỗ ngực xưng tên,
xem nhẹ các nền văn hóa khác mà là thể hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh
quốc tế.
(Trích Thư gửi học sinh nhân ngày tựu trường năm học 2016-2017, Marcel van
Miert,
chủ tịch điều hành hệ thống Trường Quốc tế Việt – Úc)

Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 2: Theo tác giả, niềm tự hào dân tộc xuất hiện trong hoàn cảnh cụ thể nào?


Câu 3: Chỉ rõ biện pháp tu từ cú pháp trong đoạn [2] của văn bản và nêu hiệu
quả của biện pháp tu từ đó.
Câu 4: Em có đồng tình với ý kiến: “Tự hào dân tộc không phải là việc chúng ta
thuộc ca dao, tục ngữ, thơ văn lưu lốt mà là có sự cảm nhận về vẻ đẹp của văn
hóa dân tộc và mang trong mình tâm thế chia sẻ, quảng bá những vẻ đẹp truyền
thống của đất nước ra thế giới” khơng?Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về ý kiến được nêu trong đoạn trích ở phần Đọc hiểu: Tự hào dân tộc
không phải là việc vỗ ngực xưng tên, xem nhẹ các nền văn hóa khác mà là thể
hiện bản sắc người Việt trong bối cảnh quốc tế.
Câu 2. (5,0 điểm)
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi đã hai lần miêu tả thái độ,
hành động của nhân vật Mị khi trơng thấy A Phủ bị trói vì để hổ ăn mất bò. Lúc
đầu “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy,
cũng thế thơi”. Sau đó, Mị “rón rén bước lại” “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút
dây mây” và cuối cùng “vụt chạy” theo A Phủ.
Phân tích thái độ, hành động của Mị qua hai chi tiết miêu tả trên để thấy
được tinh thần phản kháng và khát vọng tiềm tàng, mãnh liệt của người lao động
nghèo miền núi Tây Bắc trước Cách mạng.
ĐỀ 13
I. PHẦN ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Con người, tự thuở sơ khai, đã khát khao vượt qua những giới hạn. Vượt
qua giới hạn đường chân trời, con người chinh phục đại dương, khám phá ra

những lục địa mới. Vượt qua giới hạn sức hút của Trái Đất, lồi người tiếp tục
ni dưỡng giấc mơ chinh phục khơng gian. Lịch sử tiến hóa của loài người là
những trang biên niên sử về những giới hạn đã được chinh phục, đã được vượt
qua. Loài người tiến lên vì đã biết đứng thẳng và khơng ngừng đi tới.
Con người khác mn lồi là biết biến những tình huống ngặt nghèo,
những giới hạn thành động lực để nỗ lực vượt qua. Trong thể thao là cao hơn, xa
hơn, nhanh hơn. Trong làm ăn là vượt thốt đói nghèo vươn lên khá giả. Trong
khoa học là khao khát khám phá những điều chưa biết, chưa được gọi tên. (…)
Con Người sở dĩ có thể tự khẳng định mình là hoa của đất, là vì ln nghĩ cách
khơng để cho những tình huống tuyệt vọng trở thành cái cớ cho những hành động
tuyệt vọng.
Nếu ln lo sợ thì những cơn mưa cuối trời sẽ khiến ta lầm tưởng đó là
chân trời và ta cứ mãi khóc than. Nếu biết giữ mình ln đi tới thì chân trời cứ
rộng dài ra mãi. Người can đảm sẽ chọn rộng dài thay cho những cơn mưa.
(Trích Sống như cây rừng, Hà Nhân, NXB Văn học, 2016, tr. 115)
Câu 1. Xác định thao tác lập luận chính trong đoạn trích trên.


Câu 2. Theo tác giả, con người, tự thuở sơ khai, đã vượt qua những giới hạn nào?
Câu 3. Nêu tác dụng của biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng trong các câu sau:
Trong thể thao là cao hơn, xa hơn, nhanh hơn. Trong làm ăn là vượt thốt đói
nghèo vươn lên khá giả. Trong khoa học là khao khát khám phá những điều chưa
biết, chưa được gọi tên.
Câu 4. Lời khun “Nếu biết giữ mình ln đi tới thì chân trời cứ rộng dài ra
mãi. Người can đảm sẽ chọn rộng dài thay cho những cơn mưa” có ý nghĩa gì đối
với anh/chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về Sự
cần thiết phải ni dưỡng lòng biết ơn trong mỗi người.

Câu 2: (5 điểm)
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tơ Hồi hai lần miêu tả hình
ảnh nhân vật Mị đứng trong bóng tối. Vào đêm tình mùa xn, khi bị A Sử trói:
“Trong bóng tối, Mị đứng im như khơng biết mình đang bị trói. Hơi rượu cịn
nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi”
Và vào đêm mùa đông, sau khi cắt dây cởi trói cứu A Phủ: “Mị đứng lặng trong
bóng tối. Rồi Mị vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi.”
(Tơ Hồi – Ngữ văn 12, tập 2, NXBGD Việt Nam, 2010, trang 8 và trang
14)
Phân tích hình ảnh nhân vật Mị trong hai lần miêu tả trên, từ đó làm nổi
bật sự thay đổi ở nhân vật này.
ĐỀ 14:
I. ĐỌC- HIỂU (3,0 điểm)
Đọc văn bản:
Nếu bạn không thể là cây thông trên đỉnh đồi
Hãy là một bụi rậm trong thung lũng, nhưng
Hãy là một bụi rậm nhỏ nhắn nhưng rắn rỏi nhất bên cạnh
quả đồi
Hãy là một bụi cây nhỏ nếu bạn không thể là cái cây lớn
Nếu bạn không thể là một bụi cây hãy là một bụi cỏ
Làm cho con đường hạnh phúc hơn
Nếu bạn không thể là một con cá muskie hãy chỉ là một con
cá vược
Tất cả chúng ta không thể là thuyền trưởng
Nhưng có thể làm thủy thủ
Có một thứ dành cho tất cả chúng ta
Có việc lớn và cũng có việc nhỏ
Và việc nên làm chính là việc gần ta
Nếu bạn không thể là quốc lộ, hãy là một con đường mịn nhỏ
Nếu bạn khơng thể là mặt trời hãy là một vì sao



Điều quan trọng không ở chỗ quy mô bạn thành hay bại
Dù bạn là gì, hãy là cái tốt nhất
(Douglas Mallock - “Dù bạn là gì đi nữa, hãy là cái tốt nhất”,
sách Dám thất bại của Billi P.S. Dim, Nxb Trẻ, Hà Nội,
2005, tr.136 - 137).
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt của văn bản.
Câu 2. Trong văn bản, tác giả cho rằng bạn hãy là những điều gì?
Câu 3. Nêu tác dụng của phép điệp cấu trúc: Nếu không thể là...hãy là… được sử
dụng trong văn bản.
Câu 4. Lời khuyên "Và việc nên làm chính là việc gần ta" có ý nghĩa như thế nào
với anh/chị?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1(2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sự cần thiết của việc làm những điều nhỏ
bé một cách tốt nhất.
Câu 2. (5.0 điểm)
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa
bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một
dòng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình
cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói
đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, khơng biết
lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng
thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó
thật độc ác. Cơ chừng này đến đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết
rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn
biết đợi ngày rũ xương ở đây thơi…Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ…Mị
phảng phất nghĩ như vậy.

Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị khơng thổi, cũng khơng đứng lên. Mị nhớ
lại đời mình, Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng
đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền
phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh
này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm
mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại…Mị rút con dao
nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh.
Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị
chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu
xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật
sức vùng lên, chạy.


Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi
kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc
lạnh buốt:
– A Phủ cho tơi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
– Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói : “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống
dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi, Ngữ văn 12,Tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2016, tr.13-14 )
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên.Từ đó, bình
luận ngắn gọn tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tơ Hồi.
ĐỀ 15:

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Khơng thể nào chấp nhận sống:

Mà khơng biết mình về đâu
Khơng biết mình có thể làm gì
Buồn vui theo kẻ khác.
Không thể nào chấp nhận sống:
Trong sợ hãi, trong lọc lừa
Chẳng nhớ tim mình cịn đập.
Khơng thể nào chấp nhận sống:
Khi mình chưa là mình
Trống trơ như vực thẳm...

Với lời cầu xin, lời dọa nạt
Con người luôn đi sau thời gian
Để thời gian chỉ cịn báo mộng
Khơng thể nào bưng hai tay
Một bình an đặng sống
Khơng thể nào cúi đầu
Nhìn ngón chân bất lực.
Khơng thể nào chấp nhận sống:
(Trích Sống - Nguyễn Khoa Điềm , Nguồn: Hội nhà văn Việt Nam, ngày 6-62016)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Đoạn trích trên được viết theo thể thơ nào ?
Câu 2. Chỉ ra hai cách sống “không thể nào chấp nhận” được nêu trong đoạn
trích.
Câu 3. Cho biết hiệu quả của phép điệp được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 4. Anh/Chị có đồng tình với quan điểm sống trong các dịng thơ : “Khơng
thể nào chấp nhận sống:/ Khi mình chưa là mình” khơng ? Vì sao ?



II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1. ( 2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn
(khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về vấn đề: Làm thế nào để được sống là chính
mình.
Câu 2 (5,0 điểm)
…Sóng thác đã đánh đến miếng địn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vơ
sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đị […]. Mặt sơng trong tích tắc lịa
sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng.
Nhưng ơng đị vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt
méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh địn tỉa, đánh đòn âm vào
chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên
cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người
cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vịng thứ nhất. Khơng một phút
nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá ln vịng vây thứ hai và đổi ln chiến thuật. Ơng
lái đã nắm chắc binh pháp của thần sơng thần đá. Ơng đã thuộc quy luật phục
kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vịng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa
trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sơng. Vịng
thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại
bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như
là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt
lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ơng đị ghì cương lái, bám chắc lấy cái
luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về
phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liền xơ ra định
níu thuyền lơi vào tập đồn cửa tử. Ơng đị vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ơng
tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường
tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ cịn vẳng reo tiếng hị của sóng
thác luồng sinh. Chúng vẫn khơng ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng

đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã
đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Cịn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn,
bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay
giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa
đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong,
lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác….
(Trích Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tn, Ngữ văn 12, tập một)
Phân tích nhân vật ơng lái đị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét cái
nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân
ĐỀ 16:
I. PHẦN ĐỌC HIỂU: (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi:


Người ta ai rồi cũng phải lớn lên, ai rồi cũng khác. Thời gian đã thay đổi
chúng ta như vậy đấy, tại sao chúng ta lại không thể thay đổi những điều nhỏ bé
hơn thế rất nhiều? Dám thay đổi, dám đương đầu với thất bại, định kiến, ta sẽ
tiến bộ theo xu hướng phát triển của thời đại, phát triển nhận thức và hành động,
tạo cho mình dấu ấn riêng và nắm lấy cơ hội thể hiện tiềm năng của bản thân,
đồng thời cũng có góc nhìn khác, suy nghĩ khác và những trải nghiệm mới trong
cuộc sống. Hãy nhìn vào những cường quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ,…họ đã trở thành
hùng mạnh là bởi họ luôn luôn thay đổi, luôn luôn hướng đến cải cách tiến bộ và
tôn vinh sự khác biệt cũng như tố chất riêng ở cá nhân. Nhìn vào những gì họ gặt
hái được, bạn có tự hỏi chúng ta đã làm được chưa? Nếu không phải bây giờ thì
đến bao giờ mới là lúc đây? Chúng ta đã chờ đợi và phải chờ đợi quá lâu rồi.
Cuộc đời này đâu đủ dài rộng để người ta cứ lần lữa mãi như vậy? Lịch sử đã
sinh ra những con người kiệt xuất với cái chí đau đáu muốn canh tân đất nước,
nhưng bởi sinh bất phùng thời nên Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn
Trường Tộ,… cùng bao chí sĩ yêu nước đã phải hi sinh vì những khát vọng, hồi

bão cao đẹp của mình.
Thời đại chúng ta khơng cịn như vậy nữa, nhưng tại sao người ta vẫn cứ
phải đấu tranh? Người ta còn phải chờ đến bao giờ nữa để trổ hết tinh hoa tài
năng của mình? Người ta cịn phải chờ đến bao giờ nữa đây? Tôi đã từng đọc
một cuốn tải văn có đoạn viết rằng: Bạn chỉ nên mơ ước những điều bạn khơng
thể hoặc khó có khả năng thực hiện, cịn đối với những điều khác, làm được hay
khơng chỉ là tùy thuộc vào mong muốn và hành động của bạn mà thơi. Vậy thay
đổi có nên là mơ ước?
(Trích Văn học và tuổi trẻ)
Câu 1. Xác định phương thức chính biểu đạt của văn bản?.
Câu 2. Theo tác giả, “dám thay đổi, dám đương đầu với thất bại, định kiến”,
chúng ta sẽ được những gì?
Câu 3. “Bạn chỉ nên mơ ước những điều bạn khơng thể hoặc khó có khả năng
thực hiện, còn đối với những điều khác, làm được hay không chỉ là tùy thuộc vào
mong muốn và hành động của bạn mà thơi”.
Anh/chị có đồng tình với ý kiến trên khơng? Vì sao?
Câu 4. Anh/chị rút ra được bài học gì từ văn bản?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1: (2.0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/chi ḥ ãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thay đổi trong cuộc sống.
Câu 2: (5.0 điểm)
[…] Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”:
- Ừ, thơi thì các con đã phải dun phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước
từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra
may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có
ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
[…] Bữa cơm ngày đói trơng thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một

lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất
ngon lành. Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói
tồn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này:


- Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đơi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia
làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay
đàn gà cho mà xem […]
( Trích Vợ nhặt – Kim Lân)
Cảm nhận của anh/ chị về khát vọng sống của nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn
trích trên.
ĐỀ 17:
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích:
Họ gánh về cho tơi mùa ổi mùa xồi mùa mận
Mùa sen mùa cốm trên vai
Cả nắng ban mai cả hồng hơn tím
Ngày đi rưng rưng đơi dép lê
Tơi mua được mùa ổi mùa sen bằng đồng bạc lẻ
Đồng bạc lặng lẽ
Thấm đẫm sương đêm thấm đẫm mồ hôi
Sau lưng họ đồng làng mồ cơi hun hút gió
Vịng tay ngỏ
Lời ru con căng sữa
Họ gánh về cổng tôi bao mùa trinh nguyên, những mùa
tôi sẽ quên nếu thiếu họ
Hương nhãn Hưng Yên vừa vào mùa, sen Tây Hồ vừa nở,
cốm làng Vòng vừa trăn trở những hạt xanh
Họ gánh tặng tơi ngọn gió mát lành đồng q
Nơi mẹ và con và chồng họ đứng chờ […]

Những ngôi sao của tôi
Gánh trên vai mình hẩm hiu số phận
Vơ danh giữa đời thường
Dẫu đơi lúc đặt vào mắt tơi bao tia nhìn mang hình dấu hỏi.
(Trích Những ngơi sao mang hình quang gánh, Nguyễn Phan Quế Mai,
www.thivien.vn)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích trên.
Câu 2. Hình ảnh quê hương hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ qua những từ
ngữ nào?
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu thơ: “Họ gánh tặng tôi ngọn gió mát
lành đồng quê”.
Câu 4. Khổ thơ cuối gợi cho anh/chị suy nghĩ, trăn trở gì về thân phận của
những người gánh hàng rong?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)


Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về sự cần thiết của lòng trắc ẩn trong
cuộc sống hiện đại.
Câu 2. (5,0 điểm)
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi
say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị
đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày
trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn
chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, cứ
ngày đêm thổi sáo đi theo Mị .
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết. Mị
vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước

ra đường. Mị từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết.
Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng.
Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những
đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu
người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, khơng có lịng với
nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn
cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra.
Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngồi đường.
Anh ném pao ,em khơng bắt
Em khơng u, quả pao rơi rồi...
(Trích Vợ chồng A Phủ- Tơ Hồi, Ngữ văn 12, tập hai, Nxb GD,2008, tr 7,8)
Anh/chị hãy phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong
đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn
nhân vật của nhà văn Tơ Hồi.
ĐỀ 18:
I.ĐỌC HIỂU (3,0 điểm). Đọc văn bản dưới đây:
Tuổi trẻ là đặc ân vơ giá của tạo hóa ban cho bạn. Vơ nghĩa của đời người
là để tuổi xuân trôi qua trong trong vô vọng. (…) Người ta bảo, thời gian là vàng
bạc, nhưng sử dụng đúng thời gian của tuổi trẻ là bảo bối của thành công. Tài
năng thiên bẩm chỉ là điểm khởi đầu, thành công của đời người là mồ hơi, nước
mắt và thậm chí là cuộc sống. Nếu chỉ chăm chăm và tán dương tài năng thiên
bẩm thì chẳng khác nào chim trời chỉ vỗ cánh mà chẳng bao giờ bay được lên
cao.(…) Đừng ngồi quây quần thường xun bên góc bếp, và cũng đừng thu mình
một góc trong nhà trọ nhỏ nhoi, hãy ra đi để nhìn, để hiểu; đừng đắm đuối trên
màn hình máy tính, trên “smartphone” bằng những câu chuyện phiếm giết thời
gian, mà hãy dùng nó như một cơng cụ nối liền thế giới bên ngồi.
Các bạn hãy xây dựng tầm nhìn rộng mở (…), biến tri thức của loài người
của thời đại thành tri thức bản thân và cộng đồng, vận dụng vào hoạt động thực
tiễn của mình. Trước mắt là tích lũy tri thức khi còn ngồi trên ghế nhà trường để
mai ngày khởi nghiệp; tự mình xây dựng các chuẩn mực cho bản thân; nhận diện

cái đúng, cái sai, cái đáng làm và cái không nên làm. Trường đời là trường học
vĩ đại nhất, nhưng để thành cơng bạn cần có nền tảng về mọi mặt, thiếu nó khơng
chỉ chơng chênh mà có khi vấp ngã.


Hoạt động xã hội, đây là dịng sơng cuộc đời. Phù sa sẽ về với bạn để mùa
màng, cây lá tốt tươi. Đắm mình trong thực tiễn sẽ cho bạn tình u thương, cảm
thơng và trân trọng con người, để mình cố gắng sống tốt hơn, trách nhiệm hơn.
Đây cũng là cách để bạn tận hiến những gì cao đẹp cho đời.
(Trích Bài phát biểu của PGS.TS Nguyễn Văn Minh- Hiệu trưởng trường
ĐHSP Hà Nội nhân kỉ niệm ngày 26/03/2016).
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?
Câu 2. Tác giả đã quan niệm như thế nào về tài năng thiên bẩm?
Câu 3. Anh/chị hiểu như thế nào về câu “Tài năng thiên bẩm chỉ là điểm khởi
đầu, thành công của đời người là mồ hơi, nước mắt và thậm chí là cuộc sống”.
Câu 4. Trong trích đoạn bài phát biểu, tác giả đưa ra nhiều lời khuyên, anh/chị
tâm đắc nhất là lời khuyên nào? Vì sao?
II.
LÀM VĂN (7,0 điểm).
Câu 1. (2,0 điểm).
Từ nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những điều bản thân cần làm để khơng
phí hồi tuổi trẻ, thời gian?
Câu 2 (5,0 điểm)
Tơi có bay tạt ngang qua sơng Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho
mình có góc nhìn một cách nhìn về con sơng Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Từ
trên tàu bay mà nhìn xuống sơng Đà khơng ai trong tàu bay nghĩ rằng dây thừng
ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sống hàng năm và đời đời
kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội

vạ với người lái đị sơng Đà. Cũng khơng ai nghĩ rằng đó là con sơng của câu
đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thuỷ Tinh “Núi cao sơng hãy cịn dài. Năm năm
báo ốn đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta quen đọc bản đồ sơng núi, thì
mỗi lúc ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng
thấy quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới
chân mình. Con sơng Đà tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn. Tơi đã nhìn say sưa làn mây mùa
xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dịng
sơng Đà. Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ nước sơng Đà khơng xanh màu
xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô. Mùa thu nước sơng Đà lừ lừ chín đỏ như
da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất
mãn bực bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tơi thấy dịng sơng Đà lại đen như
thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái
tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ”.
( Trích Người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tn, Ngữ văn 12, tập I, NXB Giáo
dụcViệt Nam năm 2010)
Phân tích hình tượng sơng Đà trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về phong
cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
ĐỀ 19:
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm).
Đọc đoạn trích sau:
Bạn khơng cần phải trở thành người số một


Vì bạn vốn đã là một người đặc biệt duy nhất
Tơi ngắm nhìn vơ vàn những bơng hoa xếp trước cửa hàng
Mỗi người đều có một lồi hoa mình thích
Nhưng bơng hoa nào cũng rất đẹp
Khơng có bơng nào tranh giành ngơi số một

Chúng chỉ đứng kiêu hãnh trong bình
Vậy tại sao con người chúng ta lại phải so bì với nhau như thế?
Tại sao chúng ta muốn trở thành người số một, khi tất cả chúng ta
đều khác biệt?
Đúng vậy, mỗi chúng ta đều là bông hoa duy nhất trên thế giới này
Chúng ta đều có hạt giống của riêng mình
Và chỉ cần cố hết sức để hạt giống ấy nở hoa.
(Lời bài hát Bông hoa duy nhất trên thế giới, Noriyuki
Makihara)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1: Theo tác giả, tại sao “Bạn không cần phải trở thành người số một” ?
Câu 2: Hãy chỉ ra biện pháp tu từ được thể hiện trong các câu sau:
Khơng có bơng nào tranh giành ngôi số một
Chúng chỉ đứng kiêu hãnh trong bình
Câu 3: Từ “hạt giống” trong câu “Chúng ta đều có hạt giống của riêng mình. Và
chỉ cần cố hết sức để hạt giống ấy nở hoa” có nghĩa là gì?
Câu 4: Anh/chị hãy nhận xét về thơng điệp được tác giả thể hiện trong đoạn trích?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm).
Câu 1 (2.0 điểm).
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về những việc cần làm để phát huy giá trị của
bản thân.
Câu 2.(5.0 điểm)
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.
Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải ln
ln được tự do và bình đẳng về quyền lợi”
Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được.
(Trích Tun nơn độc lập, Hồ Chí Minh)


Phân tích cơ sở pháp lí của bản tun ngơn qua đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét về phong cách văn chính luận của Hồ Chí Minh qua bản “Tuyên ngơn độc
lập”.
ĐỀ 20:
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Tơi từng nói “Tơi tin là mọi thứ sẽ thay đổi”. Sau đó tơi học được rằng,
mọi thứ sẽ thay đổi khi chính tơi thay đổi.
Đừng nói: “Nếu đã có thể thì tơi đã làm rồi,” mà hãy nói: “Nếu có thể thì
tơi sẽ làm.” Đơi khi, việc bạn chọn cái nào không quan trọng. Quan trọng là bạn
phải chọn! Bạn không thể tiến lên nếu không chịu đưa ra quyết định.
Chúng ta thường thay đổi bản thân vì một trong hai lý do: niềm cảm hứng
hoặc nỗi tuyệt vọng. Nếu không thích hiện tại thì hãy thay đổi nó! Bạn đâu phải
một cái cây. Một trong những cách tốt nhất để bắt đầu thay đổi cuộc đời là làm
bất cứ điều gì xuất hiện ở danh sách “Tơi nên làm” trong tâm trí bạn. Mọi dạng
thức sống đều nỗ lực vươn tới cực hạn ngoại trừ con người. Một cái cây sẽ mọc
cao đến chừng nào? Cao đến hết mức có thể. Trong khi đó, con người lại được
trao đặc quyền chọn lựa. Bạn có thể chọn là tất cả hoặc ít hơn. Vậy sao không
nỗ lực đến cực hạn trước các thách thức và xem mình có thể làm được những gì.
Đơi khi q trình ra quyết định giống như một cuộc chiến nội tâm. Đích
đến của bạn khơng thể thay đổi sau một đêm, nhưng hướng đi đến đó thì có thể
đấy! Sự thiếu quyết đốn là kẻ đánh cắp những cơ hội".
(Thay đổi/lựa chọn/quyết định, Jim Rohn, Triết lí cuộc đời, NXB Lao động,

2016, tr. 25)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Theo tác giả, đâu là điều kiện giúp con người tiến lên ?
Câu 2. Theo anh / chị, vì sao "Đơi khi q trình ra quyết định giống như một cuộc
chiến nội tâm" ?
Câu 3. Anh / chị hiểu như thế nào về câu nói: "Sự thiếu quyết đoán là kẻ đánh
cắp những cơ hội" ?
Câu 4.Anh / chị có đồng tình với quan niệm của tác giả khi ông cho rằng: con
người thường thay đổi bản thân khi có niềm cảm hứng hoặc nỗi tuyệt vọng khơng
? Lí giải vì sao ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phầnĐọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng
200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh / chị về vấn đề mọi thứ chỉ thay đổi khi chính
bạn thay đổi.
Câu 2 (5,0 điểm)
Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người
êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hơm nay
hắn vẫn cịn ngỡ ngàng như khơng phải.
Hắn chắp hai tay sau lưng lững thững bước ra sân. Ánh nắng buổi sáng
mùa hè sáng lố xói vào hai con mắt còn cay sè của hắn. Hắn chớp chớp liên hồi
mấy cái, và bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới
mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn
gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc
nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi
đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.


×