ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
TRƢỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ ĐỒNG THÁP
GIÁO TRÌNH
MƠ ĐUN: KTN – PTB VẬT NI KHÁC
NGÀNH, NGHỀ: THÚ Y
TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP/CAO ĐẲNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 257/QĐ-TCĐNĐT-ĐT ngày 13 tháng 07 năm 2017
của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Nghề Đồng Tháp)
Đồng Tháp, năm 2017
LỜI GIỚI THIỆU
Ở nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, nhằm đưa Việt Nam
trở thành nước văn minh hiện đại.
Trong sự nghiệp phát triển to lớn đó, cơng tác đào tạo nhân lực ln giữ vai trị quan
trọng. Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tại
Đại Hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: ”Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp hóa, cơng nghiêp hóa, là điều kiện để phát triển
nhân lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”. Trên cơ sở chương trình khung của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội đã ban
hành và những kinh nghiệm đã rút ra từ thực tế đào tạo, Trường Cao Đẳng Nghề Đồng
Tháp tổ chức biên soạn chương trình, giáo trình một cách khoa học, hệ thống và cập nhật
những kiến thức thực tiễn phù hợp với đối tượng học sinh trung cấp nghề.
Bộ giáo trình này là tài liệu giảng dạy và học tập các trung cấp nghề, đồng thời là tài
liệu tham khảo hữu ích cho các bạn đọc quan tâm đến nghề chăn nuôi.
Việc tổ chức biên soạn chương trình, giáo trình là một trong những hoạt động thiết
thực.
Đây là lần đầu tiên biên soạn chương trình, giáo trình. Dù đã hết sức cố gắng nhưng
không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Chúng tơi mong những ý kiến đóng góp của
các bạn đọc để từng bước hồn thiện những giáo trình.
Biên soạn
1
CHƢƠNG TRÌNH MƠ ĐUN
KỸ THUẬT NI VÀ PHỊNG TRỊ BỆNH CHO CÚT
Mã số của mô-đun:
MĐ - 35
Thời gian của mô-đun: 40 giờ (Lý thuyết:18 giờ; Thực hành: 22 giờ)
MỤC TIÊU MƠ ĐUN:
Sau khi học xong mơ đun này, người học có khả năng
- Trình bày được các kiến thức về đặc điểm sinh học giống; chuồng trại; dinh dưỡng và
thức ăn; chăm sóc ni dưỡng; phịng và trị bệnh cho cút
- Thực hiện được các công việc xây dựng chuồng trại; chăm sóc ni dưỡng; phịng và trị
bệnh cho cút
- Tn thủ quy trình chăm sóc, ni dưỡng hình thành đạo đức, tác phong cơng nghiệp.
NỘI DUNG MƠ-ĐUN:
. Nội dung tổng quát và phân phối thời gian :
Thời gian
STT
1
2
Tên các bài trong mô đun
Tổng
Lý
số
thuyết
Bài 1: Kỹ thuật nuôi chim cút
Bài 2: Phòng và trị một số bệnh
thƣờng gặp ở chim cút
Cộng
2
Thực
hành,
bài tập
Kiểm
tra*
(LT hoặc
TH)
28
13
14
1
12
5
6
1
40
18
20
2
Bài 1: Kỹ thuật nuôi chim cút
Mục tiêu của bài
Học xong bài này người học có khả năng:
- Trình bày được đặc điểm sinh học cơ bản ở cút nuôi
- Trình bày được yêu cầu chuồng trại, dụng cụ trong chăn ni cút
- Trình bày được nhu cầu dinh dưỡng trong chăn nuôi cút
- Xây dựng chuồng trại, phối trộn khẩu phần ăn, chăm sóc ni dưỡng.
2.1 Đặc điểm sinh học cơ bản
2.1.1 Giống, nguồn gốc
Chim cút hay chim cun cút là tên chỉ một lồi vật ni đã được con người thuần hóa
từ tự nhiên có nguồn gốc Châu Á. Chúng sống thích hợp ở những vùng khí hậu ấm áp và
hơi nóng. Chim cút có nhiều giống khác nhau: chuyên trứng, chuyên thịt, để săn bắn, để
làm cảnh; v.v…
Sự thuần hóa chim cút của con người là một điều kỳ diệu, từ một loài chim nhút
nhát, sống chui lủi, cực kỳ hoang dã, phải trên 6 tháng tuổi mới thành thục sinh dục và chỉ
đẻ vài chục trứng mỗi năm ; sau khi được thuần hóa và chọn lọc đã trở thành một loài
chim chỉ 5-6 tuần tuổi đã đẻ và đẻ được đến 400 trứng/năm. Với những ưu điểm như vậy,
chim cút được nuôi ở nhiều vùng miền trên thế giới.
Trong q trình tiến hóa, 2 chi trước đã biến thành 2 cánh; thân có lơng vũ che phủ;
phổi có mang ống khí và túi khí, hơ hấp kép; tim 4 ngăn; hàm có vỏ bọc sừng; thân nhiệt
cao và ổn định; đẻ trứng to có vỏ đá vơi; trứng được nở nhờ q trình ấp của bố mẹ.
Da của chim bao phủ tồn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trao đổi
nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở chim non. Da gồm 2 phần chính, lớp biểu bì
với lớp tế bào hình trụ cùng với lớp mơ liên kết mỏng và sợi collagen tạo thành lớp da
ngoài bền chắc, nghèo mạch máu và hầu như khơng có tuyến ngoại tiết. Dưới lớp biểu bì
là lớp mơ liên kết mỏng gần giống như mơ mỡ, có chứa nhiều mạch máu và dây thần kinh.
3
Đặc điểm lớn nhất của da chim là mỏng, nghèo các tuyến dưới da, khơng có tuyến mồ hơi.
Người ta cho rằng, cùng với việc phát triển của lớp da, khả năng điều chỉnh nhiệt của nó
dần dần thay đổi, cho phép cơ thể chim thích nghi với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường
xung quanh.
Lông phân bố không đều trên bề mặt cơ thể chim non cũng như trưởng thành,
chiếm tỷ lệ 4-9 % khối lượng cơ thể và chứa 82% protein.
Thay lông là sự rụng lông cũ và mọc lại lông mới, là thay đổi thường kỳ của lơng và
thành phần cấu trúc biểu bì của da. Đối với chim hoang dã, sự thay lơng có tính mùa vụ,
thường là bắt đầu vào mùa thu, khi di chuyển chỗ ở hoặc lúc bắt đầu mùa đông giá lạnh.
Vì vậy thay lơng là sự thích nghi sinh học của chim với việc thay đổi điều kiện sống.
Chim đã được thuần hố đã nhận được tính di truyền này từ tổ tiên của chúng.
Người ta phân biệt thay lông của chim non (thay lông non) và thay lông thường kỳ
(hàng năm) của chim trưởng thành, trùng với mùa nhất định. Chim có thể thay tồn bộ
hay một phần của bộ lông. Khi thay lông, trong cơ thể chim xảy ra những thay đổi về hoạt
động của hệ thần kinh về cơ quan nội tiết, đồng thời diễn ra quá trình tăng cường trao đổi
chất, chủ yếu là trao đổi protein và muối khoáng, cơ thể rất mất cân bằng, giảm sức đề
kháng với bệnh tật, dễ ốm, chim trưởng thành giảm nhanh hoặc ngừng đẻ trứng.
Q trình thay lơng liên quan chặt chẽ với sức đẻ trứng của chim, ở những chim
mái thay lông sớm, sức đẻ trứng trong năm sẽ thấp, cịn ở những con thay lơng muộn sẽ có
sức đẻ trứng cao hơn. Rút ngắn chu kỳ thay lông của chim sinh sản sẽ làm tăng sức đẻ của
chúng, ở những chim mái thay lông nhanh, sản lượng trứng được hồi phục trong thời gian
ngắn, đây là một trong những tính trạng để chọn giống.
Những thay đổi mạnh của thức ăn và điều kiện nuôi dưỡng, các tác nhân strees
(nhiệt độ, độ ẩm cao, thấp; bệnh tật...) đều có thể gây nên hiện tượng thay lơng trước thời
hạn.
Thay lông của chim trưởng thành được nhắc lại mỗi năm một lần trong đời và
thường diễn ra vào một mùa cố định trong năm, khi thời gian chiếu sáng thay đổi: từ ngày
4
dài chuyển sang ngày ngắn, thường gặp vào cuối mùa hè và mùa thu, thỉnh thoảng vào
mùa đơng.
Q trình thay lơng có thể khác nhau. Việc thay lơng chậm thường gặp ở chim đẻ
ni lồng trong điều kiện tiểu khí hậu được điều chỉnh ổn định. Lông của chúng rụng dần
dần, việc đẻ trứng không bị gián đoạn. Khi thay lơng nhanh, chim có thể thay một lúc vài
chiếc lơng cánh và xuất hiện những khoảng da trần trên cơ thể.
Cơ chế thay lông của chim chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự xuất hiện của mùa
thay lông liên quan chủ yếu tới độ dài ngày chiếu sáng. Ánh sáng là tác nhân mạnh kích
thích cơ quan thụ cảm thị giác và tác dụng qua vùng dưới đồi thị lên tuyến yên. Tuyến yên
tăng cường hoặc giảm bớt sự hình thành các hocmon hướng sinh dục qua máu, tác động
lên hoạt động của các tuyến sinh dục, từ đó tác động lên sự thay lông. Việc tăng cường
chức năng của tuyến giáp trạng hoặc tiêm hocmon của nó vào cơ thể chim sẽ làm cho cơ
thể bắt đầu thay lông. Nếu cấy tuyến giáp trạng vào cơ thể, sau một thời gian ngắn, bắt
đầu thay lông mạnh và nhanh, chim rụng hết lông chỉ trong vài ngày.
Vào giai đoạn thay lông của chim, khi mà việc thay lông diễn ra mạnh nhất, hoạt
tính chức năng của tuyến giáp trạng và tuyến cận giáp tăng lên thì khối lượng của chim
cũng tăng lên một ít. Q trình mọc và hình thành lông ở chim liên quan chặt chẽ với việc
tăng cường độ trao đổi chất và năng lượng trong cơ thể, tăng tính hấp thu và tiêu hố thức
ăn.
Chim cút có thị giác rất phát triển nên có khả năng nhận biết và chọn lọc thức ăn
cao, nhưng vị giác và khứu giác lại kém phát triển nên khó nhận biết mùi vị thức ăn. Vì
vậy, cút rất dễ bị ngộ độc thức ăn do ăn phải thức ăn ôi, mốc. Từ tập tính này chúng ta cần
chú ý khi chọn lựa nguyên liệu thức ăn, bảo quản thức ăn làm sao bảo đảm các yêu cầu kỹ
thuật, bảo đảm chất lượng, không bị ẩm mốc, ôi thiu.
Chim cút mặc dầu đã được thuần hóa ni dưỡng từ lâu nhưng cịn mang nhiều đặc
tính hoang dã. Đáng chú ý là vẫn sợ tiếng động, tiếng ồn, thường bay lên va vào thành
lồng, chết. Từ đặc điểm này cần chú ý ngay từ khâu làm chuồng trại: chọn những vật liệu
5
làm nóc chuồng mềm, co dãn để nếu chim bay nhảy lên va đầu vào thì cũng khơng bị chấn
thương, ít nguy hiểm đến tính mạng. Mặt khác trong quá trình chăm sóc cũng cần chú ý
thao tác nhẹ nhàng, chậm rãi, theo thói quen, tránh thay đổi đột ngột, động tác bất thình
lình để chim cút quen với những động tác, màu sắc, âm thanh, hình dạng… mà khơng bị
hoảng sợ.
Giống chim cút:
Cút Anh:
Nhập vào nước ta từ lâu, thân to trung bình(khoảng 220 – 240g), lơng màu
nâu, trứng nâu nhạt với những đốm to, đen sậm.
Cút Pharaoh:
Nhỏ con (trọng lượng trung bình 180 – 200 g), trứng có vỏ trắng với những
đốm to, đen nhạt. Cút Pharaoh còn mang nặng tính hoang dã nên ít thích hợp việc
ni trong chuồng. Do đó người ta chỉ thường ni các con lai của giống này.
Cút Pháp:
Nhập vào nuớc ta khoảng 1980. Cút Pháp to con(trọng lượng trung bình 250
– 300 g), màu lơng trắng hơn cút Pharaoh. Trứng có vỏ màu trắng với các đốm đen
nhạt nhỏ lấm tấm như đầu kim.
Cút Nhật:
Chim cút giống trứng được nuôi rộng rãi là giống chim cút Nhật Bản, có đặc
điểm dễ ni, sức kháng bệnh cao, đẻ nhiều trứng và thời gian khai thác dài, nhiều
con đẻ trên 300 quả /năm.
Ở nước ta, từ những năm 1971 – 1972 ở miền Bắc đã nhập cút vào ni ở
Viện Chăn ni, cịn ở miền Nam cút cũng đã được nhập vào từ sớm hơn,
như vậy nước ta từ lâu đã nhập các giống cút từ Anh, Pháp, Nhật và đã nuôi trong thời
gian dài. Đề phân biệt các giống cút người ta thường nhìn vào màu lơng, tầm vóc và có
màu vỏ trứng đặc trưng để nhận biết.
Nhưng hiện nay ở các đàn cút đẻ thường nhận được trứng có nhiều màu pha trộn,
6
đốm đen to, nhỏ không như nhau chứng tỏ cút đã bị pha tạp ở các mức độ khác nhau.
Như vậy, hiện nay các giống cút thuần đã không được duy trì và từ lâu chúng ta
cũng khơng có nhập các giống thuần về nên việc phân biệt giống cút nuôi và chọn giống
cút trong thực tế đang gặp những khó khăn, muốn có giống cút tốt để ni phải thực hiện
các động tác sau:
+ Xem xét lịch sử các trại ni đã hình thành lâu hay mau, thành tích về năng suất
thịt, trứng có cao và ổn định khơng hay thất thường. Có chọn lọc dịng trống và dịng mái
riêng để tránh đồng huyết khơng…
+ Tình trạng an tồn dịch bệnh, có xảy ra dịch bệnh nghiêm trọng hay khơng, có các
bệnh mãn tính ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất đời con như bệnh phó thương hàn
hay không
+ Khả năng phát triển của cơ sở để xác định uy tín của cơ sở mà chọn lựa nơi mua
giống.
Hình 1: Cút ni
7
Hình 2: Trứng cút
Ở nước ta đã nhập các giống cút từ Anh, Pháp, Nhật và có màu quả trứng đặc trưng
để nhận biết. Nhưng hiện nay ở các đàn cút đẻ nhận được nhiều màu vỏ trứng pha trộn,
đốm đen to, nhỏ không như nhau chứng tỏ cút đã bị pha tạp ở các múc độ khác nhau.
2.1.2 Đặc điểm sinh trƣởng, sinh sản
Ngày nay, chim cút nuôi nhốt, cho ăn đầy đủ, chăm sóc tốt cho sản lượng trứng 300
– 360 trứng/năm, có con đến 400 trứng/năm. Tỷ lệ đẻ trung bình đến 80-90%, khối lượng
trứng trung bình 10 - 15g/quả. Tuổi bắt đầu đẻ trứng khoảng 40 ngày, thời gian sử dụng
đẻ trứng 14- 18 tháng.
Nuôi cút đẻ khơng địi hỏi nhiều diện tích chuồng ni, thức ăn chi phí khơng nhiều
nhưng hiệu quả chăn ni cao. Mỗi ngày cho ăn 20-25gr thức ăn và cút có thể cho một
quả trứng nặng 10-11 gam cho thấy cút là lồi gia cầm có năng suất tạo trứng cao. Tuy
nhiên năng suất trứng còn phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện mơi trường, thức ăn, kỹ
thuật chăm sóc phải phù hợp với những đặc điểm sinh học, tập tính của chúng.
Tất cả những đặc điểm nêu trên, người chăn nuôi cần nắm được và biết vận dụng để
phát huy tất cả những ưu điểm, hạn chế các nhược điểm, mang lại hiệu quả cao trong chăn
nuôi chim cút.
8
2.1.3 Quan sát tập tính, chọn giống
- Chim cút có thị giác rất phát triển nên có khả năng nhận biết và lựa chọn thức ăn cao
nhưng vị giác và khứu giác kém phát triển nên khó nhận biết mùi vị thức ăn. Vì vậy cút rất
dễ bị ngộ độc thức ăn do thức ăn ôi, mốc.
- Chim cút mặc dù đã được thuần hóa ni dưỡng từ lâu nhưng vẫn mang nhiều đặc tính
hoang dã, dáng chú ý là vẫn sợ tiếng động, tiếng ồn thường bay lên va vào thành lồng và
chết.
Phân biệt cút trống, cút mái, cách chọn cút con khỏe mạnh để nuôi.
Cút nuôi hiện nay phổ biến là loại cút trên lưng, đầu màu vàng nghệ; có các vết sọc
đen chạy dọc trên lưng và cánh. Lơng bụng, lơng cổ dưới ức có màu vàng nhạt. Đơi khi có
con màu sắc lạ như hung, đen, trắng…
Chân xám hồng có chấm đen
Mỏ xám đá, mắt đen.
Chim trưởng thành lơng ống phủ kín thân, lơng lưng, đầu, cổ, đi có màu xám lẫn
đen.
Chim trống lơng mặt cổ dưới diều và ngực có màu vàng nâu lẫn ít trắng. Chim mái
màu lơng mặt cổ dưới xám lẫn ít đen, lông bụng trắng xám, mỏ đen xám, chân trắng xám
và hơi hồng, mắt đen. Chim cút trống trưởng thành hậu mơn có một u lồi, chim mái khơng
có. Chim cút trống biết gáy cịn chim mái khơng biết gáy. Chim cút trống bé hơn chim
mái (chim mái có khối lượng 197 gram, chim đực 155 gram).
Chọn cút con:
Cút con mới nở nặng khoảng 6 – 8 gram, lông màu vàng với các vằn đen; Khi chim
cút mới nở ra, chọn những con nở đúng ngày, loại bỏ những con khoèo chân, hở rốn, nở
muộn, yếu ớt. Chọn những con nhanh nhẹn, bóng mượt như bơng, khơng dị tật.
9
Nếu phải chuyển đi xa thì đựng trong thùng giấy cứng có lỗ thơng hơi, nhưng
khơng được để mưa ướt và gió lùa trực tiếp vào cút con .
Phân biệt Cút trống và Cút mái:
Người ta có thể phân biệt cút trống và cút mái sau 2 tuần tuổi khi các khác
biệt về giới tính bắt đầu biểu lộ.
Những đặc điểm để phân biệt cút trống, mái như sau: (kể từ tuần lễ thứ 3)
- Cút trống: tồn bộ lơng ở phía dưới cổ và ức có màu đỏ verni.
- Cút mái: lơng ở phía dưới cổ và ức có lốm đốm đen như hạt cườm.
Cách chọn giống Cút
Cả cút trống lẫn cút mái đều phải khỏe mạnh, lanh lẹ, háu ăn. Nếu mục đích
chăn ni cút để khai thác trứng thì chỉ cần ni cút mái. Cút trống chỉ nuôi để bán
thịt.
Trường hợp nuôi cút để sản xuất con giống thì cần cút trống. Tỉ lệ thích hợp
là 1 con trống phối cho 2,5 – 3 con mái. Thả theo tỉ lệ này sẽ đạt khoảng 90%
trứng là trứng có cồ (thụ tinh) và tỉ lệ trứng nở sẽ đạt khoảng 70% đạt yêu cầu về
kỹ thuật. Khi cút trống được 3 tháng tuổi và cút mái được trên 3 tháng tuổi thì mới
nên cho giao phối để lấy trứng ấp sản xuất cút giống.
Cút hậu bị chọn làm giống tốt khi đạt được các tiêu chuẩn sau đây:
Cút mái:
Thân hình êm, mịn. Vóc dáng trung bình. Khoảng cách giữa xương sống và
xương ức rộng. Xương chậu nở rất rộng và rất mềm. Hậu môn đỏ tươi và mở rộng.
Cút trống:
Thân hình gọn, nhỏ nhăn hơn cút mái. Đầu nhỏ, cổ ngắn, mỏ dài. Bầu tinh no
tròn, đỏ sẫm, co bóp thường xuyên. Khi bóp nhẹ bầu tinh tiết ra nhiều tinh dịch
trắng như bọt xà phòng.
10
2.2. Chuồng trại, dụng cụ và thiết bị trong chăn nuôi cút
Hiện nay nghề nuôi chim cút rất thịnh hành, nhưng tài liệu tham khảo rất khan hiếm
và đây là một mách nhỏ cho những ai có nguyện vọng ni chim cút sinh sản.
2.2.1. Chuồng trại
2.2.1.1. Các yêu cầu chuồng ni
Vị trí
Chuồng trại ni phải cách xa khu dân cư, có nguồn nước sạch, mát mẻ về mùa
hè và ấm về mùa đông, nên xây chuồng nuôi theo hướng đông, đơng – nam.
Kích thước: chiều rộng < 8m, chiều cao > 2.5m
Dùng lưới sắt để ngăn các vách chuồng giữ cho chim và chuột không lọt vào
chuồng, nền chuồng bằng ximăng, hơi dốc để dễ dàng vệ sinh. Nếu có nhiều dãy
chuồng, nên bố trí mỗi chuồng cách nhau 10 m để đảm bảo an toàn dịch bệnh.
Mát mẻ
Nhiệt độ thích hợp cho cút đẻ là 18 oC – 25o C. Nóng quá hay lạnh quá đều
làm cho cút đẻ giảm. Nhiệt độ chênh lệch giữa ngày và đêm càng lớn thì sẽ càng
gây “Stress”, kéo theo sự gia tăng mức độ điều chỉnh ảnh hưởng đến sinh lý. C ó
thể khắc phục bằng cách dùng vật liệu có độ cách nhiệt và thơng gió một cách hợp
lý.
Thống khí
Nhu cầu về lưu lượng khơng khí để cung cấp oxy cho cút rất lớn. Nhịp thở
bình thường của cút lên đến 200 nhịp/phút.
Hiện tượng hơ hấp của cút và các lồi gia cầm khác là hiện tượng thở kép
nên chuồng nuôi cút cần cấu tạo cho có độ thống mát cao, khơng khí sạch sẽ vào
chuồng liên tục để thay đổi khơng khí cho cút hơ hấp tốt nhất. Như vậy sẽ đáp ứng
11
được nhu cầu oxy cho các phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể, cần thiết cho sự
duy trì thân nhiệt và tạo trứng.
Yên tĩnh
Nguồn gốc của chim cút hiện nay là loài cút rừng sống hoang dã trong các
lùm bụi nên bản tính cút rất nhút nhát. Dù đã được thuần hóa nhưng cút ni vẫn
cịn giữ bản tính của tổ tiên, có thính giác và thị giác rất phát triển nên dễ bị kích
động bởi các xáo trộn của mơi trường bên ngồi.
Do đó để cút đẻ tốt cần giữ môi trường yên tĩnh và quen thuộc càng nhiều
càng tốt.
Hợp vệ sinh
Cùng với sự phát triển của đàn cút thì mật độ phát triển của mầm bệnh tăng
cao. Để cắt đứt mối nguy hiểm ấy cần tạo nhiều điều kiện thuận lợi để cút phát
triển, chuồng trại phải sạch sẽ và đảm bảo vệ sinh.
Tránh mèo, chuột
Mèo và chuột là kẻ thù của cút, vì cút là mồi ngon của chúng. Vì vậy cần có
biện pháp rào chắn bảo vệ cẩn thận, chắc chắn, tùy điều kiện cụ thể mà đề phòng
sự phá hoại gây ra của mèo và chuột.
2.2.1.2 Thiết kế xây dựng
Lồng úm nuôi cút con:
Quy cách 1,5m x 1,0m x 0,5m, cách mặt đất 0,5m.
Xung quanh và đáy làm bằng lưới ô vuông 1cm.
Trên có nắp đậy và bóng đèn, chụp sưởi.
Những ngày đầu mới úm, đáy lồng và xung quanh phải lót giấy, che kín, n tĩnh và
khơng bị lọt chân.
12
Hình 1.3.1: Lồng úm cút con
Quy cách qy ni nền:
Đường kính từ 1 - 1,5m, cao 0,4m, trên có bóng đèn và chụp sưởi, dưới nền trải trấu
hoặc vỏ bào dày từ 10 – 15 cm; nuôi được 200 - 250 cút 1 tuần, 150 - 200 cút 2 tuần, 100
- 150 cút 3 tuần,...
Lồng nuôi cút đẻ kiểu cũ:
Quy cách lồng 1.0 x 0,5 x 0,2m, nuôi được 20 - 25 cút mái.
Nóc lồng làm bằng vật liệu mềm vì cút hay nhảy dựng đứng làm bể đầu. Đáy lồng
dốc 2 -3% để trứng lăn ra, làm bằng lưới ô vuông 1 - 1,5cm, để cút đi đứng thoải mái và
phân lọt xuống vỉ hứng phân.
Vách chuồng có các song dọc cách nhau 2,8 cm đủ kẻ hở cho cút lấy thức ăn, nước
uống từ bên ngoài thành chuồng.
Khi ni nhiều thì chồng các lồng lên nhau, cách nhau 10 - 12cm để đặt vỉ hứng
phân. Có thể chồng được từ 4 – 5 tầng .
* Chuồng nuôi:
13
Hiện nay đang tồn tại nhiều kiểu chuồng nuôi khác nhau, tùy theo khả năng đầu tư
của các nhà chăn ni:
- Ni cút con bằng qy: dùng cót cao khoảng 50 cm qy trịn lại để ni cút con,
cút thịt; cũng có thể tận dụng chuồng đã dùng ni heo sửa lại. Dưới nền lót một lớp trấu
hoặc vỏ bào dày 10 cm – 15 cm; trên có nắp đậy để tránh mèo chuột, nắp phải thống khí.
- Chuồng lồng nuôi cút đẻ:
+ Qui cách lồng 100cm x 50cm x 20cm, ni được 20-25 cút mái.
+ Nóc lồng làm bằng vật liệu mềm, vì cút hay nhảy dựng đứng có thể bể đầu.
+ Đáy lồng dốc 2-3% để trứng lăn ra, làm bằng lưới ô vuông 1-1,5cm, để cút đi
đứng thoải mái và phân lọt xuống vỉ hứng phân.
+ Vách chuồng có các song dọc cách nhau 2,8 cm đủ kẻ hở cho cút lấy thức ăn,
nước uống từ bên ngồi thành chuồng.
+ Khi ni nhiều thì chồng các lồng lên nhau theo chiều thẳng đứng, cách nhau 1012cm để đặt vỉ hứng phân. Tạo thành chuồng tầng.
- Chuồng tầng kiểu mới: cấu tạo tương tự chuồng tầng kiểu cũ, nhưng có cải tiến là
các tầng chồng lên nhau nhưng lệch nhau 25cm theo chiều trước sau, tầng trên lệch ra
phía sau so với tầng dưới để phân roi thẳng xuống nền khơng cần vỉ hứng phân.
Dưới đây là hình ảnh một số kiểu chuồng nuôi cút:
14
Hình 1.3.2: Chuồng ni cút qy
Chuồng tầng ni cút đẻ, cút thịt
Hình 1.3.3 chuồng ni cút kiểu mới có máng uống nhỏ giọt tự động
Chuồng ni cút thịt:
Có thể dùng quây nuôi nền hoặc lồng nuôi để nuôi cút thịt, cấu tạo tương tự lồng
nuôi cút đẻ nhưng không nhất thiết sàn chuồng phải nghiêng dốc như lồng cút đẻ
Lồng nuôi cút đẻ kiểu mới:
15
Hiện nay do có những vật liệu làm chuồng gọn nhẹ, dễ gia công nên người ta đã cải
tiến kiều lồng nuôi cút đẻ để không phải dùng vỉ hứng phân bằng cách đặt các tầng lệch
nhau về phía trước sau khoảng 20 - 25cm để phân rơi thẳng xuống nền. Kiểu chuồng này
có thể khơng dùng chân đỡ lồng mà dùng hệ thống treo lồng để thuận tiện cho việc thu
dọn phân cút không bị vướng.
Các kiểu trại
Trại hở:
Là kiểu chuồng trại truyền thống, tuy chi phí đầu tư thấp nhưng vì khơng chủ động
điều chỉnh được nhiệt độ chuồng nuôi nên ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất sản phẩm
thịt, trứng của cút. Khi nhiệt độ thay đổi tăng cao hoặc biên độ nhiệt ngày đêm quá lớn
đều làm giảm năng suất. Mặt khác kiểu chuồng trại này có thể bị lây nhiễm dịch bệnh từ
nơi khác đến qua khơng khí, gió bụi, chim trời, v.v,,
Hình 1.3.8:Trại hở, Lồng kiểu mới không dùng vỉ hứng phân và chân đỡ
Trại kín:
Là kiểu chuồng ni cải tiến, dùng khung nhà bằng sắt thép hoặc bê tơng, Mái lợp
tơn hoặc ngói. Xung quang được che kín. Ở một đầu trại có hệ thống tàng ong làm mát
16
bằng nước, ở đầu kia là hệ thống quạt hút để hút khơng khí đẩy ra ngồi, có hệ thống điều
chỉnh nhiệt độ tự động.
Hình 1.9: Bên trong trại ni cút kín
Hình 1.10: Bên ngồi trại ni cút kín
17
Hình 1.11: Máy quạt tạo khơng khí mát cho trại kín
Tùy theo điều kiện, khả năng tài chính và vật liệu sẵn có ở địa phương cũng như
yêu cầu của loại chuồng mà có thể sử dụng các loại vật liệu khác nhau để làm chuồng trại
ni cút:
+ Cót tre: Tre nứa chẻ mỏng và đan lại thành tấm có thể dùng quây lại thành
chuồng nuôi cút con và cút thịt.
+ Chuồng đóng bằng gỗ, tre: có thể dùng gỗ làm khung chuồng, song chuồng; tre
chẻ làm song chuồng với kiểu chuồng nuôi cút con, cút thịt, cút đẻ . Vật liệu gỗ, tre sẵn có
ở nhiều địa phương và phù hợp với kiểu chuồng cũ.
+ Chuồng làm bằng sắt mạ kẽm: sử dụng sợi sắt mạ kẽm với kỹ thuật hàn hồ quang
để làm các lồng nuôi theo kiểu chuồng mới không cần dùng vỉ hứng phân, ưu điểm của
vật liệu này là gọn, nhẹ, dễ làm (ở cơ sở chun sản xuất)
+ Trại ni cút có thể xây dựng khung nhà bằng gỗ, tre, trụ bê tông, xây trụ gạch,
trụ sắt; vách có thể dùng tơn, xây gạch, ván, cót tre, bạt nylon; mái có thể dùng lá cọ, lá
dừa, tranh, tơn, ngói. Hiện nay người ta thường làm trại bằng khung nhà sắt tiền chế lắp
ráp rất nhanh, có thể tháo ra di chuyển đi nơi khác một cách dễ dàng.
2.2.2 Dụng cụ và thiết bị
2.2.2.1 Cấu tạo
- Máng ăn, máng uống: Có thể làm bằng nhơm hay nhựa treo xung quanh chuồng, quy
cách dài 0,5 hoặc 1m, rộng 6 - 7cm. cao 5 - 7cm. Máng úm có thể làm nhỏ và thấp hơn đặt
trong chuồng.
18
Hình 1.3.2. Nguyên lý máng uống và hình máng uống
Vệ sinh máng ăn, máng uống:
Đối với cút con, do máng ăn, máng uống để bên trong chuồng nên dễ bị ô nhiễm do
phân, chất thải của cút nên phải chùi rửa, làm vệ sinh 2 lần /ngày kết hợp thay nước, cho
ăn.
Cút lớn do máng ở bên ngồi chuồng, khơng bị cút dẫm đạp vào nên ít bị bẩn nên
cũng ít phải chùi rửa, vệ sinh hơn.
Vệ sinh bằng biện pháp cơ học:
- Làm sạch cơ học:
+ Làm sạch tất cả các chất bụi bẩn, phân, mảng bám ở các vị trí như: trong máng, vách
hoặc tại các khe máng bằng các dụng cụ như: chổi, dao cậy, búa cao su,....
+ Làm sạch từ vị trí cao đến vị trí thấp, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài.
Vệ sinh bằng biện pháp lý học:
- Tẩy rửa:
+ Làm sạch vật lý: bằng nước nóng hoặc nhiệt độ cao (chú ý với các loại máng làm
bằng vật liệu như gỗ, nhựa).
19
+ Làm sạch lại bằng vịi nước có áp suất: sử dựng vòi nước với áp suất cao (vòi xịt
của máy bơm) tẩy rửa máng đã được làm sạch bụi, chất bẩn.
Vệ sinh bằng biện pháp hóa học:
- Sát trùng:
+ Ngâm: những loại máng ăn tháo rời được ngâm chìm trong nước sát trùng trong
thời gian 24 giờ sẽ tiết kiệm được cơng rửa và hóa chất.
+ Phun sát trùng: Máng lắp cố định sát trùng bằng cách phun sương lên bề mặt
dụng cụ để chất sát trùng diệt được tất cả các tác nhân gây bệnh: vi sinh vật, ký sinh
trùng,...
Khi các cộng đoạn hoàn tất sử dụng nước sạch rửa lại máng và đưa vào sử dụng.
2.3. Dinh dƣỡng và thức ăn cho cút
- Thức ăn: Mỗi ngày cút ăn 20 - 25gr thức ăn hỗn hợp và đẻ một quả trứng nặng
10 - 11gr (bằng 10 % cơ thể), cho nên thúc ăn của cút phải bảo đảm yêu cầu dinh dưỡng
cao, nhất là đạm, khoáng và sinh tố...
Cơng thức hỗn hợp thức ăn cho cút (tính trong 10kg):
TT Nguyên liệu thức ăn Cút con 26-28% đạm
Cút thịt
Cút đẻ
22- 24% đạm
24- 26% đạm
1 Bắp
2,0
4,0
2,5
2 Tấm
2,0
1,0
1,0
3 Cám
1,0
0,7
1,0
4 Bột cá lạt
1,5
1,0
1,2
5 Bánh dầu đậu phọng
1,2
2,0
0,2
6 Bột đậu nành rang
1,0
0,5
1,5
7 Bột đậu xanh
1,0
0,5
1,0
20
8 Bột sị
0,1
0,1
0,3
9 Bột xương
0,1
0,1
0,1
10 Premix khống
0,05
0,01
0,05
11 Premix sinh tố
0,05
0,01
0,05
12 ADE gói 10gr
6 gói
4 gói
4 gói
-
-
-
13 Bột cỏ
- Nước uống: Mỗi ngày cút uống 50 - 100ml nước, nhưng phải cung cấp đầy đủ nước
sạch và mát cho cút uống tự do.
2.3.1 Nhu cầu dinh dƣỡng
Cút là loại chim có nhu cầu về đạm rất cao, thức ăn của cút con phải có tỉ lệ đạm là
26–28%, cút thịt là 22–24%. Cút đẻ là 24 – 26%. Năng lượng trao đổi
2800 - 3000 Kcal/kg thức ăn
Lượng thức ăn hàng ngày của cút tăng dần theo tuổi và trọng lượng cơ thể của
chúng, tỉ lệ thức ăn/thể trọng biến động trong khoảng 11-15 %
Bảng 1.1: Khẩu phần ăn của cút theo lứa tuổi và thể trọng
Ngày tuổi
Khối lượng cơ thể (g)
Lượng thức ăn (g)
0
8
0
1-7
26
4
8-14
65
8
15-21
97
11
22-28
118
14
29-35
135
17
21
36-42
148
19
43
150-200
22-25
+ Giai đoạn từ 0-30 ngày tuổi nên cho chim cút non ăn thức ăn nhiều chất
dinh dưỡng, có mùi thơm, dễ tiêu hóa, cho ăn nhiều lần trong ngày.
+ Nếu nuôi cút thịt, cho ăn như cút con để nhanh xuất chuồng.
+ Giai đoạn 31-42 ngày tuổi, nếu nuôi cút đẻ thì thay đổi dần tỉ lệ thức ăn
cho chim cút đẻ và chim cút non, cho ăn vừa đủ để chim không quá béo và đẻ sớm.
+ Giai đoạn đẻ, dùng thức ăn cho chim cút đẻ, cho ăn vào b an ngày và ban
đêm cần có đủ ánh sáng để chim ăn được nhiều hơn.
2.3.2. Nhận dạng, phân loại thức ăn
Ngày nay, thức ăn hỗn hợp hoàn hảo được cân bằng đầy đủ các chất dinh dưỡng
đầy đủ để phù hợp vời nhu cầu sinh trưởng phát triển và sinh sản của gia súc và gia cầm.
Để cân bằng các chất dinh dưỡng trong thức ăn hỗn hợp như protêin, các chất khoáng,
năng lượng, vitamin….người ta thường sử dụng các loại nguyên liệu sau:
a. Ngô:
Gồm 3 loại: ngô vàng, ngô trắng và ngô đỏ. Giống như các loại ngũ cốc khác ngơ
chứa nhiều vitamin E, ít vitamin D và B. Ngơ chứa ít canxi, nhiều photpho nhưng chủ yếu
dưới dạng kém hấp thụ là phytat. Ngơ có tỷ lệ tiêu hoá năng lượng cao, giá trị protein
thấp, thiếu axit amin.
Ngô là loại thức ăn chủ yếu dùng cho gia súc, gia cầm và loại thức ăn rất giàu năng
lượng, 1kg ngơ hạt có 3200 – 3300 kcal ME. Ngơ cịn có tính chất ngon miệng đối với
lợn, tuy nhiên nếu dùng làm thức ăn chính cho lợn thì sẽ làm cho mỡ lợn trở nên nhão.
Ngơ thường được xem là loại thức ăn năng lượng để so sánh với các loại thức ăn khác.
b. Thóc:
22
Là loại hạt cốc chủ yếu của vùng Đông Nam Á. Thóc được dùng chủ yếu cho loại
nhai lại và ngựa, gạo, cám dùng cho người, lợn và gia cầm. Vỏ trấu chiếm 20% khối
lượng của hạt thóc, nó giàu Silic và thành phần chủ yếu là xenluloza. Cám gạo chứa 11 –
13% protein thô và 10 – 15 % lipit.
c. Các phụ phẩm:
Cám gạo: là sản phẩm phụ của lúa khi xay xát. Cám gạo bao gồm một số thành
phần chính như vỏ cám, hạt phơi, gạo, trấu và một ít tấm. Cám là nguồn B 1 phong phú,
ngồi ra cịn có cả vitamin B6 và Biotin, 1kg cám có khoảng 22mg B1, 13mg B6, 0,43mg
Biotin. Cám gạo là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng, chứa 11 – 13% protêin thô, 10 – 15%
lipit thô, 8 – 9% chất xơ thơ, khống tổng số 9 – 10%. Dầu cám chủ yếu là các axit béo
không no nên dễ bị oxy hố làm cám bị ơi, giảm chất lượng và trở nên đắng khét. Nên cần
ép hết dầu để cám được bảo quản lâu hơn và thơm hơn.
Cám gạo là nguồn phụ phẩm rất tốt cho vật nuôi và dùng cám có thể thay thế một
phần thức ăn tinh trong khẩu phần loài nhai lại và lợn.
d. Đậu tương và khô dầu đậu tương:
Đậu tương: Là một trong những loại hạt họ đậu dùng phổ biến đối với vật ni.
Trong đậu tương có khoảng 50% protêin thơ trong đó chứa đầy đủ các axit amin cần thiết
như lyzin, cystin, và 16 – 21% lipit, năng lượng chuyển hoá 3350 – 3400 kcal ME/ kg.
Khô dầu đậu tương: Là phụ phẩm của quá trình chế biến dầu từ đậu tương. Là một
nguồn protêin thực vật có giá trị dinh dưỡng tốt nhất trong các loại khô dầu. Cũng giống
như bột đậu tương, khơ dầu đậu tương cũng có hàm lượng protêin cao khoảng 42 – 45%
theo vật chất khô, năng lượng chuyển hoá thấp hơn 2250 – 2400 kcal ME/ kg.
e. Lạc và và khơ dầu của lạc, vừng:
Lạc: ít được sử dụng trong chăn nuôi mà thường dùng phụ phẩm của nghành chế
biến dầu từ lạc.
23
Khơ dầu của lạc, vừng:Trong khơ dầu lạc có 30-38% protein thô, axit amin không
cân đối, thiếu lyzin, cystin, methionin. Ngồi ra khơ dầu lạc rất ít vitamin B 12 do vậy khi
dùng protein khô dầu lạc đối với lợn và gia cầm cần bổ sung các loại thức ăn giàu vitamin
B12.
f. Bột thịt, bột xương:
Là sản phẩm phụ của ngành chế biến thịt và xương động vật. Sau khi đem say nhỏ
và sấy khô, bột thịt và bột xương có thể được sản xuất ở hai dạng khơ và ẩm.
- Ở dạng khơ các ngun liệu được đung nóng trong một bếp hơi để tách mỡ, phần
còn lại là bã.
- Ở dạng ẩm các nguyên liệu được đun nóng bằng hơi nước có dịng điện chạy qua,
sau đó rút nước, ép để tách bã và sấy khô.
Bột thịt chứa 60 – 70 % protêin thô, bột thịt xương chứa 45 – 50 % protêin thô,
chất lượng protêin cả hai loại này cao nhưng axit amin hạn chế là methionin và
tryptophan. Mớ dao động từ 3 – 13 %, trung bình là 9%.
h/ Bột cá:
Là loại thức ăn bổ sung hoàn hảo cho gia súc gia cầm, là loại thức ăn giàu protein,
chất lượng protein cao. Loại bột cá tốt chứa 50-60% protein, tỷ lệ axit amin cân đối có
nhiều axit amin chứa lưu huỳnh, bột cá giàu Ca, P tỷ lệ tương đối cân đối, giàu vitamin
B1, B12 ngoài ra còn vitamin A và D.
Hàm lượng dinh dưỡng của 1kg bột cá có 0,9-1,5 đơn vị thức ăn, 480-630g protein
tiêu hoá, 20-80g Ca, 15-60g P.
g. Thức ăn bổ sung khống:
Đối với vật ni chất khống cũng quan trọng như protein. Chính vì thế thiếu
khống con vật sẽ bị rối loạn trao đổi chất, sinh trưởng, sinh sản bị ngừng trệ, sức sản xuất
sút kém. Do đó cần bổ sung khoáng vào thức ăn hỗn hợp để đảm bảo nhu cầu về khống
của vật ni.
24