ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOANG VAN HIEN
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
ĐIỂU TRA VỤ ÃN HÌNH sự MÃ BỊ CAN LÃ NGƯỜI DƯỚ118 TUỔI
THEO LUẬT TƠ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC
Người hướng dân khoa học: TS. MAI ĐAC BIEN
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
hất kỳ cơng trình nào khác. Các sổ liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chỉnh theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tơi xỉn chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hồng Văn Hiến
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỤC HIỆN CHỨC
NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH sụ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI.....................................................................................7
1.1.
Khái niệm
• thực
• hiện
• chức năng“ của Viện
• kiểm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưói 18 tuổi...... 7
1.1.1.
Khái niệm bị can là người dưới 18 tuổi................................................ 7
1.1.2.
Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18 tuồi............ 11
1.1.3.
Khái niệm về thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự đối với bị can là người dưới 18 tuổi.... 13
1.2.
Cơ sở của việc
• thực
• hiện
• chức năng~ của Viện
♦ kiểm sát
nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là ngưòi
dưới 18 tuổi........................................................................................ 15
1.2.1.
Cơ sở lý luận........................................................................................ 15
1.2.2.
Cơ sở thực tiễn.....................................................................................20
1.3.
Ỷ nghĩa của quy định về thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người
dưới 18 tuổi......................................................................................... 22
1.3.1. Ý nghĩa chính trị...................................................................................... 22
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý....................................................................................... 22
1.3.3. Ý nghĩa xã hội......................................................................................... 23
Tiểu kết Chương 1........................................................................................... 25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sụ
VÀ THỰC TIỄN THựC HIỆN CHỨC NÀNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU TRA vụ ÁN HÌNH
SỤ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUÔI...............................26
2.1.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chức năng của
Viện
kiếm sát nhân dân trongCT điều tra vụ• án hình sự• mà bị•
•
can là người dưới 18 tuổi.................................................................. 26
2.1.1.
Chức năng thực hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án hình sự
mà bị can là người dưới 18 tuổi.......................................................... 27
2.1.2.
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi............................................. 42
2.2.
Thực trạng thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi.... 51
2.2.1.
Thực trạng thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là
người dưới 18 tuồi................................................................................51
2.2.2.
Thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi.... 58
2.2.3.
Những hạn chế, thiếu sót trong thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là
người dưới 18 tuổi và nguyên nhân.................................................... 65
Tiểu kết Chương 2
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG ĐIÈU TRA vu ÁN HÌNH su MÀ BI CAN
LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỎI............................................................ 71
3.1.
Hoàn thiện quy định pháp luật vê chức năng của Viện kiêm
sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là ngưòi
dưới 18 tuổi.........................................................................................71
3.1.1.
Sửa đối, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự........... 71
3.1.2.
Sửa đổi, bổ sung các quy định của ngành Kiểm sát............................75
3.2.
Một sô giải pháp khác nhăm nâng cao chât lượng thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi.......................................... 76
3.2.1.
Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo
Viện kiểm sát các cấp trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là
người dưới 18 tuổi............................................................................... 76
3.2.2.
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình
độ chun mơn nghiệp vụ cho cán bộ, kiểm sát viên trong thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi............................................. 79
3.2.3.
Tăng cường quan hệ phối họp giữa Viện kiềm sát với Cơ quan
điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người
dưới 18 tuổi.......................................................................................... 82
Tăng cường vê cơ sở vật chât cho ngành Kiêm sát đảm bảo thực
hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi............................................ 84
Tiểu kết Chương 3
KẾT LUẬN.................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................... 90
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bơ• lt
• hình sư•
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
ĐTV:
Điều tra viên
KSĐT:
Kiểm sát điều tra
KSV:
Kiểm sát viên
TAND:
Tịa án nhân dân
TTHS:
Tố tụng hình sự
THQCT:
Thực hành quyền cơng tổ
VAHS:
Vu• án hình sư•
VKS:
Viên
• kiểm sát
VKSND:
Viên
• kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Tên bảng
SƠ hìêu
•
Bảng 2.1
Trang
Tỉ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội từ năm 2018 đến
quý II năm 2021 (đến ngày 31/5/2021)
51
Số liệu thực hành quyền công tố trong việc áp dụng,
Bảng 2.2
thay đồi, hủy bõ một số biện pháp ngăn chặn trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18
tuổi từ năm 2018 đến quý II năm 2021
Băng 2.3
54
Tỷ lệ bị can là người dưới 18 tuồi Viện kiểm sát truy tố so
với số đề nghị truy tố từ năm 2018 đến quý II năm 2021
57
Số liệu kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ một số
Bảng 2.4
biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi từ năm 2018
đến quý II năm 2021
Bảng 2.5
62
Số liệu thống kê số bị can là người dưới 18 tuổi được miễn
trách nhiệm hình sự từ năm 2018 đến quý II năm 2021
63
MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Tình hình tội phạm do những người dưới 18 tuổi thực hiện ở nước ta
trong những năm qua có diễn biến ngày càng phức tạp, thành phần đối tượng
có xu hướng ngày càng trẻ hóa ở nhiều độ tuổi và lĩnh vực phạm tội đa dạng
hơn; tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phương thức thủ
đoạn ngày càng tinh vi và hậu quả gây ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng
đến tình hình trật tự an tồn xã hội tại địa phương, ảnh hưởng đến đời sống
nhân dân, đến gia đình và xã hội. Tuy nhiên, do người dưới 18 tuổi là chưa
phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý nên chính sách hình sự đối với
nhũng đổi tượng này cũng có nhiều điềm khác biệt so với đối tượng phạm tội
là người đủ 18 tuổi.
Là một cơ quan có chức năng “Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp" (Quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 [28, Điều 107, Khoản 1]), VKSND THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong điều tra vụ án hình sự có bị can là người dưới
18 tuổi, bảo đảm việc giải quyết vụ án có bị can là người dưới 18 tuổi được
chính xác, nhanh chóng, đảm bảo quyền con người, đồng thời còn là biểu hiện
của việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm góp phần ổn định xã hội, phát
triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, trong cơng tác của mình, VKS đã
thực hiện tổt chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong vụ án
hình sự nói chung, cũng như vụ án có bị can là người dưới 18 tuổi nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn cịn có những
hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: vẫn cịn tình trạng
bắt, tạm giam, tạm giữ người dưới 18 tuổi chưa đáp ứng được điều kiện, yêu
cầu của BLTTHS năm 2015 (BLTTHS); việc tạm giam bị can là người dưới
1
18 ti cịn được áp dụng tương đơi phơ biên trong khi đó biện pháp giám sát
tại gia đình và cộng đồng thì lại ít được áp dụng trên thực tế, mặc dù đây là
biện pháp tốt đối với quá trình giáo dục, cải tạo đối với bị can là người dưới
18 tuổi; các quyền cơ bản của bị can là người dưới 18 tuối trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự đặc biệt là quyền bào chữa của họ vẫn chưa được đảm
bảo, điều này dẫn đến tình trạng oan sai, vi phạm quyền con người của bị can
là người dưới 18 tuổi đang còn xảy ra; về đội ngũ cán bộ tư pháp như ĐTV,
KSV chưa được đào tạo chuyên sâu về tâm lý học, về khả năng giao tiếp, làm
việc với bị can là người dưới 18 tuổi. Những bất cập trên vẫn cịn xây ra,
chính vì vậy càn thiết phải có những nghiên cứu, sửa đối các quy định của
BLTTHS và các văn bản có liên quan để hoàn thiện hơn thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuồi nói chung và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
điều tra VAHS có bị can là người dưới 18 tuổi nói riêng.
Từ các lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài "Thực hiện chức năng
cửa Viện kiểm sát nhân dãn trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là
người
dưới 18 tuổi theo Luật
văn thạc
O
• tổ tụng
• o hĩnh sự
• Việt
• Nam" làm luận
••
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra
VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi theo Luật TTHS Việt Nam được đề
cập dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, các bình luận trong giáo trình
như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội [32]; Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của NXB Đại học Quốc
Gia Hà Nội [3]... đã được phân tích một số khái niệm, nhiệm vụ, các nguyên
tắc cơ bản của Luật TTHS; cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng; chứng cứ, chứng minh, những biện pháp ngăn chặn;
trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự... Tuy nhiên chưa có phân tích về
chức năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi
2
Một sơ cơng trình nghiên cứu chun sâu vê chức năng của VKSND
trong điều tra vụ án hình sự và thủ tục tố tụng đối với vụ án có bị can là người
dưới 18 tuổi (người chưa thành niên) như: Luận văn thạc sỹ Luật học “Kiểm
sát điều tra vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên từ thực tiễn tình
Bắc Ninh của tác giả Ngơ Thanh Tuấn [38]; Luận văn “Chức năng cùa Viện
kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người chưa thành
niên” của tác giả Trần Thị Ánh Tuyết [39]...
về đề tài khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội của tập thể tác giả:
Nguyên tắc nhân đạo trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật
TTHS đổi với người chưa thành niên ớ Việt Nam, năm 2005. Ngồi ra, cịn có
những nghiên cứu đề cập đến những vấn đề lý luận chung hoặc nghiên cửu
những đề tài khác nhưng có một số nội dung liên quan đến thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuổi như cuốn: Tăng cường năng lực hệ thống tư pháp
người chưa thành niên tại Việt Nam, thông tin khoa học pháp lý của Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp nãm 2000; hay cuốn: 77ỉử tục điều
tra và xét xử liên quan đến trẻ em và người chưa thành niên: Đảnh giả về các
thủ tục nhạy cảm đối với trẻ em của TAND;
Bên cạnh đó, một số tác giả đã cơng bố các tác phẩm liên quan đến
chức năng của VKSND và thủ tục tố tụng đối với vụ án mà bị can là người
dưới 18 tuổi (người chưa thành niên) như:
- TS. Mai Đắc Biên, “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi
tổ, điều tra và xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,Đê tài khoa học
cấp cơ sở, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, năm 2020.
- Tác giả Nguyễn Tuấn Dũng với đề tài “Thủ tục tổ tụng đối với bị can
dưới 18 tuồi trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiền quận Bình
Thạnh - Thành phổ Hồ Chỉ Minh ”, năm 2020.
- Tác giả Trần Thị Minh Thư với bài viết: “Kỹ năng của Kiểm sát viên
khi thụ lý, giải quyết các vụ án do người chưa thành niên phạm tội" đăng trên
Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội số 07, năm 2014.
3
- TS. Phạm Mạnh Hùng với bài viẻl“ Hoàn thiện quy định vê xác định
tuổi khi giải quyết vẩn đề trách nhiệm hình sự và áp dụng thủ tục tố tụng đối
với người dưới 18 tuồi”. Tạp chí Kiểm sát (số 04-2021)
- Tác giả Lò Phương Thảo với Đề tài khóa luận tốt nghiệp “Hoạt động
điều tra đổi với người dưới 18 tuồi phạm tội”, Trường đại học Kiểm sát Hà
Nội, năm 2017.
Như vậy, nghiên cứu về chức năng của VKSND trong giai đoạn điều
tra cũng như thủ tục tố tụng đối với VAHS mà bị can là người chưa thành
niên nói chung đã có rất nhiều người nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau.
Riêng về vấn đề thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị
can là người dưới 18 tuổi theo BLTTHS hiện hành cịn chưa được quan tâm
nghiên cứu sâu sắc.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hiện chức năng của Viện
kiêm sát nhãn dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18
tuổi theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận cũng như quy định của
pháp luật TTHS Việt Nam về thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra
VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi và từ nghiên cứu thực trạng của hoạt
động KSĐT VAHS có bị can là người dưới 18 tuổi trong nhũng năm gần đây,
luận văn sẽ đưa ra một số kiến nghị về mặt lập pháp và giải pháp khác nhằm
hoàn thiện, nâng cao việc thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra
VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi theo Luật TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp lý về bị can là người dưới
18 tuổi; chức năng của VKSND trong giai đoạn điều tra VAHS; quy định của
4
pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra VAHS
mà bị can là người dưới 18 tuổi.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng KSĐT các VAHS có bị can là
người dưới 18 tuổi, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật, từ đó thấy
được những ưu điểm và mặt hạn chế để đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng
cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
3.3. Phạm vi nghiên cún
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về thực hiện
•
J
•
•
•
chức năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi
theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác hiện hành.
về thời gian: Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn trong 03 năm
06 tháng, từ năm 2018 (tính từ 01/12/2017) đến năm hết quý II năm 2021
(đến ngày 31/5/2021) trên phạm vi cả nước.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cún
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích các vấn đề lý luận và
pháp lý về thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị can
là người dưới 18 tuổi theo Luật TTHS Việt Nam; trên cơ sở đó, tiến hành
tổng hợp các vấn đề đã phân tích để đánh giá ưu điểm, những vấn đề tồn tại,
hạn chế của các quy định này, nguyên nhân và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu các vấn đề trong bối cảnh lịch sử
từng thời kỳ như: Chính sách pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội, trình độ
khoa học pháp lý, trình độ lập pháp...
- Phương pháp so sánh: So sánh đối chiếu các quy định về chức
năng của VKSND trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi
5
qua các thời kỳ từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong việc quy định
về các thủ tục này.
- Phương pháp thống kê: thu thập và tổng hợp các tài liệu, số liệu về
thực tiễn áp dụng trong việc thực hiện chức năng của VKSND trong điều tra
VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn nghiên cứu tương đối có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý
luận, pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng về thực hiện chức năng của VKSND
trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi theo Luật TTHS Việt Nam.
Luận văn cũng tham khảo các quy định về thủ tục này với một sổ Cơng ước
quốc tế có liên quan, nghiên cứu các quy định pháp luật trong các BLTTHS
trước đây đế so sánh với quy định hiện hành, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn
thiện các quy định về các thú tục này trong BLTTHS. Kết quả nghiên cứu của
luận văn góp phần phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn của
VKSND trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi. Ngồi ra, luận
văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu các vấn đề có liên
quan và cán bộ thực tiễn (Luật sư, KSV, ĐTV...) trong nghiên cứu và công tác.
6. Kêt câu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gôm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chức năng của Viện kiểm
sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi.
Chương 2: Quy định của pháp luật tơ tụng hình sự Việt Nam và thực
tiễn thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình
sự mà bị can là người dưới 18 tuổi.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người
dưới 18 tuổi.
6
Chương 1
MỘT
SĨ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THựC
HIỆN
CHỨC NẢNG CỦA
•
•
•
•
VIỆN KIẺM SÁT NHÂN DÂN TRONG ĐIÈU TRA CÁC vụ ÁN
HÌNH SỤ MÀ BỊ CAN LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TƯƠI
1.1. Khái niệm
• thực
• hiện
• chức năng~ của Viện
• kiêm sát nhân dân
trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là nguôi dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm bị can là người dưới 18 tuổi
Trước khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) được
ban hành, pháp luật hình sự Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “người dưới
18 tuổi phạm tội” mà sử dụng thuật ngừ “người chưa thành niên phạm tội”.
Việc sử dụng các thuật ngừ này phù hợp với các quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005 (nay là Bộ luật Dân sự năm 2015); Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004 (nay là Luật trẻ em năm 2016). Tuy nhiên, để đảm bảo sự
tương thích, sự hài hịa với các chuẩn mực quốc tế mà trước hết là Công ước về
quyền trẻ em. Theo những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Họp quốc về bảo
vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14 - 12 - 1990 đã
nêu: “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuồi. Giới hạn tuổi dưới mức
này cần phải được luật xác định...” [14, phần II, khoản 11, mục a]. Theo quy
định này thì phạm vi độ tuối của người chưa thành niên cũng tương tự như
người dưới 18 tuổi được giới hạn từ 0 đến dưới 18 tuổi [10],
Xét về nội hàm, thì khái niệm người chưa thành niên là khái niệm mang
xu hướng định tính, có nhiều văn bản hướng dẫn, giài thích về độ tuổi theo
khái niệm này. Còn cấp độ tuổi của người chưa thành niên có ý nghĩa đánh
dấu thứ tự thang bậc của quá trình phát triển đến tuổi trưởng thành (tất nhiên,
cùng với quá trình phát triển thì ý thức, kiến thức của người chưa thành niên
cũng phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện đến một mức độ nhất định).
7
Cụm từ “người chưa thành niên” cũng được nhăc đên tại khoản 3 điêu 103
của Hiến pháp năm 2013: “TAND xét xừ công khai. Trong trường hợp đặc
biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người
chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự,
TAND có thể xét xử kín”. Tuy nhiên BLTTHS và BLHS dùng khái niệm
“người dưới 18 tuổi” do khái niệm ngày mang xu hướng định lượng, cụ thể,
sử dụng theo nghĩa đen của cụm từ, tránh việc hiểu sai mốc tính độ tuổi trong
tư pháp hình sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam, năm
2002 đã đưa ra khái niệm về “người chưa thành niên” [37], tương tự ta suy
luận ra khái niệm về người dưới 18 tuổi: “Người dưới 18 tuổi là người chưa
phát triển đầy đủ, tồn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa cỏ đầy
đủ quyền và nghĩa vụ công dân”. Dựa vào khái niệm này chúng ta có thể hiểu
đặc điểm của người dưới 18 tuổi như sau:
Thứ nhất, người dưới 18 tuối là người chưa phát triển đầy đủ, tồn diện
về thể lực, trí tuệ và tinh thần (đặc điểm về tâm, sinh lý). Điểm đặc trưng của
lứa tuổi này là sự phát triển chưa đầy đủ về mặt tâm, sinh lý. Người dưới 18
tuổi là người đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách và chưa thể
có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình. Đối với người dưới
18 tuổi, do tư duy của họ chưa phát triển hoàn thiện nên họ chưa có hiểu biết
đầy đủ về những khái niệm thơng thường trong cuộc sống hàng ngày, tính làm
chủ bản thân còn thấp, khả năng tự kiềm chế chưa cao...
Thứ hai, người dưới 18 tuổi là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân. Các yếu tố khách quan của xã hội chính là cơ sở quan trọng đế phân
chia độ tuổi của người dưới 18 tuổi. Ở các quốc gia khác nhau thì các yếu tố
khách quan của xã hội cũng khác nhau. Chính vì vậy, độ tuổi để phân chia
người dưới 18 tuổi (người chưa thành niên) và người đủ 18 tuổi (người đã
8
thành niên) trên thê giới là không giông nhau. Ngày 29 - 11 - 1985, Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Quy tắc Bắc Kinh và định nghĩa: “Người
chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuồi tùy theo từng hệ thống pháp
luật...” [13, phần I, khoản 22, mục a].
Có the nói, việc thay đổi cụm từ “người chưa thành niên” thành “người
dưới 18 tuổi” có ý nghĩa rất quan trọng để xác định độ tuổi cụ thể, liên quan
tới nhiều chính sách lớn của Nhà nước trong quản lý xã hội. Trên nguyên tắc
đảm bảo tính họp hiến, hợp pháp, đảm bào sự phù hợp với các Điều ước Quốc
tế mà Việt Nam tham gia. Ớ nước ta, từ ngày Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công tới nay, Nhà nước đã nhất quán xác định 18 tuổi trịn chính
là ranh giới để phân chia người chưa thành niên và người đã thành niên. Điều
đó cũng có nghĩa là chỉ khi nào một người trịn 18 tuổi thì mới có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ cơng dân, nhằm mục đích bào vệ quyền trẻ em [39].
Đối với Luật hình sự và TTHS, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là tuổi do
BLHS quy định và được tính tại thời điếm người đó thực hiện tội phạm [2, tr.
461]. Việc xác định một người, ở độ tuổi nào phải chịu trách nhiệm hình sự
đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình gây ra có ỷ nghĩa rất
quan trọng trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm. Khoa học luật
hình sựe xác định
tuồi phải
chịu
e
1
• trách nhiệm
• hình sự> chủ yếu dựa
• vào tiêu
chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người mà chủ yếu là sự phát triển
về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm. Tại Điều 12 và Điều 90 BLHS quy định:
Điều 12. Tuồi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
9
quy định tại một trong các điêu 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150,
151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,
266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Điều 90. Áp dụng Bộ luật Hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuối phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định
khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của
Chương này [30],
Tại điều 6 thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-
BCA-BTP-BLDTBXH ngày 21/12/2018 [43] về phối hợp thực hiện một sổ
quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi cũng quy
định rất rõ về cách xác định tuổi của người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Từ các phân tích trên có thể thấy rằng, tính từ thời điểm thực hiện tội
phạm, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuồi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144,
150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286,
287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này. Theo quy định của BLTTHS
“Bị can là người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự” [31, Điều 60]. Do vậy
có thể đưa ra khái niệm: Bị can là người dưới 18 tuôi là người thực hiện mọi
hành vi phạm tội khi đã đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuồi hoặc từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuồi mà phạm tội rất nghiêm trọng do cố ỷ hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151,
168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289,
290, 299, 303 và 304 của BLHS và bị các cơ quan có thâm quyền ra quyết
định khởi tố về hình sự.
10
1.1.2. Khái niệm chức năng của Viện kiêm sát nhân dân trong giai
đoạn
điều tra vụ• án hình sự
dưới 18 tuổi
•
• mà bị
• can là người
o
Thuật ngữ “Chức năng” được hiểu là “nhiệm vụ, cơng dụng và vai
trị” [46]. Tại điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam
năm 2013 quy định chức năng của VKSND như sau: “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [28].
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND [29]
quy định về chức năng của VKSND: “Viện Kiếm sát nhân dân là cơ quan thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” [29], Đồng thời đưa ra khái niệm về chức năng THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tại Điều 3, 4 của Luật này như sau:
Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong TTHS để
thực
hiện
việc
buộc
tội
của Nhà nước đối với người JLphạm
tội,
thực
hiện
•
•
•
•
•
•
• y được
•
•
•
ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS.
Kiêm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết VAHS;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của
pháp luật [29, Điều 3-4].
về chức năng của VKSND trong TTHS, theo quy định của BLTTHS,
quá trình tố tụng của nước ta trải qua các giai đoạn đó là: khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án. Với tư cách là một cơ quan pháp luật nhân danh
Nhà nước, trong các giai đoạn TTHS, VKSND đều đảm nhận hai chức năng
11
đã nêu. Trong đó, việc thực hiện chức năng THQCT và kiêm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra VAHS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ,
trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát
hiện tội phạm. Có thế nói những kết quả khả quan cũng như những sai lầm tư
pháp nghiêm trọng nhất như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội...thường
bắt nguồn từ giai đoạn điều tra [39, tr. 11],
về phân chia các giai đoạn TTHS và phạm vi giai đoạn điều tra VAHS,
hiện nay có nhiều quan điếm khác nhau, ví dụ như:
Có quan điểm cho rằng: Điều tra là giai đoạn đầu tiên của quá trình tiến
hành TTHS, trong đó CQĐT áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để
xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội [21, tr. 5].
Quan điểm khác lại cho rằng: Phạm vi của kiểm sát các hoạt động tư
pháp ở giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi VAHS được khởi tố (một số trường
hợp có thể được tiến hành trước khi khởi tố) và kết thúc khi VKS quyết định
việc truy tố hoặc không truy tố kẻ phạm tội ra tòa, hoặc khi vụ án được đình
chỉ theo quy định của pháp luật TTHS [34, tr. 91]...
Chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Điều tra là hoạt động có
mục đích của CQĐT khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con
người. Giai đoạn điều tra là giai đoạn TTHS, trong đó cơ quan có thẩm quyền
áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án [32, tr. 265],
Giai đoạn điều tra tiếp theo sau của giai đoạn khởi tố được tiến hành trên cơ
sở quyết định khởi tố của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Giai đoạn điều
tra được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi CQĐT
hoàn thành bản kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án hoặc ra quyết định đình chỉ điều tra.
Theo quan điểm này, điều tra là một giai đoạn tố tụng độc lập, bắt đầu
12
từ khi cơ quan có thâm quyên ra quyêt định khởi tô vụ án và kêt thúc khi
CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc kết luận kèm theo quyết
định đình chỉ điều tra. Trong giai đoạn này, CQĐT căn cứ vào các quy định
của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần
thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết cùa
VAHS, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lồi
trong việc thực hiện tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo
đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ
sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ điều tra hoặc là chuyển tồn
bộ các tài liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị
truy tổ bị can.
Như vậy, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, các luật về
tổ chức, lý luận luật TTHS và dựa trên khái niệm bị can là người dưới 18 tuổi
nêu ở phần trên, theo chúng tôi, Chức năng của VKSND trong giai đoạn điều
tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi là quy định của pháp luật về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND đê thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
•
J.
•
•••••
người phạm tội là người dưới 18 tuổi; kiêm sát tính họp pháp của các hành
vi, quyết định của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, người có thấm quyền tiến hành tổ tụng trong giai đoạn điều
tra, người tham gia tố tụng để bảo đảm việc điều tra đúng quy định của pháp
luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.1.3. Khái niệm
về thực
hiện
chức năng
kiếm sát nhân dân
•
•
•
O của Viện
•
trong điều tra vụ án hình sự đổi với bị can là người dưới 18 tuổi
Thuật ngữ “thực hiện” là một động từ, được hiểu là “làm cho trở thành
sự thật bằng những việc làm hoặc hành động cụ thể” [46].
Trong điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi, VKS có chức
năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, ngồi ra cịn có chức năng
13
kiêm sát các cơ quan tiên hành tô tụng trong việc thực hiện các văn bản pháp
lý có liên quan nham đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị can là người
dưới 18 tuổi trong vụ án. Tránh trường hợp bị can bị áp dụng những biện
pháp mà BLTTHS cấm áp dụng hoặc hạn chế áp dụng như tạm giam, áp dụng
hình phạt quá nặng...
Tại điều 20 BLTTHS quy định trách nhiệm THQCT và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTHS cúa VKS:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm
pháp luật nhàm bào đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và
xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan
người vô tội [31],
Để đảm bảo trách nhiệm và chức năng theo quy định của BLTTHS,
VKS phải có những “hành động cụ thể” để “thực hiện” những nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước giao phó. Trong đó nhiệm vụ bảo vệ quyền con người nói
chung và bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của người dưới 18 tuổi nói riêng,
VKS thực hiện đồng thời hai chức năng là THQCT và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Nếu kiểm sát các hoạt động tư pháp được thực hiện để phát hiện
nhanh chóng những vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng thì THQCT là
chức năng để VKS buộc các cá nhân và các cơ quan tiến hành tố tụng phải
tuân theo pháp luật. Do tính chất khác nhau của từng giai đoạn mà vai trò của
VKS trong việc bảo vệ người dưới 18 tuổi biểu hiện ở những mức độ khác
nhau, đặc biệt là giai đoạn điều tra VAHS.
Từ những phân tích theo chúng tơi: Thực hiện chức năng của VKS nhân
14
dản trong điêu tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tiiôi là việc VKSND thực
hiện nhũng hoạt động cụ thể theo quy định của BLTTHS đê thực hiện việc buộc
tội của Nhà nước đổi với người phạm tội và kiểm sát hoạt động tư pháp của cơ
quan có thâm quyền, người có thâm quyền điều tra VAHS và người tham gia tố
tụng trong quả trình điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi.
1.2. Cơ sở của việc
• thực
• hiện
• chức năng” của Viện
• kiểm sát nhân
dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can là người dưới 18 tuổi
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm tâm - sinh lý người dưới 18 tuổi.
Giai đoạn từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là là giai đoạn chuyển tiếp từ
tuổi trẻ em sang tuổi người lớn. Trong giai đoạn này, con người có sự phát triển
mạnh mẽ về thể chất và tinh thần. Chính sự thay đổi về thể chất và tinh thần ấy
đã dẫn đến những thay đổi trong tâm lý- sinh lý của người dưới 18 tuổi.
về trạng thái cảm xúc, người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình
phát triển cà về sinh lý, tâm lý và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến
đổi rất đặc biệt, có một số minh chứng cho thấy các cô bé, cậu bé phạm tội
khi ờ tuối vị thành niên có mức độ adrenalin thấp bất thường (Adrenalin -
Hoocmon này được sản xuất bởi các tuyển thượng thận trong trạng thái hưng
phấn hoặc lo âu nói chung). Các trẻ em với mức adrenalin thấp được đánh giá
bởi các giáo viên là hung hăng và hiếu động [45, tr. 150], Trên thực tế, trạng
thái thần kinh, trạng thái cảm xúc khơng cân bằng có thể là yếu tố gây nên các
hành vi lệch chuẩn. Có khơng ít trường hợp, do xuất phát từ những mâu thuẫn
nhỏ, nhưng không kiềm chế được sự nóng giận q khích mà người dưới 18
tuổi đã phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội.
về nhận thức pháp luật, có thế nói những người dưới 18 tuối đang trải
qua giai đoạn phát triển rất nhanh về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về
mặt trí tuệ và kiến thức sống. Sự hiểu biết cá nhân cũng như kỷ luật không
15
nhât quán hay sự giám sát yêu kém của cha mẹ có liên quan đên sự lệch lạc
trong tương lai của những người dưới 18 tuổi. Hành vi phạm tội cần được
nhìn nhận là kết quả của một chuồi các q trình hình thành nhân cách và các
mơ hình ứng xử [45, tr. 154], Dưới 18 tuổi là lứa tuổi mà kinh nghiệm trong
cuộc sống cịn q ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật còn nhiều
hạn chế. Một phần không nhở người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội
chỉ để thởa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn cúa cá nhân, không quan
tâm đến hậu quả nguy hiếm cho xã hội. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì
các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.
Đối với nhu cầu độc lập, có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động
và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà không muổn bị ảnh hưởng của người
khác. Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, nhu càu độc lập khơng chỉ có mặt
tích cực mà cịn có mặt tiêu cực nếu một khi nó phát triền theo hướng thái
quá. Động lực để thực hiện các hành vi phạm tội chủ yếu xuất phát từ mong
muốn vật chất hoặc nhu cầu phấn khích của mồi người dưới 18 tuổi. Neu
những ham muốn này không thể thỏa mãn theo cách được xã hội chấp nhận,
thì hành động bất hợp pháp có thể là một lựa chọn. Động cơ phạm tội sẽ bị
ảnh hưởng bởi các yếu tổ tâm lý, bao gồm sự học hỏi trong quá khứ và niềm
tin của cá nhân, hoặc có thể đã được tiếp nhận một cách vô thức về hành vi
phạm tội [45, tr. 154]. Đặc biệt, ở những người dưới 18 tuổi, nhu cầu độc lập
thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như ngang
bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này của
người dưới 18 tuổi đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các
hành vi phạm tội [49].
về nhu cầu khám phá cái mới, ngày nay các phương tiện truyền thông,
mạng xã hội phát triển vơ cùng mạnh mẽ và phố biến. Đó chính là công cụ
giúp người dưới 18 tuổi khám phá cuộc sổng xung quanh, nâng cao nhận thức
16
đối với xã hội... Đây là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển nhân
cách của người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, bên cạnh những khám phá có lợi,
trong q trình khám phá, tìm tịi những điều mới lạ, người dưới 18 tuổi
thường còn bị thu hút bởi những điều thiếu lành mạnh, lệch chuẩn và nhanh
chóng học theo đó nếu họ khơng tự chủ được bản thân, không phân biệt được
đúng, sai, phải, trái. Thêm vào đó là sự thiếu quan tâm, kịp thời uốn nắn, giúp
đỡ của gia đình, nhà trường thì việc người dưới 18 tuổi sa vào con đường
phạm tội là tất yếu.
Có thể nói rằng, ý thức pháp luật là nhân tố rất quan trọng đối với sự
phát triển nhân cách của người dưới 18 tuổi. Khi khơng có được ý thức đúng
đắn thì nguy cơ người dưới 18 tuổi có hành vi phạm tội là rất cao. Do vậy,
chúng ta cần phải có những phương pháp giáo dục phù hợp với tâm lý của
người dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn những khuynh hướng tiêu cực trong ý
thức pháp luật của thế hệ cơng dân tương lai.
77íứ hai, xuất phát từ việc đảm bảo giải quyết vụ án một cách chính
xác, khách quan, đầy đủ, đúng quy định của pháp luật.
Như đã phân tích ở trên, người dưới 18 tuổi dễ bị ảnh hưởng bởi các
thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội dẫn đến hành vi phạm tội. Bên cạnh đó, ý thức
phạm tội của người dưới 18 tuổi chưa sâu sắc, họ dễ tiếp thu sự giáo dục của
xã hội, nhà trường cũng như gia đình để từ bở con đường phạm tội. Do vậy
xét về mặt nhân thân người phạm tội, không thề coi người dưới 18 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự giống như người đã thành niên được. Những quy
định pháp luật và thủ tục đặc biệt trong BLTTHS nhằm đảm bảo rằng bị can
là người dưới 18 tuồi được đối xử phù hợp với phẩm giá của họ, củng cố thái
độ tôn trọng của họ đối với quyền con người và quyền tự do căn bản của
người khác. Cơ quan tiến hành tố tụng trên nguyên tắc điều tra thân thiện và
nhạy cảm đổi với người dưới 18 tuổi, điều tra không tạo nên thêm gánh nặng
17
đôi với bị can là người dưới 18 tuôi. Các chính sách hình sự trong TTHS đơi
với bị can là người dưới 18 tuổi chủ yếu là những quy định nhằm bảo đảm
một cách tốt nhất quyền bào chữa cho đối tượng này, hạn chế một cách tối đa
việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế, hạn chế một cách thấp nhất những
tác động không thể tránh khỏi về tâm lý đối với bị can là người dưới 18 tuối
do hoạt động TTHS gây ra, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho việc
làm rõ những nguyên nhân điều kiện phạm tội của họ để Tịa án có thể xét xử
và tun bản án có tác động tích cực nhất đến tâm lý của đối tượng này [52],
Đế đạt được mục đích như trên, VKS phải vận dụng một cách có căn cứ các
nguyên tắc quy định tại Điều 91 BLHS nhằm đảm bảo việc giải quyết các
VAHS do người dưới 18 tuổi thực hiện một cách chính xác, khách quan.
Thứ ba, xuất phát từ chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta.
Điều 91 BLHS quy định nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được Nhà nước ta xác định là "phải bảo đảm lợi ích tot nhất của
người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa
sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân có ích cho xã hội". BLTTHS
đã có những quy định riêng về thủ tục tố tụng tạo hành lang pháp lý để bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi một cách hiệu quả. Và để góp phần
thực hiện được nhiệm vụ trên của Đảng và Nhà nước giao, VKSND tham gia
thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra VAHS mà bị can là người dưới 18 tuổi để đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều phải xử lý đúng pháp luật, không để oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu, xu hướng hội nhập quốc tể.
Những quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam không chỉ thống nhất
với hệ thống văn bản pháp luật trong nước mà còn phù hợp với văn bản pháp
luật quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia, ký kết. Những quy định trên không
18