Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh bắc ninh) (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (22.44 MB, 92 trang )


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bổ trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong

Luận văn bảo đảm tính chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đê

tôi cỏ thể bảo về Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Thúy Điệp


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục





Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT HÌNH Sự VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM

PHẠM SỞ HỮU DO NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI THỤC HIỆN...... 8


1.1.





Khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi

thực hiện................................................................................................ 8

1.2.

Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS 2015.................................. 13

1.2.1.

Đặc điểm pháp lý.............................................................................. 13


1.2.2.

Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội xâm

phạm sở hữu...................................................................................... 22
1.2.3.

Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội xâm phạm sở hữu...... 32

1.3.

Định tội danh và quyết định hình phạt đổi với ngưịi dưới 18

tuổi phạm các tội xâm phạm sở hữu............................................... 37

1.3.1.

Định tội danh...................................................................................... 37

1.3.2.

Quyết định hình phạt.......................................................................... 43

Tiểu kết chương 1............................................................................................48
CHUÔNG 2: THỤC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH sụ ĐỐI









VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HƯU DO NGƯỜI DƯỚI 18

TUÔI THựC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẲC NINH VÀ

MỘT SĨ ĐÈ XUẤT KIẾN NGHỊ................................................... 49


2.1.



Thực tiễn áp dụng các quỵ định bộ luật hình sự đổi với các


tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổithực hiện..................49

2.2.

Nguyên nhân của những tồn tại vướng mắc................................. 60

2.2.1.

Nguyên nhân về mặt pháp luật..........................................................60

2.2.2.

Nguyên nhân về mặt áp dụng pháp luật............................................. 67


2.2.3.

Nguyên nhân khác.............................................................................. 68

2.3.

Những căn cứ cho việc hoàn thiện và một số đềxuất cụ thể........ 69

2.3.1.

Căn cứ, phương hướng cho việc hoàn thiện...................................... 69

2.3.2.

Một số đề xuất cụ thể......................................................................... 72

ơ









Tiểu kết chương 2............................................................................................ 80
KÉT LUẬN CHUNG...................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................82



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bơ• lt
• hình sư


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CSĐT:

Cảnh sát điều tra

CTTP:

Cấu thành tội phạm

TNHS:

Trách nhiêm
• hình sư•

VKSND:

Viên

• kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

XPSH:

Xâm phạm sở hữu


DANH MỤC CÁC BẢNG

Sơ hiêu


Tên bảng

Bảng 2.1

Tổng số bị cáo là người dưới 18 tuôi trong tổng số bị

Trang

cáo đã xét xử ở tỉnh Bắc Ninh từ năm 2017đến năm
2021 về tội xâm phạm sở hữu
Bảng 2.2

49


Loại tội mà người dưới 18 tuổi đã bị xẻt xử ở tỉnh

Bắc Ninh từ năm 2OỈ7đến năm 2021 về tội xám phạm
sở hữu
Bảng 2.3

Ket quả quyết định hình phạt đối với người dưới 18

tuôi phạm tội xâm phạm sở hữu
Bảng 2.4

50

52

Kết quả quyết định hình phạt đối với bị cáo với tội
xâm phạm sở hữu từ năm 2017-2021

53


MỞ ĐÀU

1. Tính câp thiêt của luận văn

Trong những năm gần đây số lượng các vụ án có bị cáo là người dưới
18 tuổi tăng lên, và các đối tượng này đã thực hiện nhiều vụ án có tính chất và
mức độ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thực hiện hành vi phạm tội liều
lĩnh, có tính chất cơn đồ, cơng khai coi thường tính mạng và sức khỏe của
người khác, có những vụ án đối tượng thực hiện nhiều hành vi cấu thành

nhiều tội như hiếp dâm, giết người sau đó cướp tài sản. Theo Báo cáo số
1159/BC- BCNDA4, ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Ban Chủ nhiệm Dự án
4 “Đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em và người chưa thành niên
vi phạm pháp luật và phịng chống bạo lực gia đình, mua bán người” giai
đoạn 2018 - 2020, riêng năm 2020, xảy ra 4.262 vụ có chủ thể thực hiện hành
vi phạm tội là người dưới 18 tuổi, với 6.588 đối tượng. Tập trung chủ yếu ở
hành vi trộm cắp tài sản, cố ý gây thương tích và các hành vi liên quan đến
ma túy (chiếm trên 60% tổng số vụ). Có nhiều vụ án các bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là
chung thân hoặc tử hình như tội: “Cố ý gây thương tích”, “Giết người”,
“Cướp tài sản”, “Trộm cắp tài sản”. Có những vụ thảm án do những người
dưới 18 tuổi thực hiện về các tội xâm phạm sở hữu, có mức hình phạt cịn
chưa đủ răn đe đối với mức độ nghiêm trọng của vụ án, gây bức xúc trong dư
luận. Tuy nhiên do lứa tuổi này đang ở độ tuổi phát triển tâm sinh lý vì thế
các quy định của pháp luật liên quan đến độ tuổi này cũng có những điểm đặc
thù riêng.
Tỉnh Bắc Ninh là một tỉnh có diện tích đất tự nhiên nhỏ nhưng nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm, tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phịng -

Quảng Ninh có hệ thống giao thơng thuận tiện, có số lượng dân cư lớn, tập

trung nhiều khu công nghiệp lớn, khu kinh tế tại địa bàn các huyện như huyện
Quế Võ, Yên Phong và thành phố Từ Sơn chính vì vậy đã thu hút đơng đảo

lao động từ các tỉnh lân cận và tỉnh xa tập trung làm ăn, sinh sống và học tập.
Dân số trên địa bàn tỉnh trong những năm gần đây tăng đột biến, sự chênh


lệch vê kinh tê vùng trên địa bàn tỉnh phân hóa rõ rệt kéo theo là sự phát triên
của cơ sở kinh doanh, dịch vụ cầm đồ, cơ sở game, nhà trọ đi kèm đó là


những tệ nạn xã hội như: mại dâm, cờ bạc, ma túy ... tại địa phương cũng vì

vậy mà khơng ngừng tăng lên. Chính từ những yếu tố này nhiều loại tội phạm
trên địa bàn tỉnh như tội phạm về ma tủy, tội phạm xâm phạm trật tự trị an và

đặc biệt là nhóm tội xâm phạm sở hữu có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo
tổng kết công tác kiểm sát năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc

Ninh đã thống kê tội phạm xâm phạm sở hữu là 469 vụ/575 bị can chù yếu là

tội "Trộm cắp tài sản" 327 vụ, tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" 35 vụ. Trong
đó chủ thể dưới 18 tuổi thực hiện tội xâm phạm sở hữu có xu hướng tăng cao.

Trước tình hình đó UBND tỉnh Bắc Ninh đã khởi động và thực hiện nhiều
giải pháp đồng bộ trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm với loại tội

phạm này. Việc nghiên cứu tội phạm xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi
thực hiện trên địa bàn tỉnh sẽ đưa ra các kiến giải để góp phần hồn thiện các

quy định của pháp luật đồng thời đưa ra các kiến giải về phịng ngừa loại tội
phạm này trên địa bàn tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.

Vì vậy, tơi lựa chọn đề tài: “Các tội xâm phạm sở hữu do người dưới
18 tuổi thực
hiện
theo Luật
cơ sở thực
tiễn địa
bàn



• Hình sự
• Việt
• Nam (trên
X



tỉnh Bắc Ninh)” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện tại tỉnh Bắc
Ninh mang tính chất đặc thù cá biệt nên chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề

cập một cách trực tiếp vấn đề này. Tuy nhiên, một số cơng trình có liên quan
nghiên cứu dưới các khía cạnh, góc độ khác nhau. Bao gồm:
- Sách chuyên khảo

+Trường Đại học quốc gia Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Hình sự

Việt Nam(Phần chung), NXB Đại học quốc gia Hà Nội;

2


+ Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam. NXB Cơng an nhân dân, Hà Nội;


+ Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm. NXB Tư
pháp, Hà Nội;
+ "Tìm hiểu tội phạm và các tội xâm phạm sở hữu" của tác giả Trần

Minh Hưởng, Nguyễn Văn Hiến.
- Các luận
văn Thạc
sĩ Luật


• học


+ Luận văn thạc sĩ luật học của Vũ Thị Thu Quyên về "Hoàn thiện

pháp luật bảo đảm quyền của người dưới 18 tuồi phạm tội ở Việt Nam hiện
nay” năm 2003.
+ Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Văn Dũng về "Trách nhiệm Hình
str của người dưới 18 tuổi phạm tội trong luật Hình sự Việt Nam", năm 2003;

Ngồi những cơng trình trên cịn khá nhiều cơng trình khác được đăng
trên các báo cáo, các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành, là luận văn Thạc sĩ về
về thực hành quyền công tố ở những giai đoạn khác nhau của tố tụng Hình sự:

+ Nguyễn Đình Gấm: "Nguyên nhân tâm lý xã hội của tội phạm vị

thành niên", Tạp chí Tâm lý học số 5/2002
+ Trương Minh Mạnh: "Phân loại tội phạm với việc qui định trách

nhiệm Hình sự của người chưa thành niên", Tạp chí Kiểm sát số 8/2002

Tuy vậy, tính đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu toàn diện về
các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuối thực hiện từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh. Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ Thạc

sĩ. Nhũng bài viết, sách chun khảo và các cơng trình khoa học nêu trên là

những tài liệu tham khảo rất hữu ích và có giá trị trong q trình nghiên cứu
và hồn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.7. Mục đích nghiên cứu của luận vãn

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

3


và thực tiễn các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện trong

luật hình sự Việt Nam: khái niệm tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi
thực hiện; cấu thành tội phạm của nhóm tội này do chủ thể dưới 18 tuổi thực

hiện, làm rõ tình hình thực tể việc quy định đối với các tội xâm phạm sở hữu
trong giai đoạn 2017-2021, phân tích làm rõ các quy định và thực tiễn về

nhóm tội này do chủ thể người dưới 18 tuổi thực hiện và tìm ra ngun nhân

những hạn chế thiếu sót. Từ đó đưa ra phương hướng giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định pháp luật với tội xâm phạm sờ hữu do người dưới
18 tuổi thực hiện.
3.2. Nhiệm

vụ• của luận
vãn



- Khái qt tổng quan về tình hình nghiên cứu luận văn trong nước và
các đề tài nghiên cứu khác có liên quan nhằm kế thừa và tiếp tục xác định

nhũng vấn đề luận văn cần tiếp tục kế thừa, mở rộng nghiên cứu.

- Đánh giá chung được diễn biến của nhóm tội xâm phạm sở hữu qua
các thơng số từ thực tiễn báo cáo tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh từ đó khái quát chung về mức độ, diễn biến, tính chất đối với loại tội

phạm này.

- Làm rõ cơ sở lý luận, xác định các khái niệm có liên quan đến các tội
xâm phạm sở hữu và đối tượng thực hiện tội phạm là người chưa thành niên.

- Phân tích, đánh giá tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu ở tinh Bắc
Ninh; thực trạng giải quyết các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi

thực hiện thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh; trên cơ sở đó đánh giá những kết quả

đạt được, nhũng hạn chế trong công tác này, từ đó xác định nguyên nhân
những hạn chế đó.

- Xác định các quan điếm, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện thực
tiễn tại địa bàn tĩnh Bắc Ninh.


4


4. Đôi tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đoi tượng nghiên cứu

về đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về các tội xâm

phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của BLHS năm
2015, trọng tâm là các quy định tại chương XII, XVI cùa BLHS năm 2015.

Đồng thời nghiên cứu thực trạng của loại tội phạm này tại tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về các tội xâm phạm
sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện theo quy định của BLHS năm 2015;
tình hình thực
tế của loại
tội
nàyJ tại
tỉnh Bắc Ninh.



1phạm


5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


- Cơ sở tý luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí

Minh. Quan điểm, đường lối của Đàng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và

pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cải cách tư

pháp. Luận văn được trình bày trên cơ sở của nghiên cứu của luật Hình sự,
tố tụng Hình sự tội phạm học, tâm lý xã hội học thông qua những văn bản
quy phạm pháp luật, các bài nghiên cứu của các chuyên gia trong pháp luật

hình sự và tố tụng hình sự.
- Phương pháp luận

Luận văn dựa trên phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sờ chủ nghĩa
duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin; tư tưởng Hồ Chí Minh và

đường lối chính sách Đảng và pháp luật của Nhà nước trên cơ sở xây dựng và
định hướng chính sách pháp luật đối với các nhóm tội xâm phạm sở hữu do

người dưới 18 tuồi thực hiện, định hướng và quan điểm chỉ đạo của Đảng về
cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002

5


và Nghị quyêt 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.

- Phương pháp nghiên cứu cụ thế

Phương pháp phân tích, tổng hợp: được tác già sử dụng để phân tích

khái quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp

phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh.

Phương pháp thống kê Hình sự: là phương pháp kết hợp lý luận với
thực tiễn, xem xét vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận với
thực tiễn, các quy định của pháp luật về các tội XPSH và thực tiễn truy tố

đối với bị can thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh.
Phương pháp lịch sử: đòi hỏi nghiên cứu các tội xâm phạm sở hữu do

người dưới 18 tuổi thực hiện phải đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Phương pháp thống kê: được sử dụng khi đánh giá thực tiễn truy tố các tội
xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tình Bắc Ninh.
Phương pháp xin ý kiến các chuyên gia: được sử dụng trong quá trình

nghiên cứu là việc trao đổi với các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, cán bộ
có kinh nghiệm để khái quát chung, đưa ra góc nhìn tổng qt đối với các tội
xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
6. Những đóng góp mói của đề tài

Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn

diện và hệ thống về các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuối thực hiện


từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2017 - 2021. Chính vì vậy, luận văn có

một số đóng góp khoa học mới sau:
- Luận văn xây dựng được khái niệm về các tội xâm phạm sở hữu do

người dưới 18 tuổi thực hiện. Phân tích các quy định của pháp luật hình sự về
cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu, các quy định về xử lý hình

6


sự với người dưới 18 tuôi phạm tội. Đánh giá các quy định đó đê đưa ra
những hạn chế thiếu sót của các quy định trong Luật hình sự về các tội xâm

phạm sở hữu và người dưới 18 tuổi phạm tội
- Đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng, làm rõ nguyên nhân,
hạn chế trong quá trình áp dụng pháp luật và giải quyết các tội xâm phạm

sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh từ năm
2017 đến năm 2021.

- Đưa ra quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật các tội
xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh
trong thời gian tới nhàm bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của nhóm chủ thể

này góp phần xử lý đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật mà
vẫn đảm bảo tính nhân văn và phịng ngừa tội phạm.

- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác

nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các Trường Đại học chuyên ngành luật
và không chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng hoặc kết
quả nghiên cửu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các Điều tra

viên, kiếm sát viên ...
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 2 chương:

+ Chương 1: Một sổ vấn đề lý luận chung và các quy định pháp luật hình
sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện.

+ Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm

phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và
một số đề xuất kiến nghị.

7


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

HÌNH Sự VIỆT NAM VÈ CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HŨ U DO
NGƯỜI DƯỚI 18 TI THỤC
HIỆN




1.1. Khái niệm vê các tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 ti
thực
hiện



- về quyền sở hữu và tội phạm xâm phạm sở hữu
Sở hữu được hiểu theo nghĩa chung nhất đó là việc chiếm hữu, quản lý,

sử dụng
và định
đoạt
thì sở hữu là "Quan hệ• xã


• tài sản. Theo từ điển Luật
• học

hộỉ thơng qua đó xác định tài sán thuộc về ai? Do ai chiếm hữu, sử dụng và

định đoạt tài sản trong xã hội [54], Quyền sở hữu là một trong những quyền

cơ bản của công dân được pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng công nhận.

Ở Việt Nam, quyền này cũng được ghi nhận trong hệ thống pháp luật. Điều
32 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: ‘7. Mọi người có quyền sở hữu về thu
nhập hợp pháp, của cải đế dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất,

phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tô chức kinh tế khác. 2.

Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ... ”. Ngoài ra,
quyền sở hữu cũng được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự 2015. Trong Bộ luật

dân sự đã ghi nhận quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu đối với tài sản mà mình sở hữu hợp

pháp. Như vậy, mỗi quyền năng là một yếu tố cấu thành quyền sở hữu, trong
đó quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài sản

thuộc sở hữu của mình hoặc người khác thực hiện quyền này khi được chủ sở

hữu chuyển giao theo quy định của pháp luật; quyền sử dụng là quyền của chủ
sở hữu khai thác công dụng, hưởng lợi (hoa lợi, lợi tức) từ tài sản hoặc người
khác được chữ sở hữu giao cho quyền này theo quy định của pháp luật và
quyền định đoạt là quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu tài sản

8


của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyên sở hữu đó. Ví dụ, chủ sở hữu có
quyền tự minh bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, thừa kế, từ bị hoặc thực hiện
các hình thức định đoạt khác đối với tài sản.

Đặc điểm của quyền sở hữu thế hiện ở chồ cả ba quyền năng đó cùng
phát sinh đồng thời, dựa trên một căn cứ pháp lý nhất định như thông qua
hợp đồng mua bán, tặng cho, ... Mặt khác, theo quy định của pháp luật, chủ

sở hữu được thực hiện mọi hành vi trong chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản theo ý chí của mình đối với tài sản, miễn là không làm thiệt hại và ảnh
hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp


của người khác. Trong khi đó, pháp luật cũng quy định rằng người không

phải là chú sở hữu, nếu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản

khơng thuộc quyền sờ hữu của mình thì hoặc là phải theo thỏa thuận với chủ

sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật. Các quy định của pháp

luật về nội dung của quyền chủ sở hữu phụ thuộc vào chế độ kinh tế và cấu
trúc giai cấp của xã hội [23, tr. 111-114].

về việc bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu thì theo điều 163 Bộ luật

dân sự 2015 quy định: “1. Khơng ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật

quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản

Như vậy, khơng ai có quyền xâm

phạm quyền sở hữu của người khác một cách trái phép, mọi chủ thể đều phải
có nghĩa vụ tơn trọng, khơng được có nhũng hành vi có thể làm tổn hại đến
quyền chủ sở hữu, có tính bắt buộc đối với tất cả các chủ thế trong quan hệ

pháp luật dân sự. Trừ những trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an
ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà

nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân
theo giá thị trường. Do vậy, khi cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu trái


pháp luật của chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản họp pháp sẽ phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quyJ định của Luật Hình sự• Việt
Nam và trở thành tội






JL

phạm xâm phạm sở hữu.

9


Theo thạc sĩ Đinh Văn Quê thì: “Các tội phạm sở hữu là những hành vi

nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng
lực
trách nhiệm
hình sự••••
thực hiện một cách cổ ý hoặc vơ V, xâm .Lphạm
đến




quan hệ sở hữu, của cơ quan, tô chức và của công dân” [32]. Theo TS. Lê


Đăng Doanh các tội xâm phạm sở hữu được hiểu là: “Ke mặt khoa học các tội

xâm phạm sở hữu được hiêu là hành vi cỏ lỗi, gây thiệt hại cho các quan hệ sở
hữu ở mức độ nhất định và phản ánh đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã

hội của hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự là tội phạm” [11, tr. 9-10].

Ngồi ra, theo quan điểm của GS.TS Trần Minh Hưởng cho ràng/ ‘‘các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng
lực
và đạt đủ độ• ti theo luật
• trách nhiệm
• hình sự••
• định, thực hiện, gây
*/ thiệt
• hại


hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định cho quan hệ sở hữu... ” [19],

Như vậy, có thể hiểu là tội phạm xâm phạm sớ hữu cũng bao gồm
những dấu hiệu chung của khái niệm tội phạm được quy định tại Khoản 1

Điều 8 BLHS năm 2015. Theo đó, các tội xâm phạm sờ hữu là những hành vi

nguy hiềm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm
hình sự• và đạt
độ tuổi Luật
hình sự• quy

định thực hiện một cách cố Jý

••

!*/••••

hoặc vơ ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu mà theo quy định của BLHS phải bị

xử lý hình sự.
Tội phạm xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi nó
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ sở hữu được

pháp luật hình sự bảo vệ. Theo khoản 1 điều 2 BLHS 2015 quy định: “Chi
người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm

hình sự’’. Theo nguyên tắc đó có thể hiểu rằng chỉ những hành vi xâm phạm

sở hữu được quy định trong BLHS mới được coi là tội phạm xâm phạm sở
hữu. Trong BLHS 2015, các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại chưomg

XVI gồm có 13 điều luật. Căn cứ vào đây để xác định những hành vi nào là

10


hành vi xâm phạm sở hữu đê buộc các chủ thê thực hiện hành vi xâm phạm sở
hữu phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chủ thế thực hiện các hành vi

phạm tội phải do người có năng lực TNHS thực hiện. BLHS không quy định


cụ thể về năng lực TNHS mà chỉ quy định tình trạng khơng có năng lực
TNHS và tuổi chịu TNHS. Từ các quy định này có thể hiểu rằng tội phạm
xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đạt độ tuồi luật
định và là người nhận thức được và có khả năng điều khiến được hành vi cùa
mình. Cuối cùng, các tội xâm phạm sờ hữu là hành vi có lội. Lồi là thái độ

tâm lý của người thực hiện tội phạm đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
họ thực hiện và đối với hậu quả cho xã hội do hành vi đó gây ra. Lỗi được thể

hiện dưới hình thức cố ý (cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp) hoặc vô ý (vô ý do
quá tự tin hay vô ý do cẩu thả). Đa số các tội xâm phạm sở hữu được thực

hiện do lỗi cố ý. Chỉ có hai tội là thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng
đến tài sản của Nhà nước và tội vô ỷ gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là

các tội
được
thực
hiện
do lỗi vơ Jý.





Từ các luận điểm trên có thế hiểu tội phạm xâm phạm sở hữu là hành vi
nguy hiểm cho xã hội xâm phạm một cách cố ý hoặc vô ý đến các quan hệ sở

hữu được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện mà việc xâm hại này thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của tội


phạm.
- về người dưới 18 tuổi phạm tội

Ở nước ta, người được coi là có nhận thức đầy đủ là người từ 18 tuổi trở
lên và người dưới 18 tuổi, hay còn gọi là người chưa thành niên là “người chưa
đến tuôi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ” [39].

Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên họp quốc về bảo vệ người chưa

thành niên bị tước quyền tự do (Quy tắc Havana) được Đại hội đồng Liên họp
quốc thông qua ngày 14/12/1990 ghi nhận cụ thể: “Người chưa thành niên là

11


người dưới 18 tuôi. Giới hạn tuồi dưới mức này cân phải được pháp luật xác

định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên” [12]. về
quy tắc phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội được Liên Hợp Quốc thông
qua ngày 14/12/1990 mặc dù không đưa ra khái niệm cụ thể về người chưa đủ

18 tuổi phạm tội, song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu người

chưa thành niên là người dưới 18 tuối.
Trong BLHS hiện hành, vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội

được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung Chương XII. Trong đó quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi

phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội;

vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và

các vấn đề khác có liên quan.

Từ đó, mặc dù không quy định trong BLHS nhưng thuật ngữ ‘‘Người
dưới 18 tuổi phạm tội” được hiểu là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18

tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm. Tại điều 12 BLHS hiện hành quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình

sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150,

151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,

266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.

Như vậy, chỉ những người chưa đủ 18 tuổi thuộc trường hợp từ đủ 14

tuổi đến dưới 18 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội,
cịn người dưới 14 tuổi thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở

quy định của Bộ luật hình sự, một số tác giả đã đưa ra khái niệm người chưa

thành niên phạm tội tương đối đầy đủ trong khoa học pháp lý hình sự nhằm

12



xác định tính chât phạm tội của hành vi cũng như tạo điêu kiện cho việc áp

dụng hình phạt đối với người chưa thành niên sao cho phù hợp với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện trên cơ sở

những đặc điếm tâm lý, sinh lý của họ vào thời điểm họ phạm tội.
Theo TSKH.GS Lê Cảm và PGS.TS Đồ Thị Phượng thì người chưa

thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách
nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và có

lồi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm [3, tr. 91. Do đó, năm dấu hiệu cơ bàn về người chưa thành niên

phạm tội dưới khía cạnh pháp lý hình sự là:

1) Từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2) Có năng lực trách nhiệm hình sự
chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý; 3) Đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội; 4) Hành vi mà người chưa thành niên thực hiện là

hành vi bị pháp luật hình sự cấm; 5) Có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) khi thực hiện
hành vi phạm tội [38].

Như vậy, theo tác giả người dưới 18 tuồi phạm tội là người từ đủ 14

tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của
BLHS, cố ý hoặc vô ý thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS
quy định là tội phạm.


Trên cơ sở các lập luận trên, theo tác giả có thế đưa ra khái niệm về các
tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện như sau: “Các tội xâm

phạm sở hữu do người dưới 18 ti thực hiện có chủ thê thực hiện hành vi

phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi khơng ở trong tình trạng
khơng có năng lực TNHS, cố ỷ hoặc vơ ỷ thực hiện hành vi xâm hại đến quan
hệ sở hữu mà BLHS quy định phải xử lý hình sự
1.2. Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS 2015

1.2.1. Đặc điểm pháp lý

Trong BLHS hiện hành, tội phạm xâm phạm sở hữu được quy định tại

13


Chương XVI gôm 13 tội danh từ Điêu 168 đên Điêu 180 Bộ luật Hình sự. Đơi
với tội xâm phạm sở hữu do người dưới 18 tuổi thực hiện thì có những đặc

điểm như sau.
Thứ nhất, chủ thể cùa các tội xâm phạm sở hữu là người dưới 18 tuổi

thực hiện. Theo quy định của điều 12 và điều 90 BLHS 2015, người dưới 18

tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định là những người từ đủ 14 tuồi
đến dưới 18 tuổi. Như vậy, với những người chưa đủ 14 tuổi không thuộc
trường hợp phải chịu TNHS cho mọi loại tội.


Mặt dù các chủ thể thực hiện tội phạm là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên
cũng có sự phân hóa về trách nhiệm hình sự với hai nhóm tuổi: nhóm người

từ đủ 16 tuổi trở lên và nhóm người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Căn cứ
vào điều 12 thì với người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội
phạm xâm phạm sở hữu, tức là với 12 tội xâm phạm sở hữu được quy định
trong chương XVI BLHS 2015 thì khi có hành vi phạm tội người từ đủ 16

tuổi trở lên phải chịu TNHS. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì

tùy từng trường hợp mới phải chịu TNHS đối hành vi phạm tội xâm phạm đến
các quyền sở hữu. Người từ đủ 14 tuồi đến đến dưới 16 tuổi có năng lực

TNHS là chủ thể của các tội phạm sau đây: Tội cướp tài sản (Điều 168); Tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169); các tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng sau đây: Tội cưỡng đoạt tài sản (các khoản

2,3,4 Điều 170); tội cướp giật tài sản (các khoản 2,3,4 Điều 171); Tội trộm
cắp tài sản (các khoản 3,4 Điều 173); tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hòng tài
sản (các khoản 3,4 Điều 178).
Thứ hai, hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu tuy khác

nhau về hình thức thế hiện nhưng đều có cùng tính chất gây thiệt hại cho quan

hệ sở hữu, xâm phạm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ thể hợp
pháp của tài sản. Trong chương XVI BLHS 2015 dựa vào hành vi khách quan

14



có thê chia thành hai nhóm tội phạm: tội phạm xâm phạm sở hừu có tính chât

chiếm đoạt tài sản và tội phạm xâm phạm sở hừu khơng có tính chất chiếm

đoạt tài sản.

Khái niệm
chiếm đoạt
tài sản xuất hiện
từ khi có khái niệm
về tội
phạm





I

xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản. Theo GS.TS. Võ Khánh

Vinh thì: “Chiếm đoạt tài sản (xã hội chủ nghĩa hoặc của công dân) là co ý
chiếm lẩy khơng hồn lại một cách trái phép và biến nó thành tài sản của

mình hoặc chuyên cho người khác bằng hình thức quy định trong luật và có
tỉnh chất vụ lợi” [50]. Tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản

gồm 8 tội là: Tội “Cướp tài sản” (Điều 168), “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài

sản” (Điều 169), “Cưỡng đoạt tài sản” (Điều 170), “Cướp giật tài sản” (Điều

171), “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” (Điều 172), “Trộm cắp tài sản” (Điều
173), “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174), “Lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản” (Điều 175). Tội xâm phạm sở hữu khơng có tính chất chiếm đoạt
do người dưới 18 tuổi thực hiện gồm 5 tội là: “Tội chiếm giữ trái phép tài

sản” (Điều 176), “Tội sử dụng trái phép tài sản” (Điều 177); “Tội hủy hoạt
hoặc cố ý làm hư hỏng tái sản” (Điều 178); “Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt

hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” (Điều 179);
“Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” (Điều 180).

* Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Đối với tội “Cướp tài sản”(điều 168): Hành vi khách quan của tội cướp

tài sản là hành vi nhằm làm mất khả năng kháng cự của chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản. Hành vi này được thể hiện qua các dạng cụ thể: Dùng
vũ lực (dùng sức mạnh thể chất tác động đến cơ thể người bị hại); Đe dọa

dùng vũ lực ngay tức khắc (bằng lời nói, cừ chỉ, hành động truyền đạt đến

người bị hại thông điệp đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người đó
khơng giao tài sàn hoặc cản trở việc chiếm đoạt tài sản); Hành vi khác làm

15


cho người bị tân cơng lâm vào tình trạng khơng thê chông cự được (nhôt,

dùng thuốc mê...). Tội cướp tài sản là tội có CTTP hình thức và được coi là


hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi
khách quan nêu trên làm cho hoặc có khả năng làm cho người bị tấn cơng lâm
vào tình trạng khơng thể chống cự được, khơng kể người phạm tội có chiếm
đoạt được tài sản hay khơng.
Đối với tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản”(điều 169): Tội bắt cóc

nhằm chiếm đoạt tài sàn thế hiện bàng hành vi bắt cóc người khác làm con
tin. Đây là hành vi bắt trái pháp luật người khác và giữ ở một nơi với ý thức

sử dụng việc bắt giữ đó làm phương tiện để uy hiếp tinh thần người có tiền,
có tài sản để địi tiền, địi tài sản chuộc. Người bị bắt cóc thơng thường là

người có quan hệ thân thuộc với người có tài sản như con cái, cha, mẹ...nhưng
cũng có thề là bất kỳ người nào mà người phạm tội cho rằng có thế sử dụng

việc bắt giữ để uy hiếp tinh thần người có tài sản để người này phải bỏ ra một

khoản tiền hoặc tài sản chuộc theo yêu cầu người phạm tội. Tội phạm được

coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện xong hành vi bắt cóc con tin
và đe dọa người khác buộc phải giao tài sản.
Đối với tội “Cưỡng đoạt tài sản”(điều 170): Hành vi khách quan của tội

cưỡng đoạt tài sản có thể là hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc hành vi khác
uy hiếp tinh thần người khác. Hành vi đe dọa dùng vũ lực là hành vi thể hiện

thái độ, cừ chỉ, lời nói là cho người bị tấn cơng cảm giác sợ hãi và tin rằng

người phạm tội sẽ dùng vũ lực nếu họ không giao tài sản. Khác với hành vi đe
dọa trong tội cướp tài sản, hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực trong tội cưỡng đoạt


tài sản là đe dọa sẽ dùng vũ lực trong tương lai. Sức mãnh liệt cùa hành vi đe
dọa chưa đến mức có thể làm tê liệt ý chí chống cự của người bị đe dọa mà

chỉ có khả năng khống chế ý chí cúa họ. Người bị đe dọa có thể cịn có điều
kiện suy nghĩ, cân nhắc để lựa chọn xứ sự của mình.

16


Đôi với hành vi khác uy hiêp tinh thân người khác thê hiện là hành vi
đe dọa sẽ gây thiệt hại về tài sản, danh dự, uy tín... nếu như người bị uy hiếp

không thỏa mãn các yêu cầu của người phạm tội. Điều luật không giới hạn
những thủ đoạn của hành vi uy hiếp tinh thần của tội cưỡng đoạt tài sản. Bất
cứ thủ đoạn uy hiếp nào, khổng chế được ý chí của người khác đều được coi

là thủ đoạn của hành vi uy hiếp tinh thần trong tội cưỡng đoạt tài sản. Tội
cưỡng đoạt tài sản hoàn thành từ thời điểm người phạm tội có một trong các

hành vi được quy định trong điều luật, không phụ thuộc vào việc người phạm
tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa.

Đối với tội “Cướp giật tài sản”(điều 171): là hành vi cơng khai nhanh
chóng chiếm đoạt tài sản mà không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc uy
hiếp tinh thần người khác. Cơng khai nhanh chóng chiếm đoạt tài sản được

hiểu là người phạm tội lợi dụng điều kiện khách quan đề công khai (người

phạm tội khơng có ý thức che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình đối

với người quản lý tài sản) nhanh chóng (chiếm đoạt tài sản một cách bất ngờ
trong một khoảng thời gian ngắn) chuyển dịch tài sản từ người quản lý tài sản

sang người phạm tội mà không dùng vũ lực hoặc đe dọa, uy hiếp nào. Khi

thực hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội khơng có ý thức chiếm
đấu với chủ sở hữu như ở tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản. về lý luận,

các tài liệu nghiên cửu đều cho rằng, tội cướp giật tài sản được coi là hoàn

thành khi người phạm tội có hành vi chiếm đoạt tài sản.
Đối với tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” (Điều 172): qua thực tiễn

xét xử thừa nhận hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi lợi dụng chủ

tài sản khơng có điều kiện ngăn cản cơng khai chiếm đoạt tài sản của họ. Tính
cơng khai giống như hành vi cướp giật tài sản những hành vi công nhiên

chiếm đoạt tài sản xảy ra trong hoàn cảnh người chủ sở hữu khơng có điều

kiện để ngăn cản. Do vậy, người phạm tội không cần và không cỏ ý định sữ

17


dụng thủ đoạn nào khác đê đơi phó với chủ tài sản. Hành vi công nhiên chiêm

đoạt tài sản cấu thành tội chiếm đoạt tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu
hiệu sau: Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên; dưới


2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường họp sau đây: Đã bị xử phạt
hành chính về hành vi chiếm đoạt
tài sản mà cịn vi phạm
hoặc
đã bị• kết án về

1


các tội vi phạm quy định tại Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290

BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sàn là phương tiện kiếm sống
chính của bị hại và gia đình họ.
Đối với tội “Trộm cắp tài sản” (điều 173): qua thực tiễn xét xử thừa

nhận, hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản đang có người quản lý. Hành vi được coi là lén lút nếu được thực hiện
bằng hình thức đó có khả năng khơng cho phép chủ tài sản biết có hành vi
chiếm đoạt khi hành vi xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút,

che dấu này có thể là che dấu tồn bộ hành vi phạm tội hoặc chỉ che giấu tính
chất phi pháp của hành vi. Hành vi Trộm cắp tài sản chỉ cấu thành tội trộm

cắp tài sản khi thởa mãn một trong số các dấu hiệu sau: Tài sản chiếm đoạt trị
giá 2.000.000 đồng trở lên, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000 đồng
nhưng người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi chiếm đoạt tài sàn mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này


hoặc các tội được quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và
290 BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm hoặc gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ hoặc tài sản là di vật, cổ vật.

Đối với tội “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (điều 174): Hành vi khách
quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi dùng thủ đoạn gian dối

chiếm đoạt tài sản. Hành vi này được tạo bởi hai hành vi khác nhau là hành vi

18


gian dôi và hành vi chiêm đoạt tài sản của người khác. Hai hành vi này có
quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó hành vi gian dối là thủ đoạn, là tiền đề để

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Hành vi gian dối được hiểu là cố ý đưa

ra thông tin không đúng sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản tin đó là sự thật, về mặt chú quan, người phạm tội biết đó là thơng tin giả
và mong muốn người khác tin đó là sự thật, để được họ giao tài sản. ờ đây ta

cần chú ý, thủ đoạn gian dối cịn có trong nhiều tội phạm khác như: Tội đánh

bạc, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ... Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản chỉ cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi: Tài sản chiếm đoạt có

giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên. Tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn dưới

2.000.000 đồng nhưng người thực hiện hành vi đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về các tội được quy định tài các Điều 168,

169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 BLHS năm 2015 và chưa được xóa án

tích; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tài sản là phương

tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Đối với tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (điều 175): bao

gồm 02 nhóm hành vi cụ thể như sau: Một là, vay, mượn, thuê tài sản của

người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bàng các hình thức hợp
đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đã
đến thời hạn trả lại tài sản đó và mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình
khơng trả. Hai là, vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận được tài sản của người

khác bằng các hình thức họp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất

họp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản. Hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

sản khi: Tài sản chiếm đoạt có giá trị từ 4 triệu đồng nhưng người thực hiện
hành vi đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị

kết án về các tội quy định tại Điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175, 290

19



×