THẢO LUẬN MƠN LUẬT HÌNH SỰ (Phần chung) – BUỔI 3
CỤM 2: TỘI PHẠM VÀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
NHÓM: HLM GROUP – LỚP TM42A2
I. THÀNH VIÊN NHÓM
1. Nguyễn Thị Bích Hồng - 1753801011066
2. Nguyễn Mai Lan Hương - 1753801011069
3. Huỳnh Ngọc Loan - 1753801011106
4. Lê Thị Bích Loan - 1753801011107
5. Nguyễn Thị Thu Mai - 1753801011113
6. Nguyễn Văn Minh - 1753801011115
7. Nguyễn Thị Mỹ Mỹ - 1753801011121 (Nhóm trưởng)
II. NỘI DUNG BÀI LÀM
1. Nhận định
Nhận định 10. Một tội phạm nếu trên thực tế đã làm cho đối tượng tác động
của tội phạm tốt hơn so với tình trạng ban đầu thì khơng bị coi là gây thiệt hại cho
xã hội.
Nhận định: Sai
Bởi vì mọi hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
tác động thì đều gây thiệt hại cho xã hội. Ở đây biến đổi tình trạng bình thường của
đối tượng tác động có thể tốt hơn hoặc xấu đi. Ví dụ: A lấy trộm chiếc xe của B, mặc
dù sau đó A đã bảo trì, nâng cấp chiếc xe nhưng A đã gây thiệt hại đến quyền sở hữu
của B. Cho nên hành vi trên của A vẫn bị coi là gây thiệt hại cho xã hội.
Nhận định 16. Mọi xử xự của con người gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại cho xã hội đều được coi là hành vi khách quan của tội phạm.
Nhận định: Sai.
Vì, hành vi khách quan của tội phạm phải đảm bảo thỏa mãn ba đặc điểm, bao
gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, xử sự có ý thức và ý chí của con người, trái pháp luật
hình sự. Như vậy, trong trường hợp trên, xử sự của con người gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho xã hội nhưng không thỏa mãn hai đặc điểm cịn lại thì vẫn khơng
được coi là hành vi khách quan của tội phạm.
Nhận định 17. Tội liên tục là trường hợp phạm tội nhiều lần.
Nhận định: Sai.
1
Vì khi nhiều hành vi phạm tội diễn ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, xâm hại
cùng một khách thể và bị chi phối bởi ý định phạm tội cụ thể mới được xem là tội liên
tục.
Nhận định 20. Người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong BLHS thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhận định: Sai.
Vì dựa vào Điều 21 BLHS người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội chỉ không phải chịu trách nhiệm hình sự khi người đó mất hồn tồn
khả năng nhận thức hoặc hoàn toàn khả năng điều khiển hành vi của mình. Trường
hợp người mắc bệnh tâm thần nhưng hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành
vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự và tình trạng bệnh tật được xem là tình tiết giảm
nhẹ TNHS (điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS)
CSPL: Điều 21, điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS
Nhận định 27. Người bị cưỡng bức về tinh thần thì khơng phải chịu trách
nhiệm hình sự về xử sự gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
Nhận định: Sai
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 51 BLHS
Vì bị cưỡng bức về tinh thần là trường hợp 1 người làm hoặc không làm 1 việc
gây thiệt hại cho nhà nước, cho tập thể hoặc cho công dân khác do bị người khác
cưỡng ép bằng những thủ đoạn đe dọa khác nhau. Hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã
hội này có thể vẫn bị coi là tội phạm nếu không thỏa mãn các điều kiện của tình trạng
(bị) cưỡng bức; hoặc khơng bị coi là tội phạm khi thỏa mãn điều kiện của tình trạng
(bị) cưỡng bức. Như vậy, Người bị cưỡng bức về tinh thần thì có thể sẽ phải chịu trách
nhiệm
hình
sự
về
xử sự gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong BLHS.
Xét điều 25 BLHS thì trường hợp bị cưỡng bức về mặt tinh thần cũng không
nằm trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự vậy nên có thể coi đây là một
tình tiết giảm nhẹ.
Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét nhiều trường hợp cụ thể trên thực tế xảy ra.
Đó là trường hợp phạm tội trong tình thế cấp thiết. Tức là bạn bị cưỡng ép về tinh thần
để phạm tội trong một tình huống cấp thiết nào đó. Theo Điều 23 Bộ luật hình sự hiện
hành thì: “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại
cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của
cơ quan, tổ chức mà khơng cịn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt
hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết khơng phải là tội
phạm….”
Nhận định 28: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là tiền đề để xác định lỗi của
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Nhận định: Sai
2
Vì lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý và
vơ ý. Tức là để xác định xem người đó có lỗi hay khơng thì dựa vào thái độ của họ đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và thái độ của họ đối với hậu quả do hành
vi đó gây ra, khơng dựa vào tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người đó.
2. Bài tập
Bài tập 11:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là gì?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của anh Trung gồm có:
- Con người cụ thể là bé Vy, chị Xuân
- Tài sản cụ thể là căn nhà và các tài sản khác trong căn nhà
2. Hành vi của Trung đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp?
Hành vi của Trung đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp là: Quyền được sống
của bé Vy và quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của chị Xuân.
3. Xét về hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc loại?
Xét về hình thức thể hiện, thì hành vi phạm tội của Trung thuộc loại cố ý gián
tiếp:
- Lí trí:
+ Đối với hành vi: Trung đã nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi
+ Đối với hậu quả: Thấy trước được hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra
- Ý chí: Anh Trung không mong muốn cháu Vy và chị Xuân chết nhưng biết
trước hành vi của mình có thể nguy hiểm đến tính mạng người khác mà vẫn để mặc
cho hậu quả xảy ra
4. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là gì? Mức độ thiệt hại
của mỗi loại hậu quả là như thế nào?
- Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là loại thiệt hại về vật chất
(Thiệt hại về vật chất thường được thể hiện thông qua sự biến đổi tình trạng bình
thường của các đối tượng vật chất là khách thể của quan hệ xã hội. Ví dụ, tài sản bị
phá huỷ, bị chiếm giữ, bị sử dụng trái phép...): Một phần vách nhà và tài sản trong nhà
(gồm giường, tủ, bàn ghế) bị cháy, tổng thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng
- Và thiệt hại về thể chất (Thiệt hại về thể chất biểu hiện qua sự biến đổi tình
trạng bình thường của thực thể tự nhiên con người. Nó có thể là tính mạng, sức khoẻ...
): Cháu Vy chết, chị Xuân bị bỏng năng với tỷ lệ thương tật là 41%
5. Dạng quan hệ nhân quả giữ hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án
này? Tại sao?
Dạng quan hệ nhân quả giữ hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án này là
mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp vì chỉ có một hành vi trái pháp luật - hành vi dùng
3
xăng tưới lên nền nhà và vách nhà bằng gỗ sau đó bật quẹt làm lủa bùng cháy của
Trung đống vai trò là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả gây nguy hiểm cho xã hội
là gây thiệt hại về tài sản Một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn
ghế) bị cháy, tổng thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng) , làm cháu Vy chết và chị Xuân
bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là 41%
6. Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại trong vụ án trên? Tại sao?
Đối với thiệt hại về vật chất: thì lỗi của Trung là lỗi cố ý trực tiếp vì khi Trung
thực hiện hành vi tưới xăng nhằm đốt nhà thì Trung nhận thức rõ hành vi của mình là
nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả là sẽ gây cháy nhà và mong muốn
hành vi đó xảy ra “Tao đốt nhà rồi trả lại cho bà Liêu” nên theo khoản 1 Điều 10
BLHS 2015 thì lỗi của Trung đối với thiệt hại về vật chất là lỗi cố ý trực tiếp.
Đối với thiệt hại về thể chất: lỗi của Trung là lỗi cố ý gián tiếp vì Trung này chỉ
muốn đốt nhà mẹ cho bỏ tức chứ khơng có ý định làm hại bé Vy và chị Xuân mà khi
được chị Xuân ngăn cản nhưng không nghe cho thấy đây là dù biết hành vi nguy hiểm
và dẫn đến hậu quả nhưng vẫn bỏ mặc để hậu quả xảy ra.
Bài tập 12:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện?
Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện là chị X và sợ dây
chuyền của chị X
2. Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp nào?
Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp là: quyền sở hữu tài sản là
sợ dây chuyền của chị X và quyền được sống, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe
của chị X
3. Loại hậu quả của hành vi phạm tội do A thực hiện?
Loại hậu quả của hành vi phạm tội do A thực hiện là hậu quả vật chất (thiệt hại
về tài sản của chị X) và hậu quả phi vật chất (hậu quả về thể chất, thiệt hại về tính
mạng của chị X)
4. Thái độ tâm lý đối với hành vi cướp giật tài sản và gây ra cái chết cho nạn
nhân của A trong vụ án này có phải trường hợp “hỗn hợp lỗi” hay không? Tại
sao?
Trong vụ án này, đây là trường hợp “hỗn hợp lỗi”. Vì:
Đối với tài sản của chị X: A thực hiện hành vi cướp giật sợi dây chuyền của chị
X là có mục đích nên thấy trước được hành vi của mình là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước được hậu quả xảy ra. Và chắc chắn rằng, A mong muốn chiếm đoạt
được tài sản đó, tức mong muốn hậu quả xảy ra. Vậy nên, đây là lỗi cố ý trực tiếp.
Đối với tính mạng của chị X: khi thực hiện hành vi cướp giật, A thấy được hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Khi giật nhanh khi hai xe đang lưu thông sẽ dẫn đến mất
thăng bằng có thể gây tai nạn, A thấy trước được nhưng vẫn bỏ mặc hậu quả xảy ra chỉ
để đạt mục đích chiếm đoạt dây chuyền. Vậy nên, đây là lỗi cố ý gián tiếp
Thế nên trong vụ việc này có thể cả lỗi cố ý gián tiếp và vơ ý vì q tự tin.
4
Bài tập 14:
1. Đối tượng tác động và khách thể bị xâm phạm trong vụ án trên?
- Đối tượng tác động: nam sinh lớp 10 (B)
- Khách thể bị xâm phạm trong vụ án trên: tính mạng của con người.
2. Trong trường hợp trên có sai lầm thực tế hay khơng? Nếu có, thì đó là sai
lầm nào? Tại sao?
Trường hợp trên có sai lầm thực tế: sai lầm về đối tượng tác động.
Vì chủ thể A có ý định xâm hại đối tượng X nhưng lại xâm hại đối tượng (B).
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án này
thuộc dạng nào? Tại sao?
- Quan hệ nhân quả đơn trực tiếp.
- Vì chỉ có một hành vi của A (dùng dao nhọn đâm hai nhát ngay tim nạn nhân)
là nguyên nhân dẫn đến hậu quả là B chết.
5