Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
VẤN ĐỀ 2: TỘI PHẠM VÀ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
A. Giới thiệu
- Xin chào anh (chị);
- Bài học này sẽ giới thiệu cho anh (chị) khái niệm tội phạm và hiểu được những yếu
tố cấu thành tội phạm. Đây là một trong những nội dung cơ bản nhất của luật hình sự.
Anh (chị) sẽ phần nào phân biệt được giữa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác
thông qua những dấu hiệu đặc trưng của tội phạm.
- Mục tiêu chung: Sau khi học xong bài học này, anh (chị) sẽ xác định được các yêu tố
cấu thành tội phạm để hiểu được cách quy định của nhà làm luật trong Bộ luật hình sự.
- Mục tiêu cụ thể: học xong bài này, anh (chị) sẽ:
+ Nắm bắt được các dấu hiệu của tội phạm.
+ Làm được các bài tập về phân loại tội phạm.
+ Xác định được bốn yếu tố cấu thành tội phạm.
+ Phân biệt được các loại cấu thành tội phạm.
- Hướng dẫn phương pháp học: Để học có hiệu quả bài học này, anh (chị) nên đọc một
số điều luật cụ thể trong Bộ luật hình sự để thấy được cách quy định của nhà làm luật;
đọc giáo trình và các tài liệu tham khảo để hình dung ban đầu về các yếu tố cấu thành
tội phạm.
B. Nội dung bài học
Phần I: Khái niệm tội phạm
- Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc
điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự mỗi nước. Đây cũng là một
trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự bởi lẽ khi nói đến luật hình sự là
nói đến tội phạm và hình phạt, đó là hai nội dung cơ bản nhất của luật hình sự, thiếu
một trong hai nội dung đó không còn là luật hình sự nữa.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
1
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
- Mục tiêu mà người học cần đạt được: Sau khi học xong phần nội dung này, anh (chị)
cần nắm được tội phạm là gì, cách phân loại tội phạm và tội phạm khác các vi phạm
pháp luật khác ở chỗ nào?
- Nội dung học tập
Trong vấn đề về khái niệm tội phạm, giảng viên sẽ cùng các bạn tìm hiểu ba nội dung
cơ bản, bao gồm:
1. Định nghĩa tội phạm;
2. Các dấu hiệu (hay còn gọi là đặc điểm) của tội phạm;
3. Phân loại tội phạm.
Định nghĩa tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 như sau: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Định nghĩa này là định nghĩa có tính khoa học đã thể hiện tập trung nhất quan điểm
của Nhà nước ta về tội phạm, đồng thời là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định
những loại tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. Từ định nghĩa đầy đủ
này, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa tội phạm một cách khái quát như sau: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình
phạt”.
Bất kỳ tội phạm nào cũng được thể hiện bằng hành vi. Những gì mới chỉ trong tư
tưởng, nếu chưa thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi cụ thể thì không thể là tội phạm.
Tuy nhiên, không phải hành vi nào cũng bị coi là tội phạm. Hành vi bị coi là tội phạm
phải thỏa mãn các dấu hiệu sau: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp
luật hình sự và tính phải chịu hình phạt.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
2
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
+ Tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những
dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong BLHS là tội phạm vì
nó có tính nguy hiểm cho xã hội. Nguy hiểm cho xã hội về mặt khách quan có nghĩa là
gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Nguy hiểm cho xã hội về mặt chủ quan là người có hành vi gây thiệt hại hoặc
đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội phải có lỗi.
+ Tính có lỗi: Lỗi được hiểu là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó được thể hiện dưới dạng
cố ý hay vô ý. Hoạt động tâm lý của con người bình thường bao giờ cũng có sự tham
gia của lý trí và ý chí. Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho
xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi
họ có đủ điều kiện quyết định để thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Luật hình sự Việt Namkhông chấp nhận hình thức buộc tội khách quan, nghĩa là quy
trách nhiệm hình sự chỉ căn cứ vào việc một người đã có hành vi gây thiệt hại cho xã
hội mà không căn cứ vào lỗi của họ. Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi là xuất phát từ
nguyên tắc nhân đạo. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị kẻ phạm tội mà còn nhằm
cải tạo, giáo dục người phạm tội, giúp họ trở thành người tốt, công dân có ích cho xã
hội.
+ Tính chịu hình phạt được coi là dấu hiệu của tội phạm là vì nó được xác định bởi
chính những thuộc tính khách quan bên trong của tội phạm đó là tính nguy hiểm cho
xã hội và tính trái pháp luật hình sự. Nói tội phạm có tính chịu hình phạt có nghĩa là
bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm cho xã hội cũng đều bị đe doạ chịu
hình phạt.
Theo khoản 1 Điều 9 BLHS, tội phạm được chia làm 4 loại là: tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là
phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 3 năm.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
3
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 3
năm tù đến 7 năm tù.
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là
từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù.
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với
tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
- Câu hỏi thảo luận:
+ Trong các dấu hiệu của tội phạm, dấu hiệu nào là cơ bản, quan trọng nhất?
+ Vì sao phải phân loại tội phạm?
Phần II: Các yếu tố cấu thành tội phạm
- Xét về bản chất, nội dung chính trị, xã hội và nội dung pháp lý thì tội phạm là hiện
tượng xã hội có tính giai cấp và tính lịch sử được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã
hội và tính trái pháp luật hình sự. Tuy nhiên, xét về cấu trúc, mọi tội phạm đều được
hợp thành bởi những yếu tố nhất định. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, những
yếu tố đó bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm..
- Mục tiêu mà người học cần đạt được: Sau khi học xong phần nội dung này, anh (chị)
cần xác định được bốn yếu tố cấu thành tội phạm và hiểu được những nối dụng cơ bản
của mỗi yếu tố.
- Nội dung học tập
ề nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý thì tội phạm là hiện tượng xã hội có
tính giai cấp và tính lịch sử được đặc trưng bởi tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái
pháp luật hình sự. Tuy nhiên, xét về cấu trúc, mọi tội phạm đều được hợp thành bởi
những yếu tố nhất định, bao gồm: khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan
của tội phạm.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
4
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
(1) Về khách thể: Tội phạm bao giờ cũng xâm hại quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Khách thể của tội phạm được xác định là 1 trong 4 yếu tố không thể
thiếu của Tội phạm. Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây ra
hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại nhất định cho quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Nếu không có sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này thì rõ
ràng hành vi không được coi là nguy hiểm cho xã hội vì nó không xâm phạm
đến lợi ích của người khác.
(2) Mặt khách quan: Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện
ra bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể trực tiếp nhận biết được.
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Những biểu hiện của tội phạm diễn biến ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người
có thể trực tiếp nhận biết được như: Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội;
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả và các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
(3) Chủ thể: Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố không thể thiếu của tội
phạm. Chủ thể của tội phạm là người hoặc pháp nhân thương mại đã thực hiện
hành vi phạm tội cụ thể. Tuy nhiên không phải cá nhân hay pháp nhân thương
mại nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm. Cá nhân là chủ thể của tội
phạm phải thỏa mãn hai điều kiện là có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Pháp nhân chỉ trở thành chủ thể
của tội phạm nếu thỏa mãn các quy định tại Điều 75 BLHS đó là: Hành vi phạm
tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; vì lợi ích của pháp nhân
thương mại và có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương
mại.
(4) Mặt chủ quan: Mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của
người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong đó, lỗi là nội
dung được xác định quan trọng nhất. Luật hình sự Việt Nam chia lỗi thành hai
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
5
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
loại là cố ý và vô ý. Lỗi cố ý gồm hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián
tiếp. Lỗi vô ý cũng gồm hai hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.
(5) Lỗi:
- Câu hỏi thảo luận
+ Phân biệt các hình thức lỗi.
+ Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng say có phải
chịu tarshc nhiệm hình sự không?
Phần III: Cấu thành tội phạm
- Các trường hợp phạm tội khác nhau có thể khác nhau về tính chất của loại tội phạm,
khác nhau về tính nguy hiểm cho xã hội… Để có thể xử lý phù hợp tất cả các hành vi
phạm tội đòi hỏi nhà làm luật phải xác định và quy định trong luật khuôn mẫu pháp lý
riêng cho từng loại tội cụ thể. Trong khuôn mẫu đó vừa phải bảo đảm khái quát được
tất cả các dấu hiệu chung của loại tội được phản ánh, vừa phải giúp chúng ta phân biệt
với các loại tội khác. Trong khoa học pháp lý hình sự, khuôn mẫu pháp lý này được
gọi là cấu thành tội phạm.
- Mục tiêu mà người học cần đạt được: Sau khi học xong phần nội dung này, anh (chị)
cần hiểu được bản chất của cấu thành tội phạm, phân biệt các loại cấu thành tội phạm
khác nhau.
- Nội dung học tập
CTTP chính là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự, là công
cụ giúp chúng ta nhận diện tội phạm cũng như giúp phân biệt từng loại tội cụ thể với
nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các yếu tố của tội phạm đều được mô tả trong
CTTP mà chỉ những dấu hiệu nào mang tính đặc trưng cho từng loại tội nhất định mới
được nhà làm luật mô tả trong CTTP.
Trong các dấu hiệu của 4 yếu tố của tội phạm, có những dấu hiệu bắt buộc phải
được mô tả trong tất cả các CTTP, có những dấu hiệu có thể có trong CTTP của tội
này nhưng lại không có trong CTTP của những tội khác. Cụ thể, những dấu hiệu bắt
buộc phải có trong tất cả các CTTP là: Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan
của tội phạm; dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của tội phạm và các dấu hiệu
thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
6
Viện Đại Học Mở Hà Nội
Cơ hội học tập cho mọi người
CTTP có thể được phân thành các loại khác nhau dựa vào các tiêu chí phân loại khác
nhau.
Phân loại theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà CTTP phản ánh thì
CTTP được chia thành CTTP cơ bản, tăng nặng và CTTP giảm nhẹ. Theo đó, CTTP
cơ bản là CTTP chỉ có dấu hiệu định tội, CTTP tăng nặng là CTTP mà ngoài dấu hiệu
định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội
tăng lên một cách đáng kể; CTTP giảm nhẹ là CTTP mà ngoài dấu hiệu định tội còn có
thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội giảm
xuống một cách đáng kể.
Phân loại theo đặc điểm cấu trúc của CTTP thì CTTP được chia thành CTTP vật
chất và CTTP hình thức. Theo đó, CTTP hình thức là CTTP có một dấu hiệu của mặt
khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội. CTTP vật chất là CTTP có các dấu hiệu
của mặt khách quan là hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả.
- Câu hỏi thảo luận: Phân biệt cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm hình
thức?
C. Phần kết
Chúc mừng anh (chị) đã hoàn thành bài học.
Bài học này đã nêu ra khái niệm tội phạm, các dấu hiệu của tội phạm và cách phân loại
tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự. Đồng thời giới thiệu khuôn mẫu pháp lý
của tội phạm là cấu thành tội phạm với những yếu tố cấu thành tội phạm để anh (chị)
hình dung cụ thể về cấu trúc của một tội phạm cụ thể.
Luật Hình sự Việt Nam – Bài 2
7