1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÀI KIỂM
TRA BỘ PHẬN
MÔN: LUẬT NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NỢ VÀ LÃI SUẤT QUÁ HẠN
TRONG BẢN ÁN SỐ 02/2017/KDTM-ST
MỤC LỤC
Mục lục........................................................................................02
2
Tóm tắt......................................................................................... 03
I. Nội dung...................................................................................04
1.1. Nợ quá hạn.........................................................................04
1.1.1. Khái niệm..................................................................04
1.1.2. Quy trình thu nợ quá hạn của ngân hàng....................04
1.1.3. Gia hạn nợ quá hạn....................................................05
1.1.4. Xử lí tài sản bảo đảm khi nợ quá hạn.........................07
1.2. Lãi suất quá hạn..................................................................08
1.2.1. Khái niệm lãi suất quá hạn.........................................08
1.2.2. Áp dụng lãi suất quá hạn............................................08
1.2.3. Thời hạn áp dụng lãi suất quá hạn..............................10
II. Kết luận...................................................................................12
Danh mục tài liệu.........................................................................13
Bảng phân chia cơng việc.............................................................14
Bản án 02/2017/KDTM-ST..........................................................15
TĨM TẮT BẢN ÁN SỐ 02/2017/KDTM-ST
Ngày 27/4/2016 và ngày 19/5/2016 giữa Ngân hàng TMCP K với vợ chồng ông
Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H ký kết 02 hợp đồng tín dụng gồm: hợp đồng
số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/4/2016 với số tiền 202.000.000 đồng, thời hạn
vay 60 tháng; Tài sản thế chấp để bảo đảm là quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
234,9m2 thửa số 41 tờ bản đồ 117 theo giấy chứng nhận QSDĐ số BS 887480 do
UBND thị xã S cấp cho bà Nguyễn Thị Thanh H ngày 15/12/2014. Hợp đồng tín dụng
số 083/16/HĐTD/2310-5548 ký ngày 19/5/2016 với số tiền vay 202.000.000 đồng, thời
hạn vay 60 tháng; Tài sản thế chấp để đảm bảo là quyền sử dụng đất diện tích đất
1.626m2 thửa 592 tờ bản đồ số 16 ĐC theo giấy chứng nhận QSDĐ số BV340893 do
UBND thị xã S cấp cho ông Phạm Văn H ngày 09/02/2015.
Sau khi giải ngân vợ chồng ông, bà H đã thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng
TMCP K đối với hợp đồng 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/4/2016 được 04 kỳ,
3
trả nợ cho ngân hàng đối với hợp đồng 083/16/HĐTD/ 2301-5548 ký ngày 19/5/2016
được 03 kỳ. Số kỳ còn lại vợ chồng ông, bà H không tiếp tục thực hiện.
Ngày 16/01/2017 Ngân hàng Thương mại cổ phần K khởi kiện đề nghị Tồ án: buộc vợ
chồng ơng, bà H thanh tốn tồn bộ tiền gốc và lãi suất của hai Hợp đồng; giao cho
Ngân hàng K tài sản mà vợ chồng ông, bà H đã thế chấp để đảm bảo cho Ngân hàng K
thu hồi vốn.
Toà án nhận định hợp đồng giao kế hai bên là phù hợp pháp luật và hai bên có
quyền và nghĩa vụ tương ứng trong hợp đồng. Toà án chấp nhận yêu cầu của ngân hàng
K. Buộc vợ chồng ông, bà H trả số tiền vay cả gốc lẫn lãi, lãi chậm trả cho ngân hàng K
và giao tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án. Toà án áp dụng án lệ số 08/2016/AL để
yêu cầu ông bà phải chịu lãi quá hạn của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất hai
bên thoả thuận từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi trả hết khoản nợ.
VẤN ĐỀ PHÁP LÝ:
1. Hợp đồng tín dụng có giá trị pháp lý hay khơng?
2. Bên vay có vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi không?
3. Tài sản thế chấp được xử lý như thế nào? (để thu hồi nợ cho Ngân hàng thương mại
cổ phần K)
4. Nợ và lãi suất q hạn trong hợp đồng tín dụng.
Nhóm em xin bình luận về vấn đề nợ và lãi suất quá hạn trong hợp đồng tín dụng
được đặt ra trong bản án số 02/2017/KDTM-ST.
I. NỘI DUNG
1.1. NỢ QUÁ HẠN
1.1.1. Khái niệm:
Điều 20 Thơng tư 39/2016 quy định: “Tổ chức tín dụng chuyển nợ quá hạn đối
với số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và khơng
được tổ chức tín dụng chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ; thông báo cho khách
hàng về việc chuyển nợ quá hạn. Nội dung thông báo tối thiểu bao gồm số dư nợ gốc bị
quá hạn, thời điểm chuyển nợ quá hạn và lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá
hạn.” (1) Điều 20 Thông tư 39/2016 khác nhiều so với qui định về nợ quá hạn quy định
trước đó tại khoản 2 Điều 13 Quyết định 1627/2001: “Khi đến kỳ hạn trả nợ gốc hoặc
lãi, nếu khách hàng không trả nợ đúng hạn và không thể được điều chỉnh kỳ hạn nợ
gốc hoặc lãi hoặc không được gia hạn nợ gốc hoặc lãi, thì tổ chức tín dụng chuyển
tồn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn.”.(2) Với quy định mới thì chỉ cần người vay khơng
thực hiện đúng các cam kết của mình trong hợp đồng tín dụng và khơng được tổ chức
tín dụng chấp nhận gia hạn nợ thì tất cả khoản nợ còn lại đều bị chuyển sang nợ quá
hạn.
4
Trong bản án 02/2017/KDTM-ST thì ơng bà H đã khơng thực hiện đúng hạn và
đầy đủ cả hai Hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và
hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016. Thoả thuận cụ thể
như sau: “Bên cho vay được quyền tự động chuyển sang nợ q hạn tồn bộ số dư nợ
cịn lại của hợp đồng tín dụng nếu bên vay khơng trả được nợ gốc và lãi đúng hạn theo
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”. Ngân hàng cũng đã thơng báo và yêu cầu ông bà
H tiếp tục thực hiện hợp đồng nhưng vợ chồng ông bà H vẫn không thực hiện. Do đó,
nhóm em nhận định rằng vợ chồng ơng bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi của
bên vay theo thoả thuận tại hai Hợp đồng tín dụng nói trên. Từ các căn cứ nêu trên thì
Ngân hàng TMCP K chuyển nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà ông bà H không trả
được. Và từ đó, thì ta thấy hướng giải quyết của Tồ án là có căn cứ.
1.1.2. Quy trình thu nợ quá hạn của ngân hàng:
Việc xử lý nợ quá hạn sẽ được thực hiện tuân thủ trên hai quy định chung: quy
định của ngân hàng nhà nước và quy định riêng của mỗi ngân hàng.
Căn cứ vào tình hình nợ thuộc nhóm nào mà ngân hàng hoặc tổ chức cho vay sẽ
có quy trình xử lý phù hợp. Thơng thường ngân hàng sẽ thực hiện xử lý nợ thông qua
các cách sau:
Liên hệ ngay với người vay bao gồm cá nhân, tổ chức, công ty nhằm thông báo
việc nợ quá hạn. Lúc này, người vay có thể nêu tình hình khó khăn của bản thân và
được yêu cầu tiếp tục trả nợ đúng hạn. Nếu vẫn chưa có động thái trả nợ thì ngân hàng
tiếp tục gửi thơng báo đến các nơi có liên quan bao gồm: đơn vị khách hàng công tác,
(1) Điều 20 Thông tư 39/2016/TT-NHNN.
(2) khoản 2 Điều 13 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN.
Công ty khách hàng liên kết kinh doanh để nhờ hỗ trợ đòi nợ. Một số ngân hàng bắt đầu
chọn hình thức chuyển việc địi nợ cho bên thứ 3 để thực hiện thay mình.Thực hiện các
cách trên vẫn chưa có thể thỏa thuận cũng như thu hồi nợ thì ngân hàng hoặc tổ chức
cho vay sẽ sử dụng đến phương án cuối cùng là kiện đòi nợ theo quy định của pháp
luật.
Trong bản án 02/2017/KDTM-ST, Ngân hàng TMCP K cụ thể là “Phòng giao
dịch ngân hàng TMCP K đã nhiều lần thông báo và trực tiếp yêu cầu vợ chồng ông, bà
H tiếp tục thực hiện 02 đồng này, nhưng vợ chồng ông, bà H cố tình khơng thực hiện.
Q trình Tồ giải quyết vụ án, kể cả tại phiên toà xét xử, Ngân hàng TMCP K cũng đã
đưa ra phương án tối ưu để tạo điều kiện cho vợ chồng ông, bà trả nợ. Nhưng bà H vẫn
cố ý kéo dài không thực hiện.” Sau đó Ngân hàng TMCP K đã kiện địi nợ vợ chồng
ơng Phạm Văn H là đúng quy trình và phù hợp với quy định của pháp luật về thu nợ
quá hạn.
1.1.3. Gia hạn nợ quá hạn
5
Bên đi vay có nghĩa vụ hồn trả cho tổ chức tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo
đúng như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên vấn đề dặt ra là khi đến hạn trả
nợ nhưng bên vay chưa thanh tốn thì có thể xin gia hạn thời hạn trả nợ hay không?
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng:
“2. Trong trường hợp khách hàng khơng trả được nợ đến hạn, các bên khơng có thỏa
thuận khác thi tổ chức tín dụng có quyền xử lý nợ, tài sản bảo đảm theo hợp đồng cấp
tín dụng, hợp đồng bảo đảm và quy định của pháp luật. Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ,
mua bán nợ của tổ chức tín dụng thực hiện theo quy định của ngân hàng nhà nước.
3. Trong trường hợp khách hàng vay hoặc người bảo đảm không trả được nợ do bị phá
sản, việc thu hồi nợ của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về
phá sản”. (3)
Việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, mua bán nợ của tổ của tổ chức tính dụng được
thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Quyết định số 20/VBHN-NHNN ngày
22/5/2014:
“1. Các tổ chức tín dụng tự quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, trên cơ sở khả
năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay:
a) Khách hàng khơng có khả năng trả nợ đúng kỳ hạn nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay trong
phạm vi thời hạn cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng trả nợ trong các kỳ hạn tiếp theo, thì tổ chức tín dụng xem xét
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay.
(3) Khoản 2, Khoản 3 Điều 95 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
b) Khách hàng khơng có khả năng trả hết nợ gốc và/hoặc lãi vốn vay đúng thời hạn
cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng trả nợ trong một khoảng thời gian nhất định sau thời hạn cho vay, thì tổ chức
tín dụng xem xét cho gia hạn nợ với thời hạn phù hợp với nguồn trả nợ của khách
hàng.
Toàn bộ số dư nợ vay gốc của khách hàng có khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ được
phân loại vào các nhóm nợ thích hợp theo quy định về phân loại nợ của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
2. Các tổ chức tín dụng phải ban hành quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ phù hợp
với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; việc phân cấp, ủy quyền cho các chi
nhánh của mình quyết định việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ phải bảo đảm Hội sở chính
nắm được kịp thời, đày đủ và chính xác các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ
trong tồn hệ thống. Các tổ chức tín dụng phải gửi quy định về cơ cấu lại thời hạn trả
nợ cho Thanh tra Ngân hàng Nhà nước ngay sau khi ban hành.
6
3. Đối với các khoản nợ vay được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, các tổ chức tín dụng phải
báo cáo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về chế độ báo cáo thống kê
áp dụng đối với tổ chức tín dụng”.(4)
Như vậy, nếu việc chậm trả nợ vì lí do khách quan, bên đi vay có thể làm đơn gia
hạn nợ với tổ chức tín dụng. Nếu được tổ chức tín dụng chấp nhận cho gia hạn nợ, thì
thời hạn trả nợ của bên đi vay được kéo dài trong thời hạn mà tổ chức tín dụng cho
phép; nếu việc chậm trả nợ vì lý do chủ quan hoặc bên đi vay không làm đơn xin gia
hạn thời han trả nợ, tổ chức tín dụng có quyền chuyển sang nợ quá hạn đồng thời khởi
kiện ra tòa để đòi nợ.
Trở lại với bản án số:02/2017/KDTM – ST Ngày: 04-8-2017 “Bà Nguyễn Thị
Thanh H khẳng định vợ chồng bà có vay của Ngân hàng TMCP K theo các hợp đồng
tín dụng và các hợp đồng thế chấp tài sản mà đại diện ngân hàng TMCP K đã trình bày
tại tồ. Bà cũng thừa nhận số tiền vay của 02 hợp đồng, các khoản nợ gốc và lãi suất
của 02 hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD-2301-5548 ký ngày 27/4/2016 và hợp đồng
tín dụng số 083/2016/HĐTD/ 2301-5548 ký ngày 19/5/2016 , tài sản thế chấp, thời gian
thanh toán nợ và nợ hiện tại của vợ chồng bà, đúng như đại diện ngân hàng TMCP K
đã xác định. Vợ chồng bà thừa nhận đã vi phạm và không thực hiện đầy đủ và đúng
hạn các thoả thuận trong 02 hợp đồng”. Căn cứ vào lời khai tại Tòa của bà H, nguyên
nhân không thực hiện đầy đủ và đúng hạn trả nợ gốc và lãi là vì làm ăn thua lỗ chứ
khơng phải cố tình khơng thực hiện. Hơn nữa, bà H đã làm đơn xin gia hạn thời hạn trả
nợ. Tuy nhiên không được ngân hàng TMCP K chấp nhận. Hai bên đã không đạt được
thỏa thuận gia hạn thời hạn trả nợ nên ngân hàng TMCP K. Theo thỏa thuận của hai bên
trong hai hợp đồng tín dụng trên thì: “Bên cho vay được quyền tự động chuyển sang nợ
q hạn tồn bộ số dư nợ cịn lại của hợp đồng tín dụng
(4) Điều 22 của Quyết định số 20/VBHN-NHNN ngày 22/5/2014.
Nếu bên vay không trả được nợ gốc và lãi đúng hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng”. Như vậy, vợ chồng bà H khơng được gia hạn thời hạn trả nợ đồng thời số nợ
vay cịn lại trong hai hợp đồng tín dụng trên mặt dù chưa đến hạn trả nợ nhưng sẽ được
chuyển sang nợ quá hạn. Từ đó cho thấy nhận định của Tịa án về vấn đề này là có căn
cứ và hợp pháp.
1.1.4. Xử lí tài sản bảo đảm khi nợ quá hạn
- Khi bên vay có nợ quá hạn tổ chức tín dụng có quyền phát mại tài sản là vật bảo đảm.
- Trong một số trường hợp tài sản là vật bảo đảm có thể được gán nợ cho tổ chức tín
dụng như thỏa thuận trong hợp đồng.
- Ngồi ra tổ chức tín dụng có thể nhận tiền hoặc tài sản khác từ bên thứ ba trong
trường hợp thế chấp quyền đòi nợ.
7
- Trường hợp tài sản bảo đảm cho ngiều khoản vay khác nhau thì áp dụng thứ tự ưu tiên
thanh tốn thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc trong giao dịch có đảm bảo tại cơ
quan đăng ký giao dịch đảm bảo
- Trường hợp bên thế chấp cầm cố tài sản bị phá sản thì việc xử lí nợ được áp dụng theo
pháp luật phá sản.
Việc xử lí tài sản đảm bảo phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại điều
58, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch đảm bảo:
“1. Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của các bên; nếu khơng có thoả
thuận thì tài sản được bán đấu gia theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì
việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thoả thuận của bên bảo đảm và các bên cùng
nhận bảo đảm; nếu không có thoả thuận hoặc khơng thoả thuận được thì tài sản được
bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
3. Việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công
khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch
bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định tại Nghị định này.
4. Người xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên
nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên
tham gia giao dịch bảo đảm có thoả thuận khác.
5. Việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh
tài sản của bên nhận bảo đảm.”
Do vợ chồng ông, bà H đã vi phạm và không thực hiện đầy đủ và đúng hạn các
thoả thuận trong 02 hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD-2301-5548 ký ngày 27/4/2016
và hợp đồng tín dụng số 083/2016/HĐTD/ 2301-5548 ký ngày 19/5/2016 đã được ký
kết giữa Ngân hàng TMCP K với vợ chồng ơng, bà H. Vì vậy phải giao cho ngân hàng
TMCP K tài sản mà vợ chồng ông, bà H đã thế chấp để đảm bảo cho ngân hàng TMCP
K thu hồi vốn. Cụ thể tài sản đó là: “hợp đồng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày
27/4/2016 với số tiền 202.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng; Tài sản thế chấp để
bảo đảm là quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 234,9m2 thửa số 41 tờ bản đồ 117
theo giấy chứng nhận QSDĐ số BS 887480 do UBND thị xã S cấp cho bà Nguyễn Thị
Thanh H ngày 15/12/2014. Hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/2310-5548 ký ngày
19/5/2016 với số tiền vay 202.000.000đồng, thời hạn vay 60 tháng; Tài sản thế chấp để
đảm bảo là quyền sử dụng đất diện tích đất 1.626m2 thửa 592 tờ bản đồ số 16 ĐC theo
giấy chứng nhận QSDĐ số BV340893 do UBND thị xã S cấp cho ông Phạm Văn H
ngày 09/02/2015”.
1.2. LÃI SUẤT Q HẠN
“Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời
8
gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.” (5). Lãi trong
quan hệ tín dụng ngân hàng là giá cả của khoản vay, là khoản tiền dơi ra trong q trình
sử dụng vốn vay mà bên đi vay phải trả cho bên cho vay. Lãi suất thường được thể hiện
như một tỷ lệ phần trăm của tiền gốc trong một khoảng thời gian theo tháng, kỳ, quý,
năm do hai bên thoả thuận. Theo đó, lãi suất bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất q
hạn. Sau đây, nhóm sẽ bình luận vấn đề pháp lý liên quan đến lãi suất quá hạn trong bản
án số 02/2017/KDTM-ST ngày 04/08/2017 Toà án nhân dân Thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú
Yên.
1.2.1. Khái niệm lãi suất quá hạn:
Lãi suất quá hạn là lãi suất phải trả do chậm thanh toán nợ gốc trong hợp đồng
vay vốn. Đây là lãi suất mà người đi vay vốn tại ngân hàng phải trả khi đến thời hạn
thanh toán nợ gốc mà khơng có khả năng thanh tốn theo thời hạn của hợp đồng. Khoản
lãi suất quá hạn này nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh của tổ chức tín
dụng, là cơng cụ để bắt buộc người đi vay thanh tốn nợ gốc đúng hạn nếu khơng muốn
chịu mức lãi suất quá cao so với mức lãi trong thoả thuận.
1.2.2. Áp dụng lãi suất quá hạn:
Lãi sất quá hạn được áp dụng bởi tổ chức tín dụng đối với cá nhân, tổ chức đi
vay. Nếu việc chậm trả vì lý do chủ quan của bên đi vay hoặc bên đi vay không làm đơn
xin gia hạn nợ, tổ chức tín dụng có quyền chuyển sang nợ q hạn.
Tổ chức tín dụng và bên vay sẽ thỏa thuận về việc trả nợ gốc và lãi tiền vay
trong hợp đồng. Trường hợp khách hàng khơng có khả năng thanh tốn nợ đúng hạn và
(5) Khoản 16 Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng 2010 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Pkhơng được tổ chức tín dụng xem xét chấp nhận cơ cấu lại thời hạn trả nợ được quy
định tại Điều 19 thơng tư 39/2016/TT-NHNN thì số nợ trên của ông Phạm Văn H và bà
Nguyễn Thị Thanh H sẽ được chuyển sang nợ quá hạn theo quy định tại Điều 20 của
thông tư này với mức lãi suất đã thỏa thuận: “Tổ chức tín dụng chuyển nợ quá hạn đối
với số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và không
được tổ chức tín dụng chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ; thông báo cho khách
hàng về việc chuyển nợ quá hạn. Nội dung thông báo tối thiểu bao gồm số dư nợ gốc bị
quá hạn, thời điểm chuyển nợ quá hạn và lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá
hạn.”(6) . Như vậy, trong bản án số 02/2017/KDTM-ST, Toà án áp dụng mức lãi suất quá
hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và hợp đồng tín
dụng số 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016. Đồng thời tranh chấp này xảy
ra trước khi Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực nên Tòa án đã áp dụng Bộ luật dân sự 2005
để giải quyết. Theo Khoản 2, Điều 305 Bộ luật dân sự 2005: “2. Trong trường hợp bên
có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất
9
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
(7)
. Do đó, Tịa án áp dụng lãi suất quá hạn do các bên thỏa thuận là có căn cứ.
Bộ Luật Dân Sự 2015 đã quy định tại khoản 2 Điều 357 rằng: “Lãi suất phát
sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được
vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu khơng
có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này” (8).
Mặt khác, theo quy định tại khoản 2, Điều 91 và Khoản 2, Điều 95 Luật tổ chức tín
dụng 2010 sửa đổi, bổ sung 2017, các bên có quyền tự thỏa thuận lãi suất trong hợp
đồng cho vay và trong trường hợp bên vay khơng trả được nợ thì tổ chức tín dụng có
quyền xử lý nợ theo hợp đồng cấp tín dụng.
Ngồi ra, nếu hai bên khơng thoả thuận thì áp dụng mức lãi suất chậm trả theo quy định
pháp luật dân sự. Trong khi đó khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 khẳng định:
“Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng khơng xác định rõ lãi suất và
có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy
định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ” (9), tức bằng 10%/năm của khoản tiền
vay.
(6) Điều 20 Thông tư 39/2016/TT-NHNN.
(7) Khoản 2 Điều 305 Bộ luật Dân sự 2005.
(8) Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.
1.2.3. Thời hạn áp dụng lãi suất quá hạn:
Trong bản án số 02/2017/KDTM-ST, Toà án đã áp dụng mức lãi suất quá hạn mà
các bên đã thoả thuận trong hai hợp đồng trong khoản thời hạn từ ngày tiếp theo của
ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi bên bị đơn hoàn trả hết nợ gốc chưa thanh toán từ hai
hợp đồng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và hợp đồng tín dụng số
083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016. Thời hạn này Toà án áp dụng căn cứ
vào án lệ số 08/2016/AL HĐTPTANDTC thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố
theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao. Hướng nêu trên trong Án lệ số 08/2016/AL và bản án số 02/2017/KDTMST là chưa thuyết phục. Bởi lẽ, trong trường hợp bản án số 02/2017/KDTM-ST, vợ
chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H đã chậm thanh toán khoản tiền vay
từ cả hai hợp đồng tín dụng. Ngân hàng K đã nhiều lần nhắc nhở, gửi thông báo bằng
văn bản cho vợ chồng ơng nhưng vẫn khơng thanh tốn nợ gốc. Tuy nhiên việc xác
định thời hạn nêu trên gây bất lợi cho người được thi hành bản án, phán quyết của Toà
án trong trường hợp này là ngân hàng K. Cụ thể, trong bài viết “Vướng mắc về lãi suất,
10
phạt vi phạm hợp đồng tín dụng”, Tạp chí tồ án nhân dân điện tử, ngày 26 tháng 02
năm 2018: “Chúng tôi cho rằng, khi các bên tham gia quan hệ hợp đồng có tranh chấp
khởi kiện được Tịa án án giải quyết thì bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án đã
chấm dứt quan hệ hợp đồng giữa các bên. Và khi bản án, quyết định của Tịa án có
hiệu lực thì giữa các bên đã hình thành quan hệ mới, đó là quan hệ thi hành án. Vì vậy,
cả “tinh thần” của Thơng tư liên tịch số 01/TTLT “kể từ ngày khi giao dịch cho đến khi
thi hành án xong” cũng như cách lập luận nêu trên của Án lệ số 08/2016/AL “kể từ
ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa
thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này” đều chưa thực
sự phù hợp với quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự trả tiền
(Điều 305 BLDS 2005, Điều 357 của BLDS 2015) và quy định về thời hiệu yêu cầu thi
hành án (khoản 5 Điều 3, khoản 1 Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự). Bởi lẽ, sau
khi bản án có hiệu lực pháp luật thì người được thi hành án phải làm đơn thi hành án
và khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án
không thi hành án, lúc này mới phát sinh trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ thi
hành án đối với người phải thi hành án.”. Theo đó, đề nghị cần hướng dẫn trách nhiệm
chậm thực hiện nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án được xác định kể từ khi
người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng
tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Tức là thời hạn áp dụng lãi suất chậm trả phải
được tính từ ngày có đơn u cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong.
(9) Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.
Quan điểm này theo nhóm em nhận thấy là hợp lý, bởi khi có phán quyết về thời hạn
này của Tồ án người có trách nhiệm thanh tốn khoản nợ cho ngân hàng sẽ không thực
hiện theo yêu cầu thi hành án mà căn cứ theo phán quyết của Toà án nhằm trốn tránh
nghĩa vụ trả nợ. Tương tự như trong bản án số 02/2017/KDTM-ST, Toà án cấp sơ thẩm
đã căn cứ theo án lệ số 08/2016/AL để đưa ra thời hạn như trên có thể gây ra khó khăn
trong q trình thi hành án. Việc này có thể dẫn đến hậu quả là ngân hàng K không thể
nhận khoản tiền lãi quá hạn do vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H
chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ từ hai hợp đồng tín dụng.
Về vấn đề thời hạn áp dụng lãi chậm trả giải quyết theo hướng của bản án số
02/2017/KDTM-ST và án lệ số 08/2016/AL cũng có các quy định pháp luật xác định cụ
thể thời hạn thực hiện nghĩa vụ chậm trả. Cụ thể như theo Điều 7.4.9 Bộ nguyên tắc
Unidroit: “1) Trong trường hợp khơng được thanh tốn một khoản tiền đến hạn, bên có
quyền được quyền yêu cầu bên kia khoản tiền lãi cho khoản tiền này từ thời hạn thanh
toán đến hạn cho đến ngày thanh tốn, cho dù có hay không việc miễn trừ.” (10). Theo
11
quy định này, thời hạn áp dụng lãi quá hạn là từ ngày mà đến hạn thanh toán nợ gốc đến
ngày hoàn trả hết khoản nợ khác hơn so với cách áp dụng của Toà án. Các quy định Bộ
luật Dân sự theo hướng lãi chậm trả phải “tương ứng với thời gian chậm trả”, tức là
chừng nào chưa trả, chưa thanh tốn khoản tiền cần trả thì vẫn phải chịu lãi chậm trả
cho đến khi thanh tốn hết tồn bộ số còn lại. Điều 306 Luật Thương mại cũng có quy
định tương tự khi khẳng định lãi chậm trả “tương ứng với thời gian chậm trả”. Như vậy,
quy định của Bộ luật Dân sự và Luật thương mại về thời hạn áp dụng lãi chậm trả cũng
tính ngày cuối cùng tính lãi q hạn là ngày thanh tốn hết khoản nợ, đồng thời thời
gian này liên tục không bị gián đoạn bởi bất cứ lý do gì cho đến khi trả xong nợ gốc còn
lại.
(10) Điều 7.4.9 Bộ nguyên tắc Unidroit.
II. KẾT LUẬN
Thứ nhất, về vấn đề nợ quá hạn thì chỉ cần bên vay khơng thực hiện đúng
các cam kết của mình trong hợp đồng tín dụng và khơng được tổ chức tín dụng
chấp nhận gia hạn nợ thì tất cả khoản nợ cịn lại đều bị chuyển sang nợ q hạn.
Khi đó, tổ chức tín dụng xử lý nợ theo đúng quy trình mà pháp luật quy định.
Thứ hai, về vấn đề lãi suất quá hạn, khi bên vay chậm thực hiện nghĩa vụ
thanh toán khoản vay trong hợp đồng tín dụng thì tổ chức tín dụng sẽ áp dụng
mức lãi suất quá hạn theo thoả thuận trong hợp đồng cho đến khi bên vay thanh
toán hết nợ.
12
DANH MỤC TÀI LIỆU
1.
Giáo trình Luật ngân hàng, Trường Đại học Luật Tp.HCM, 2018.
2.
“Vướng mắc về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng tín dụng”, Tạp chí tồ án
nhân dân điện tử, ngày 26 tháng 02 năm 2018.
3.
Án lệ số 08/2016/AL HĐTPTANDTC thông qua ngày 17/10/2016 và được
công bố theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao.
13
TỊA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ
SƠNG CẦU TỈNH PHÚ N
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số:02/2017/KDTM – ST
Ngày: 04-8-2017
V/v Tranh chấp hợp đồng tín dụng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
14
TỊA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠNG CẦU, TỈNH PHÚ YÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tịa: Ơng Trần Văn Tơn
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ơng: Phan Văn Ký
2. Bà: Trần Thị Phương Linh
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Thuý Loan – Thư ký toà án nhân dân thị
xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu tham gia phiên tồ: Ơng
Huỳnh Văn Dương – Kiểm sát viên.
Vào các ngày 28 tháng 7 và ngày 02, ngày 04 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở toà
án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:
02/2017/TLST-KDTM ngày 06 tháng 3 năm 2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2017/QĐXXST-KDTM ngày 06
tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần K. Địa chỉ: 40 – 42 - 44 đường P,
phường V, thành phố R, Tỉnh Kiên Giang. Người đại diện Ông Võ Văn C – Tổng Giám
đốc. Đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Thuý N, sinh năm 1985 – Giám đốc Ngân
hàng thương mại cổ phần K – Phòng giao dịch thị xã S, tỉnh Phú Yên (theo giấy ủy
quyền số 840/UQ-NHKL ngày 29/5/2017); Địa chỉ: 184 đường P, phường XP, thị xã S,
tỉnh Phú Yên; Bà N có mặt.
- Bị đơn: Vợ chồng ông Phạm Văn H, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Thanh
H, sinh năm 1977; Cùng trú tại địa chỉ: Thôn C, xã XL, thị xã S, tỉnh Phú n; Ơng H
vắng mặt, bà H có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Trong đơn khởi kiện ngày 16/01/2017 và quá trình giải quyết vụ án, đại diện
của nguyên đơn trình bày:
Ngày 27/4/2016 và ngày 19/5/2016 Ngân hàng Thương mại cổ phần K (viết tắt
là ngân hàng TMCP K) Phòng giao dịch thị xã S, tỉnh Phú Yên cho vợ chồng ông Phạm
Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H vay tiền theo hai hợp đồng gồm:
1. Hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/4/2016. Số tiền
vay là 202.000.000 đồng. Mục đích vay là phục vụ đời sống. Thời hạn vay 60 tháng, lãi
suất được quy định tại khoản 1 điều 2 của hợp đồng, lãi suất trong hạn 9% năm và cố
định trong 06 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên, tính trên dư nợ thực tế và thời gian
vay vốn thực tế. Kể từ tháng thứ 7 lãi suất vay sẽ được thay đổi theo quy định của
Ngân hàng TMCP K, lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng/lần bằng mức lãi suất
tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ tại thời điểm lãi suất cho vay cộng
biên độ 4,23% năm.
Mức lãi suất vay ngân hàng Thương mại cổ phần K từ ngày 27/4/2016 đến
27/10/2016 lãi suất vay là 9%/năm, từ ngày 27/10/2017 đến 28/7/2017 là 11,61%/năm.
Lãi nợ quá hạn bằng 150%/năm lãi suất vay ngay trước thời điểm chuyển quá hạn, mức
phạt chậm trả lãi 0,05%/ngày.
Kỳ hạn trả nợ vay hàng tháng quy định tại Điều 3 của hợp đồng tín dụng thì bị
đơn phải trả cho ngun đơn lãi vay và nợ gốc theo các kỳ hạn tính từ ngày trả lãi vay
đầu tiên 27/4/2016; các ngày trả lãi vay tiếp theo hàng tháng vào ngày nhận nợ đầu tiên;
15
tiền trả lãi= dư nợ vay thực tế x lãi suất vay(%/năm) x số ngày vay thực tế : 360 ngày.
Kỳ hạn trả nợ vốn gốc: trả hàng tháng, ngày trả nợ gốc đầu tiên là 27/5/2016. Mỗi kỳ
hạn trả nợ gốc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền nợ gốc như sau: Từ kỳ 1 đến kỳ
59 nợ gốc phải trả là 3.370.000đồng, từ kỳ 60 số nợ gốc phải trả là 3.170.000đồng.
Tài sản vợ chồng ông, bà H thế chấp để bảo đảm cho hợp đồng này là quyền sử
dụng đất diện tích đất 234,9m2 thuộc thửa 41 tờ bản đồ số 117 theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất BS887480 do Uỷ ban nhân dân thị xã S cấp cho bà H ngày
15/12/2014. Toạ lạc tại thôn C, xã XL, thị xã S, tỉnh Phú Yên theo hợp đồng thế chấp số
067/16/HĐTC-BĐS 2301-5548 ký ngày 27/4/2016.
Đối với hợp đồng này vợ chồng ông, bà H chỉ thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi
mới 4 kỳ.
Tính đến ngày 28/7/2017 vợ chồng ơng H, bà H còn nợ Ngân hàng thương mại
cổ phần K :
Số tiền nợ gốc: 188.520.000 đồng
Lãi trong hạn: 17.730.000 đồng
Lãi phạt chậm trả: 1.340.000 đồng
Phạt chậm trả gốc: 2.503.248 đồng
Tổng cộng: 210.094.840 đồng
2. Hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016 số tiền
vay là 202.000.000 đồng mục đích là vay thanh tốn sửa chữa cơng trình phụ và mua
sắm thêm thiết bị gia đình cho ba mẹ, thời hạn vay 60 tháng kể từ ngày giải ngân, ngày
đến hạn: 19/5/2021.
Lãi suất được quy định tại khoản 1 điều 2 của hợp đồng tín dụng: Lãi suất vay kể
từ ngày giải ngân đầu tiền là 11,61%/ năm, tính trên số dư nợ thực tế và thời gian vay
vốn thực tế. Lãi suất cho vay được điều chỉnh 03 tháng/lần, được tính bằng mức lãi suất
tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 13 tháng lãnh lãi cuối kỳ của Ngân hàng thương mại cổ phần
K tại thời điểm thay đổi lãi suất cho vay cộng biên độ 4,23%/năm. Từ ngày 19/5/2016
đến ngày 28/7/2017 Ngân hàng áp dụng mức lãi suất 11,61%/năm đối với khoản vay
này. Lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay ngay trước thời điểm chuyển nợ quá
hạn; mức phạt chậm trả lãi: 0.05%/ngày.
Kỳ hạn trả nợ vay hàng tháng được quy định tại Điều 3 của Hợp đồng tín dụng:
Bên B phải trả cho Bên A lãi vay và nợ gốc theo các kỳ hạn: tính từ ngày trả lãi vay đầu
tiên ngày 19/6/2016; Các ngày trả lãi vay tiếp theo: hàng tháng vào ngày nhận nợ đầu
tiên; tiền trả lãi = Dư nợ vay thực tế x lãi suất vay (%/năm) x Số ngày vay thực tế : 360.
Trong đó số ngày vay thực tế tối thiểu là 01 ngày. Kỳ hạn trả nợ gốc: Vốn gốc trả đều
hàng tháng; ngày trả nợ gốc đầu tiên: 19/6/2016; Các ngày trả nợ gốc tiếp theo: hàng
tháng, vào ngày nhận nợ đầu tiên; Mỗi kỳ hạn trả nợ gốc Bên B phải trả số nợ gốc như
sau:
Từ kỳ 1 đến kỳ 59 nợ gốc phải trả là 3.370.000đồng, từ kỳ 60 nợ gốc phải trả
3.170.000 đồng.
Tài sản vợ chồng ông, bà H thế chấp đảm bảo là diện tích đất 1626.0 m2 thuộc
thửa số 592 tờ bản đồ số 16-ĐC theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV
340893, số vào sổ cấp GCN: CH00994 do UBND Thị xã S, tỉnh Phú Yên cấp cho ông
Phạm Văn H ngày 9/02/2015, toạ lạc tại thôn H, xã XC, thị xã S, tỉnh Phú Yên.Theo
hợp đồng thế chấp tài sản số 083/16/HĐTC-BĐS ký ngày 19/5/2016.
16
Đối với hợp đồng này vợ chồng ông, bà H chỉ mới thực hiện nghĩa vụ trả nợ 03
kỳ.
Tính đến ngày 28/7/2017 vợ chồng ơng H, bà H cịn nợ Ngân hàng thương mại
cổ phần K :
Số tiền nợ gốc: 191.890.000 đồng
Lãi trong hạn: 19.321.189 đồng
Lãi phạt chậm trả: 1.563.082 đồng
Phạt chậm trả gốc: 2.908.345 đồng
Tổng cộng: 215.682.616 đồng.
Sau khi vợ chồng ông, bà H không tiếp tục thực nghĩa vụ thanh toán nợ theo
thoả thuận của 02 hợp đồng nêu trên. Phòng giao dịch ngân hàng TMCP K đã nhiều lần
thông báo và trực tiếp yêu cầu vợ chồng ông, bà H tiếp tục thực hiện 02 đồng này,
nhưng vợ chồng ơng, bà H cố tình khơng thực hiện. Q trình Tồ giải quyết vụ án, kể
cả tại phiên toà xét xử, Ngân hàng TMCP K cũng đã đưa ra phương án tối ưu để tạo
điều kiện cho vợ chồng ông, bà trả nợ. Nhưng bà H vẫn cố ý kéo dài khơng thực hiện.
Do đó Ngân hàng TMCP K nhận thấy vợ chồng ông, bà H đã vi phạm và không
thực hiện đầy đủ và đúng hạn các thoả thuận trong 02 hợp đồng tín dụng số
066/16/HĐTD-2301-5548 ký ngày 27/4/2016 và hợp đồng tín dụng số
083/2016/HĐTD/ 2301-5548 ký ngày 19/5/2016 đã được ký kết giữa Ngân hàng TMCP
K với vợ chồng ơng, bà H.
Vì vậy Ngân hàng TMCP K đề nghị Tồ buộc vợ chồng ơng, bà H thanh tốn
tồn bộ nợ gốc và lãi suất của 02 hợp đồng nêu trên cho ngân hàng TMCP K, đồng thời
giao cho ngân hàng TMCP K tài sản mà vợ chồng ông, bà H đã thế chấp để đảm bảo
cho ngân hàng TMCP K thu hồi vốn.
* Theo biên bản lấy lời khai của bà Nguyễn Thị Thanh H ngày và quá trình giải
quyết vụ án, bà Nguyễn Thị Thanh H (ông Phạm Văn H vắng mặt không lý do) trình
bày:
Bà Nguyễn Thị Thanh H khẳng định vợ chồng bà có vay của Ngân hàng TMCP
K theo các hợp đồng tín dụng và các hợp đồng thế chấp tài sản mà đại diện ngân hàng
TMCP K đã trình bày tại toà. Bà cũng thừa nhận số tiền vay của 02 hợp đồng, các
khoản nợ gốc và lãi suất của 02 hợp đồng, tài sản thế chấp, thời gian thanh toán nợ và
nợ hiện tại của vợ chồng bà, đúng như đại diện ngân hàng TMCP K đã xác định. Vợ
chồng bà thừa nhận đã vi phạm và không thực hiện đầy đủ và đúng hạn các thoả thuận
trong 02 hợp đồng. Tuy nhiên việc vợ chồng bà không thực hiện đúng thoả thuận theo
02 hợp đồng nêu trên là do làm ăn bị thua lỗ, chứ khơng phải cố tình khơng thực hiện.
Vì vậy bà xin ngân hàng TMCP K kéo dài cho bà một thời gian nữa để vợ chồng bà bán
tài sản khác thanh toán nợ đủ cho ngân hàng TMCP K theo 02 hợp đồng đã ký. Nhưng
khơng được ngân hàng chấp nhận. Do đó bà chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ngân hàng TMCP K. Khơng u cầu gì khác.
* Tại phiên tồ đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu trình bày quan
điểm giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý giải quyết vụ
án đến khi Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Bị đơn ông Phạm
Văn H vắng mặt từ khi thụ lý đến khi xét xử đã được tống đạt hợp lệ cho gia đình, trực
tiếp bà Nguyễn Thị Thanh H (vợ ông H) cũng là bị đơn trong vụ án nhận hợp lệ.
17
Những người tham gia tố tụng. Nguyên, bị đơn thực hiện quyền, nghĩa vụ của
mình đúng quy định.
-Về nội dung: Nguyên, bị đơn đều xác định và thừa nhận ngày 27/4/2016 và
ngày 19/5/2016 giữa Ngân hàng TMCP K với vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn
Thị Thanh H ký kết 02 hợp đồng tín dụng gồm: hợp đồng số 066/16/HĐTD/2301-5548
ký ngày 27/4/2016 với số tiền 202.000.000 đồng, thời hạn vay 60 tháng; Tài sản thế
chấp để bảo đảm là quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 234,9m2 thửa số 41 tờ bản
đồ 117 theo giấy chứng nhận QSDĐ số BS 887480 do UBND thị xã S cấp cho bà
Nguyễn Thị Thanh H ngày 15/12/2014. Hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/23105548 ký ngày 19/5/2016 với số tiền vay 202.000.000đồng, thời hạn vay 60 tháng; Tài
sản thế chấp để đảm bảo là quyền sử dụng đất diện tích đất 1.626m2 thửa 592 tờ bản đồ
số 16 ĐC theo giấy chứng nhận QSDĐ số BV340893 do UBND thị xã S cấp cho ông
Phạm Văn H ngày 09/02/2015.
- Sau khi giải ngân vợ chồng ông, bà H đã thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng
TMCP K đối với hợp đồng 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/4/2016 được 04 kỳ,
trả nợ cho ngân hàng đối với hợp đồng 083/16/HĐTD/ 2301-5548 ký ngày 19/5/2016
được 03 kỳ. Số kỳ còn lại tiếp theo cho đến nay vợ chồng ông, bà H không thực hiện là
đã vi phạm không thực hiện đầy đủ và đúng hạn các thoả thuận trong 02 hợp đồng nêu
trên. Do đó yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều
95 Luật tổ chức tín dụng năm 2010. Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 471, 474, 476
và 721 Bộ luật dân sự 2005, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện chứng cứ; ý kiến của nguyên đơn, bị đơn; ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Phạm Văn H, sinh năm 1978, địa chỉ: Thôn Chánh
Lộc, xã Xuân Lộc, T.x Sông Cầu, Phú Yên được triệu tập hợp lệ (do bà Nguyễn Thị
Thanh H vợ ông H nhận) nhưng ông H vẫn vắng mặt khơng có lý do. Căn cứ điểm b
khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử
xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Phạm Văn H.
[2] Về thẩm quyền: Ngân hàng thương mại cổ phần K khởi kiện yêu cầu Toà án
buộc vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H có hộ khẩu thường trú tại:
Thơn C, xã XL, thị xã S, tỉnh Phú Yên phải trả số tiền vay gốc và lãi vay theo hai hợp
đồng tín dụng đã ký kết. Do đó được xác định là “tranh chấp hợp đồng tín dụng” nên
theo quy định tại Khoản 1 Điều 30 và điểm b khoản 1 Điều 35 Bộ Luật tố tụng dân sự
2015 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án nhân dân thị xã Sơng Cầu, tỉnh Phú Yên
thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.
[3]Về áp dụng pháp luật: Ngân hàng thương mại cổ phần K và vợ chồng ông H,
bà H ký kết hai hợp đồng tín dụng lần lượt: Hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301554 ký ngày 27/04/2016 và hợp đồng 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/5/2016.
Như vậy hai hợp đồng tín dụng này đã được hai bên giao kết thực hiện hợp đồng trước
ngày 01/01/2017. Căn cứ vào khoản 3 Điều 4 Luật Thương mại, Điều 688 bộ luật dân
18
sự 2015, Hội đồng xét xử áp dụng các quy định và các Điều luật của bộ luật dân sự
2005 để giải quyết vụ án.
[ 4]Về Nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy:
Các hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-554 ký ngày 27/04/2016 và
083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/5/2016, và hợp đồng thế chấp tài sản số
067/16/HĐTC-BĐS 2301-5548 ký ngày 27/4/2016 và 083/16/HĐTC-BĐS ký ngày
19/5/2016 được lập thành văn bản, ký kết giữa nguyên đơn và bị đơn hoàn toàn tự
nguyện, tuân thủ các quy định của pháp luật khi giao kết nên các hợp đồng là hợp pháp.
Căn cứ vào Điều 342, 343, 471, 474, 476, 715 của bộ luật dân sự 2005. Do vậy làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các
thoả thuận đã cam kết trong hợp đồng.
Trên cơ sở về việc thoả thuận vay vốn giữa Ngân hàng thương mại cổ phần K và
vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H đã ký kết các hợp đồng tín dụng
cụ thể như sau:
1. Hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
067/16/HĐTCBĐS/2301-5548 ký ngày 27/4/2016; Số tiền vay: 202.000.000 đồng ( Đã
giải ngân 202.000.000 đồng); thời hạn cho vay 60 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên
ngày 27/4/2016; dư nợ gốc còn lại đến ngày xét xử 28/7/2017: Gốc là 188.520.000
đồng; lãi trong hạn là 17.730.000đ, lãi phạt chậm trả là 1.340.000đ, lãi phạt chậm trả
gốc là 2.503.248đ.
2. Hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016 và hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
083/16/HĐTCBĐS/2301-5548 ký ngày 19/5/2016; Số tiền vay: 202.000.000 đồng ( Đã
giải ngân 202.000.000 đồng); thời hạn cho vay 60 tháng kể từ ngày giải ngân đầu tiên
ngày 19/5/2016; dư nợ gốc còn lại đến ngày xét xử 28/7/2017: Gốc là 191.890.000
đồng; lãi trong hạn là 19.321.189đ, lãi phạt chậm trả là 1.563.082đ, lãi phạt chậm trả
gốc là 2.908.345đ.
Xét các hợp đồng tín dụng nói trên giữa Ngân hàng TMCP K và vợ chồng ông
bà H là các hợp đồng vay tài sản có thời hạn và có lãi, tính đến thời điểm xét xử các
hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và
083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/5/2016 đã quá hạn trả nợ gốc và lãi vay, mặc dù
chưa đến hạn trả nợ gốc toàn bộ nhưng theo các thoả thuận tại các hợp đồng tín dụng
nói trên thì “Bên cho vay được quyền tự động chuyển sang nợ quá hạn tồn bộ số dư nợ
cịn lại của hợp đồng tín dụng nếu bên vay khơng trả được nợ gốc và lãi đúng hạn theo
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng” và được bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh H thừa nhận
Căn cứ vào Điều 474 Bộ luật dân sự 2005; khoản 4 Điều 1 Quyết định số
127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 13 Quyết định số
1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001, Phần 1.3 mục 1 Văn bản số 1335/NHNNCSTT ngày 22/02/2010 về việc phạt chậm trả đối với trường hợp nợ quá hạn. Xét thấy
vợ chồng ông bà H đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền gốc và lãi của bên vay theo thoả thuận
tại các hợp đồng tín dụng nói trên.
19
Để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của 02 hợp đồng tín dụng nói trên, vợ
chồng ơng Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H cùng Ngân hàng thương mại cổ
phần K đã ký kết hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất gồm:
1.Hợp đồng số 067/16/HĐTC-BĐS/2301-5548 ký ngày 27/4/2016. Tài sản thế
chấp là Quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 234,9m2 thuộc thửa số 41 tờ bản đồ số
117 tọa lạc tại: Thôn C, xã XL, thị xã S, tỉnh Phú Yên theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BS 887480, số vào sổ cấp GCN: CH04578 do UBND Thị xã S, tỉnh Phú
Yên cấp cho bà Nguyễn Thị Thanh H ngày 15/12/2014 và quyền sở hữu toàn bộ tài sản
gắn liền với quyền sử dụng đất theo thoả thuận giữa hai bên tại Điều 4 và Điều 5 của
hợp đồng thế chấp trên.
2.Hợp đồng số 083/16/HĐTC-BĐS/2301-5548 ký ngày 19/5/2016. Tài sản thế
chấp là Quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1626.0 m2 thuộc thửa số 592 tờ bản đồ
số 16-ĐC tọa lạc tại: Thôn H, xã XC, thị xã S, tỉnh Phú Yên; theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BV 340893, số vào sổ cấp GCN: CH00994 do UBND Thị xã S,
tỉnh Phú Yên cấp cho ông Phạm Văn H ngày 09/02/2015 và quyền sở hữu toàn bộ tài
sản gắn liền với quyền sử dụng đất theo thoả thuận giữa hai bên tại Điều 4 và Điều 5
của hợp đồng thế chấp trên.
Như vậy, từ ngày xác lập đối với hợp đồng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày
27/4/2016 cho đến ngày 28/7/2017 là 15 tháng, nhưng Vợ chồng ông, bà H chỉ mới
thực hiện nghĩa vụ trả nợ được 04 tháng(04 kỳ). Đối với hợp đồng 083/16/HĐTD/23015548 ký ngày 19/5/2016 cho đến ngày 28/7/2017 là 14 tháng, nhưng vợ chồng ông, bà
H mới chỉ thực hiện được 03 tháng (03 kỳ). Theo quy định tại Điều 355, 715, 721 bộ
luật dân sự 2005 thì tài sản thế chấp nói trên sẽ được xử lý để thu hồi nợ cho Ngân hàng
thương mại cổ phần K.
Do đó, yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP K là có căn cứ để chấp nhận nên
buộc vợ chồng ông bà H phải trả cho Ngân hàng TMCP K tồn bộ số tiền cịn nợ của
02 hợp đồng là 425.777.456 đồng. Trong đó nợ gốc: 380.410.000 đồng đồng; nợ lãi
trong hạn, lãi quá hạn và lãi phạt tính đến ngày 28/7/2017 tổng cộng là: 45.365.864
đồng.
Về quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Sông Cầu: Căn cứ vào Điều 95
Luật tổ chức tín dụng năm 2010. Điều 688 Bộ luật dân sự 2015; Điều 471, 474, 476 và
721 Bộ luật dân sự 2005, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
là có căn cứ và đúng pháp luật nên được chấp nhận.
7
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tịa án.
Ngun đơn khơng phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Bị đơn phải chịu: 20.000.000 đồng ( đối với số tiền 400.000.000đ) và 4% của
phần giá trị tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng (là 25.777.456đx 4%)=1.031.000đ.
Tổng cộng án phí phải chịu là: 20.000.000đ + 1.031.000đ =21.031.000 đồng án phí
kinh doanh thương mại sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của ngun đơn được Tịa
án chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
20
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 3 Điều 4 Luật thương mại 2005; Điều 95 Luật các tổ chức tín
dụng 2010; Điều 342, 343, khoản 7 Điều 351, Điều 355, Điều 471, Điều 474, Điều 476,
Điều715, Điều 721 Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;
Khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228
Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tịa án.
Tun xử:
Chấp nhận tồn bộ yêu cầu của nguyên đơn
Buộc vợ chồng ông Phạm Văn H và Nguyễn Thị Thanh H phải trả tiền cho Ngân
hàng thương mại cổ phần K theo hợp đồng tín dụng số: 066/16/HĐTD/23015548 ký
ngày 27/04/2016 gồm: số tiền vay gốc là 188.520.000 đồng ( Một trăm tám mươi tám
triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng); Tính đến ngày 28/7/2017 lãi trong hạn là
17.730.000 đồng ( Mười bảy triệu bảy trăm ba mươi nghìn đồng), lãi phạt chậm trả là
1.340.000 đồng ( Một triệu ba trăm bốn mươi nghìn đồng), lãi phạt chậm trả gốc là
2.503.248 đồng ( Hai triệu năm trăm khơng ba nghìn hai trăm bốn mươi tám đồng) và
số tiền theo hợp đồng tín dụng số 083/16/HĐTD/23015548 ký ngày 19/05/2016 gồm:
số tiền vay gốc là 191.890.000 đồng ( Một trăm chín mươi mốt triệu tám trăm chín
mươi nghìn đồng); Tính đến ngày 28/7/2017 lãi trong hạn là 19.321.189 đồng ( Mười
chín triệu ba trăm hai mươi mốt nghìn một trăm tám mươi chín đồng), lãi phạt chậm trả
là 1.563.082 đồng ( Một triệu năm trăm sáu mươi ba nghìn khơng trăm tám mươi hai
nghìn), lãi phạt chậm trả gốc là 2.908.345đồng ( Hai triệu chín trăm khơng tám nghìn
ba trăm bốn mươi lăm đồng).
Giao tài sản thế chấp gồm: Quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 234,9m2
thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 117, tọa lạc tại: Thôn C, xã XL, thị xã S, tỉnh Phú Yên;
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 887480, số vào sổ cấp GCN: CH04578
do UBND Thị xã S, tỉnh Phú Yên cấp cho bà Nguyễn Thị Thanh H ngày 15/12/2014 và
quyền sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số 067/16/HĐTCBĐS/2301-5548 ký ngày
27/4/2016; Và Quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1626.0 m2 thuộc thửa số 592 tờ
bản đồ số 16-ĐC tọa lạc tại: Thôn H, xã XC, thị xã S , tỉnh Phú Yên; theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số BV 340893, số vào sổ cấp GCN: CH00994 do UBND Thị
xã S, tỉnh Phú Yên cấp cho ông Phạm Văn H ngày 09/02/2015 và quyền sở hữu toàn bộ
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất số 083/16/HĐTC-BĐS/2301-5548 ký ngày 19/5/2016 để đảm bảo
thi hành án.
Căn cứ án lệ số 08/2016/AL HĐTPTANDTC thông qua ngày 17/10/2016 và
được công bố theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm vợ
chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền
lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng số 066/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 27/04/2016 và hợp đồng
tín dụng số 083/16/HĐTD/2301-5548 ký ngày 19/05/2016 cho đến khi thanh toán xong
21
khoản nợ gốc này. Lãi suất mà vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị Thanh H
vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo bản án của Toà án cũng sẽ
được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
-Về án phí:
Ngân hàng thương mại cổ phần K khơng phải chịu án phí Kinh doanh thương
mại sơ thẩm; hồn trả số tiền tạm ứng án phí mà Ngân hàng thương mại cổ phần K đã
nộp là 9.850.000 đồng ( Chín triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai số
AA/2015/0003031 ngày 06 tháng 03 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã
Sông Cầu, Phú Yên.
Vợ chồng ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị H phải chịu 21.031.000 đồng(hai
mươi mốt triệu không trăm ba mươi mốt nghìn đồng) án phí Kinh doanh thương mại sơ
thẩm.
Ngân hàng thương mại cổ phần K, bà Nguyễn Thị Thanh H được quyền kháng
cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng ông Phạm Văn H được
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- Đương sự
- VKSND T.x Sông Cầu, Phú Yên
- Chi cục thi hành án T.x Sông Cầu, Phú Yên
- TAND tỉnh Phú Yên
Lưu hồ sơ
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TỒ
Trần Văn Tơn