Phân tích bài thơ
"Khóc Dương Khuê"
Tác giả
Nguyễn Khuyến (1835 –
1909), người Yên Đổ,
Bình Lục, Hà Nam. Nhà
nghèo, rất hiếu thảo, học
giỏi và có chí lớn. Đỗ
đầu ba kỳ thi, được
người đời ái mộ gọi là
“Tam nguyên Yên Đổ”.
Làm quan dưới triều
Nguyễn. Yêu nước
nhưng bất lực trước thời
cuộc, cáo quan về quê,
không cam tâm làm tôi
tớ - tay sai cho thực dân
Pháp.
Tác phẩm: Còn để lại
trên 800 bài thơ nôm và
thơ chữ Hán, vài chục
câu đối nôm. Thơ
Nguyễn Khuyến bình dị
mà điêu luyện, mộc mạc
mà thâm trầm, hóm hỉnh.
Ông là nhà thơ của làng
quê. Một hồn thơ thanh
cao, chứa chan nghĩa
tình đối với quê hương,
gia đình, bằng hữu.
Những bài thơ thu,
những bài thơ viết về vợ
con, tình bạn… là hay
nhất, cảm động nhất.
Nguyễn Khuyến là nhà
thơ nôm kiệt xuất của
đất nước ta.
Xuất xứ
Dương Khuê (1839 –
1902) vị đại quan của
triều Nguyễn. Là nhà thơ
để lại một số bài thơ hát
nói tuyệt tác. Là bạn
đồng khoa, rồi trở thành
bạn tri kỷ của Nguyễn
Khuyến.
Năm 1902, Dương Khuê
qua đời, Nguyễn Khuyến
viết bài thơ chữ Hán,
nhan đề “Vãn đồng niên
Vân Đình tiến sĩ Dương
thượng thư”, sau đó tác
giả tự dịch ra chữ Nôm
thành bài “Khóc Dương
Khuê” bằng thơ song
thất lục bát gồm có 38
câu thơ.
Chủ đề
Đau xót và thương tiếc
bạn, khi bạn đột ngột
qua đời. Nhớ lại những
kỷ niệm đẹp của một
tình bạn đẹp, càng cảm
thấy cô đơn và đau đớn
hơn bao giờ hết.
Phân tích
1. Bạn thân qua đời đột
ngột. Được tin đau đớn
bàng hoàng:
“Bác Dương thôi đã thôi
rồi
Nước mây man mác
ngậm ngùi lòng ta”
Bốn tiếng “thôi đã thôi
rồi” thốt lên như bất ngờ
đánh rơi mất một cái gì
vô cùng thiêng liêng.
Nỗi đau xót ngậm ngùi
thấm sâu từ lòng ta, mà
tỏa rộng khắp “nước
mây man mác” bao la.
Ngôn ngữ bình dị mà
tiếng khóc lâm ly thấm
thía. Thật vô cùng điêu
luyện.
2. Nhớ từ thuở…
Giờ đã âm dương đôi
đường cách trở, nhưng
những kỷ niệm đẹp ngày
nào vẫn nhớ mãi không
nguôi. Nhớ kỷ niện xưa
là thương tiếc bạn vô
cùng, là tự hào về một
tình bạn đẹp, thủy
chung. Tuổi già khóc
bạn nên mới kể lể như
vậy:
- Nhớ ngày đỗ đạt, thành
đôi bạn đồng khoa, biết
mấy tự hào:
“Nhớ từ thuở đăng khoa
ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi với
bác cùng nhau”
- Nhớ những lần du
ngoạn thảnh thơi:
“Cũng có lúc chơi nơi
dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách
lưng đèo”
- Nhớ khi đàm đạo văn
chương tâm đầu ý hợp.
Một chén rượu, một
cung đàn, một điệu
hát… nhớ mãi bạn tao
nhân tri âm ở đời:
“Cũng có lúc rượu ngon
cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm
ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển
phần trước sau”
- Cùng chung hoạn nạn.
Cùng chung tuổi già. Ba
chữ “thôi” như một tiếng
thở dài ngao ngán:
“Bác già tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi
mới là!”
- Kỷ niệm cuối cùng đôi
bạn già gặp nhau. Nhiều
mừng vui bịn rịn. Phảng
phất lo âu. Xúc động bồi
hồi. Bạn đã mất rồi mà
nhà thơ tưởng như bạn
còn hiển hiện:
“Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh
thần chưa can”
3. Chợt nghe tôi bỗng
chân tay rụng rời…
- Bạn đã mất rồi. Tin
buồn đến quá đột ngột.
Đau đớn cực độ như
chết đi nửa con người.
Không thể nào tin được
“sự việc” đã xảy ra. Vừa
bàng hoàng ngạc nhiên
vừa tái tê đau đớn! Nhà
thơ như tự hỏi mình:
“Làm sao bác vội về
ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân
tay rụng rời”
- Trách bạn “Vội vàng
chi đã mải lên tiên”.
Cảm thông với nỗi “chán
đời” của bạn vì tuổi già
lại ốm đau,… Bạn “lên
tiên” để nhà thơ ở lại cõi
trần, trở nên cô đơn lẻ
bóng. Với Nguyễn
Khuyến nỗi đau như
nhân lên nhiều lần: vợ
mất, con chết, nay bạn
tri âm lại qua đời. Cuộc
sống mất hết niềm vui và
trở nên vô nghĩa. Nhà
thơ nhắc lại 2 điển tích
về Bá Nha và Chung Tử
Kỳ (đàn kia), về Trần
Phồn và Từ Trĩ (giường
kia…) để diễn tả nỗi
buồn bơ vơ, cô đơn, lẻ
bóng.
Đây là 6 câu thơ hay
nhất trong bài được
nhiều người hau nhắc
đến khi nói về tình bạn.
Có 6 chữ “không”, 2 từ
láy: “hững hờ”, “ngẩn
ngơ” – cho thấy nghệ
thuật sử dụng ngôn từ
cực kỳ điêu luyện, thơ
liền mạch – của Tam
nguyên Yên Đồ:
“Rượu ngon không có
bạn hiền,
Không mua không phải
không tiền không mua
Câu thơ nghĩ đắn đo
không viết,
Viết đưa ai ai biết mà
đưa.
Giường kia treo những
hững hờ,
Đàn kia gảy cũng ngẩn
ngơ tiếng đàn”
- Nỗi đau đớn, tiếc
thương bạn không thể
nào kể xiết. Nhà thơ như
“lặng” đi. Tuổi già vốn ít
lệ. Chỉ biết khóc bạn
trong lòng:
“Tuổi già hạt lệ như
sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng
chứa chan”
Câu thơ chữ Hán diễn tả
ý thơ này, nỗi đau như
nén lại:
“Lão nhân khốc vô lệ,
Hà tất cưỡng nhi liên”
Nghĩa là: Người già
khóc không nước mắt –
Cac chi mà cố gượng
cho (nước mắt) giàn giụa
ra.
Kết luận
“Khóc Dương Khuê” là
bài thơ hay nhất, cảm
động nhất nói về một
tình bạn đẹp, thắm thiết,
thủy chung của 2 nhà
nho, 2 nhà thơ một trăm
năm về trước. Nguyễn
Khuyến khóc bạn cũng
như đang tự khóc mình.
Thể thơ song thất lục bát
giàu âm điệu trầm bổng,
réo rắt đã góp phần tạo
nên giọng lâm li thê
thiết. Câu thơ nào, vần
thơ nào cũng như thấm
đầy lệ. Bài thơ “Khóc
Dương Khuê” khác nào
một bài văn tế?
Thu vịnh
Nguyễn Khuyến
Trời thu
xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ
thơ gió hắt hiu.
Nước biếc
trông như từng khói phủ,
Song thưa
để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm
trước giậu hoa năm
ngoái,
Một tiếng
trên không ngỗng nước
nào.
Nhân hững
cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại
thẹn với ông Đào.
Cảm hứng chủ đạo
Thu vịnh có nghĩa là
vịnh mùa thu, cũng có
thể hiểu mùa thu làm thơ
ngâm vịnh. Bài thơ nói
lên những rung động của
tâm hồn. Nguyễn
Khuyến, trước cảnh đẹp
mùa thu; ngập ngừng
bày tỏ một nỗi niềm
thầm kín trước thời
cuộc.
Phân tích
1. Đề
Câu 1, tả vẻ đẹp trời thu
nơi đồng quê: xanh ngắt,
thăm thẳm “mấy từng
cao”. Còn có cái bao la,
mênh mông của bầu trời
mà ta cảm nhân được.
Câu 2 tả một nét thu hữu
tình. Gió thu nhè nhẹ,
lành lạnh “hắt hiu” gợi
buồn, khẽ lay động
những ngọn tre, ngọn
măng trên luỹ tre làng.
“Cần trúc lơ thơ” là một
hình ảnh đầy chất thơ
mang theo hồn quê man
mác.
2. Thực
Cảnh thu sáng sớm hay
hoàng hôn, chập tối hay
canh khuya? Mặt ao thu
“nước biếc” bao phủ mơ
màng một làn sương
“như từng khói phủ”.
Đêm đêm nhà thơ mở
rộng cửa sổ (song thưa)
để đón trăng thu. Hai
chữ “để mặc” trong câu
thơ “Song thưa để mặc
bóng trăng vào” rất thần
tình, gợi tả tâm hồn rộng
mở và thanh cao của thi
nhân. Nguyễn Khuyến
thưởng trăng nào có
khác gì Nguyễn Trãi 600
năm về trước: “Hé cửa
đêm chờ hương quế lọt”
(Hương quế: trăng).
Phần thực tả trăng nước
mùa thu mang vẻ đẹp êm
đềm, thơ mộng. Nhà thơ
như đang chan hòa, đang
trang trải lòng mình với
thiên nhiên.
3. Luận
Lấy hoa để nhắc lại hoài
niệm; lấy tiếng ngỗng
không chỉ mượn động để
tả tĩnh mà còn để gợi tả
nỗi niềm cô đơn của
mình. “Hoa năm ngoái”
như một chứng nhân
buồn. Có khác gì Đỗ
Phủ xưa: “Khóm cúc
tuôn rơi dòng lệ cũ”?
“Ngỗng nước nào”, một
câu hỏi nhiều bâng
khuâng. Quê hương
mình, đất nước mình…
nhưng hồn quê nay đã
sầu tủi, hồn nước nay đã
bơ vơ… đã thành “nước
nào” rồi. Tiếng chích
chòe, tiếng cuốc kêu,
tiếng ngỗng gọi đàn
trong thơ Nguyễn
Khuyến đầy ám ảnh. Lấy
cái nhìn thấy đối với cái
nghe thấy, lấy thời gian
đối với không gian,
Nguyễn Khuyến đã khơi
gợi trong hồn ta cái chất
thơ của tình thu quyện
vào trong cảnh thu. Thu
vịnh là như thế!
4. Kết
Niềm hứng khởi và nỗi
thẹn của nhà thơ. Ngập
ngừng muốn cất bút làm
thơ để vịnh thu, nhưng
rồi lại thẹn. Thẹn với ai?
Với danh sĩ Đào Tiềm
đời nhà Tấn bên Trung
Quốc ngày xưa. Thẹn về
tài thơ hay thẹn về khí
tiết? Lấy điển tích này
diễn đạt bằng một so
sánh, Nguyễn Khuyến
khiêm tốn và kín đáo
giãi bày tâm sự mình,
khẳng định lương tâm
một nhà nho quyết giữ
vững khí tiết: “Rằng
quan nhà Nguyễn cáo về
đã lâu” (Di chúc).
Kết luận
Có yêu mùa thu nhiều
lắm mới tả, mới vịnh
mùa thu hay như vậy.
Một nét thu là một nét vẽ
thoáng và nhẹ, thanh và
trong, thực và mộng.
Bầu trời và mặt nước,
ngọn tre và làn gió thu,
bóng trăng và màn
sương khói, chùm hoa và
tiếng ngỗng trời… chứa
đựng cả một hồn thu
đồng quê xa xưa. Trong
cái hồn thu ấy thoáng
hiện tâm tình, tâm hồn
thi nhân: thanh cao, giàu
khí tiết, lặng lẽ và cô
đơn. Cảnh thu, tình thu
đẹp mà thoáng buồn, đầy
chất thơ. “Thu vịnh” là
một bài thơ kiệt tác.
Thu điếu
Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh
lẽo nước trong veo,
Một chiếc
thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc
theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng
trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ
lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc
quanh co khách vắng
teo.
Tựa gối ôm
cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp
động dưới chân bèo.
Xuất xứ, chủ đề
“Thu điếu” nằm trong
chùm thơ thu ba bài
“nức danh nhất” về thơ
nôm của Nguyễn
Khuyến. Bài thơ nói lên
một nét thu đẹp tĩnh
lặng nơi làng quê xưa,
biểu lộ mối tình thu đẹp
mà cô đơn, buồn của
một nhà nho nặng tình
với quê hương đất nước.
“Thu điếu” cũng như
“Thu ẩm”, “Thu vịnh”
chỉ có thể được Nguyễn
Khuyến viết vào thời
gian sau khi ông đã từ
quan về sống ở quê nhà
(1884).
Phân tích
1. Đề
Mở ra một không gian
nghệ thuật, một cảnh sắc
mùa thu đồng quê. Chiếc
ao thu “nước trong veo”
có thể nhìn được rong
rêu tận đáy, tỏa ra khí
thu “lạnh lẽo” như bao
trùm không gian. Không
còn cái se lạnh đầu thu
nữa mà là đã thu phân,
thu mạt rồi nên mới
“lạnh lẽo” như vậy.
Trên mặt ao thu đã có
“một chiếc thuyền câu
bé tẻo teo” tự bao giờ.
“Một chiếc” gợi tả sự cô
đơn của thuyền câu. “Bé
tẻo teo” nghĩa là rất bé
nhỏ; âm điệu của vần
thơ cũng gợi ra sự tun
hút của cảnh vật (trong
veo – bé tẻo teo) – Đó là
một nét thu đẹp và êm
đềm.
2. Thực
Tả không gian 2 chiều.
Màu sắc hòa hợp. có
“sóng biếc” với “lá
vàng”. Gió thổi nhẹ cũng
đủ làm cho chiếc lá thu
màu vàng “sẽ đưa vèo”,
làm cho sóng biếc lăn
tăn từng làn từng làn
“hơi gợn tí”. Phép đối tài
tình làm nổi bật một nét
thu, tô đậm cái nhìn thấy
và cái nghe thấy. Ngòi
bút của Nguyễn Khuyến
rất tinh tế trong dùng từ
và cảm nhận, lấy cái lăn
tăn của sóng “hơi gợn tí”
phối cảnh với độ bay
xoay xoay “sẽ đưa vèo”
của chiếc lá thu. Chữ
“vèo” là một nhãn tự mà
sau này thi sĩ Tản Đà
vừa khâm phục, vừa tâm
đắc. Ông thổ lộ một đời
thơ mới có được một câu
vừa ý: “Vèo trông lá
rụng đầy sân” (cảm thu,
tiễn thu).
3. Luận
Bức tranh thu được mở
rộng dần ra. Bầu trời thu
“xanh ngắt” thăm thẳm,
bao la. Áng mây, tầng
mây (trắng hay hồng?)
lơ lửng nhè nhẹ trôi.
Thoáng đãng, êm đềm,
tĩnh lặng và nhẹ nhàng.
Không một bóng người
lại qua trên con đường
làng đi về các ngõ xóm:
“Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo”. “Vắng
teo” nghĩa là vô cùng
vắng lặng không một
tiếng động nhỏ nào,
cũng gợi tả sự cô đơn,
trống vắng. “Ngõ trúc”
trong thơ Tam nguyên
Yên Đổ lúc nào cũng gợi
tả một tình quê nhiều
bâng khuâng, man mác:
“Dặm thế, ngõ đâu từng
trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến
dâu đây?”
(Nhớ núi Đọi)
“Ngõ trúc” và “tầng
mây” cũng là một nét
thu đẹp và thân thuộc
của làng quê. Thi sĩ như
đang lặng ngắm và mơ
màng đắm chìm vào
cảnh vật.
4. Kết
“Thu điếu” nghĩa là
mùa thu, câu cá. 6 câu
đầu mới chỉ có cảnh vật:
ao thu, chiếc thuyền câu,
sóng biếc, lá vàng, tầng
mây, ngõ trúc… mãi đến
phần kết mới xuất hiện
người câu cá. Một tư thế
nhàn: “tựa gối ôm cần”.
Một sự đợi chờ: “lâu
chẳng được”. Một cái
chợt tỉnh khi mơ hồ nghe
“Cá đậu đớp động dưới
chân bèo”. Người câu cá
như đang ru hồn mình
trong giấc mộng mùa
thu. Người đọc nghĩ về
một Lã Vọng câu cá chờ
thời bên bờ sông Vị hơn
mấy nghìn năm về trước.
Chỉ có một tiếng cá “đớp
động” sau tiếng lá thu
“đưa vèo”, đó là tiếng
thu của làng quê xưa.
Âm thanh ấy hòa quyện
với “Một tiếng trên
không ngỗng nước nào”,
như đưa hồn ta về với
mùa thu quê hương.
Người câu cá đang sống
trong một tâm trạng cô
đơn và lặng lẽ buồn.
Một cuộc đời thanh
bạch, một tâm hồn thanh
cao đáng trọng.
Kết luận
Xuân Diệu đã hết lời ca
ngợi cái điệu xanh trong
Thu điếu. Có xanh ao,
xanh sóng, xanh trời,
xanh tre, xanh bèo… và
chỉ có một màu vàng của
chiếc lá thu “đưa vèo”.
Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh
lặng mà man mác buồn.
Một tâm thế nhàn và
thanh cao gắn bó với
mùa thu quê hương, với
tình yêu tha thiết. Mỗi
nét thu là một sắc thu
tiếng thu gợi tả cái hồn
thu đồng quê thân thiết.
Vần thơ: “veo - teo - vèo
- teo – bèo”, phép đối
tạo nên sự hài hoà cân
xứng, điệu thơ nhẹ
nhàng bâng khuâng…
cho thấy một bút pháp
nghệ thuật vô cùng điêu
luyện, hồn nhiên – đúng
là xuất khẩu thành
chương. Thu điếu là một
bài thơ thu, tả cảnh ngụ
tình tuyệt bút.
Thu ẩm
Nguyễn Khuyến
Năm gian
nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm
sâu đóm lập lòe.
Lưng giậu
phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng
lánh bóng trăng loe.
Da trời ai
nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão
không vầy cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng
rằng hay hay chả mấy
Độ năm ba
chén đã say nhè.
Lời bình
Rượu , hoa, trăng… là
những thú tiêu khiển
thanh cao của các tao
nhân mặc khách xưa
nay. Bài thơ “Nâng
chén, hỏi trăng” của Lý
Bạch được nhiều người
yêu thích:
“… Người nay chẳng
thấy trăng thời trước,
Người trước, trăng nay
soi đã từng
Người trước, người nay
như nước chảy
Cùng xem trăng sáng
đều thế đấy.
Chỉ ước vui ca thưởng
chén quỳnh.
Be vàng, trăng sáng vào
rọi mãi”
(Tương Như dịch)
Tam nguyên Yên Đổ
cũng có nhiều câu thơ
rất đậm đà ý vị nói về
rượu
- “Khi vui chén rượu say
không biết
Ngửa mặt lờ mờ ngọn
núi xa.”
(Cáo quan về ở nhà)
- “Em cũng chẳng no mà
chẳng đói
Thung thăng chiếc lá,
rượu lưng bầu”
(Lụt hỏi thăm bạn)
- “Rượu ngon không có
bạn hiền,
Không mua không phải
không tiền không
mua”…
Và còn có Thu ẩm - mùa
thu; uống rượu.
Hình ảnh trung tâm của
bài thơ là “Mắt lão
không vầy cũng đỏ
hoe”. Câu thơ đã diễn tả
trạng thái ngà ngà say…
đến “say nhè”: “Rượu
tiếng rằng hay hay chả
mấy. - Độ năm ba chén
đã say nhè”. “Say nhè”
là say êm, say nhẹ, say
rồi ngủ quên đi lúc nào
chẳng biết. Chẳng phải
là say bét nhè, bê tha.
Nguyễn Khuyến rất
thanh cao, chỉ có “năm
ba chén” nhỏ, đúng là
cái thú “khi vui chén
rượu say không biết”,
hoặc “Khi hứng uống
thêm dăm chén rượu -
Khi buồn ngâm láo một
câu thơ” (Đại lão).
Sáu câu thơ đầu thì 5 câu
đều có màu sắc, thể hiện
một cái nhìn đêm thu lúc
ngồi uống rượu một
mình. Có màu đen thẫm
mịt mùng của đêm sâu
“ngõ tối”. Có ánh sáng
“lập lòe” của bầy đom
đóm. Có sắc trắng mờ
của “màu khói nhạt” nhẹ
bay “phất phơ” trên lưng
giậu cúc tần quanh năm
gian nhà cỏ bình dị. Có
màu vàng của “bóng
trăng loe” tan ra “lóng
lánh” trên làn ao “gợn
tí” trong veo. Có da trời
màu “xanh ngắt” rất đẹp.
Và sắc “đỏ hoe” của đôi
mắt ông lão, của thi nhân
đang uống rượu âm
thầm.
Cảnh vật có đường nét
cao, thấp, xa, gần, mỏng
và nhẹ. Độ “thấp le te”
của ngôi nhà cỏ 5 gian.
Độ “sâu” của đêm
khuya và “ngõ tối” nơi
làng quê vùng đồng
chiêm trũng. Độ nhẹ vờn
bay “phất phơ” của màu
khói nhạt. Chiều đo thấp
của “lưng giậu”, nét gợn
của “làn ao”, vòng tròn
của “bóng trăng loe”
trên mặt ao, độ xa, cao,
rộng của bầu trời, chân
trời, độ hõm của đôi mắt
lão “đỏ hoe” đã “say
nhè”. Màu sắc ấy, đường
nét ấy qua cái nhìn chập
chờn, tỉnh say say tỉnh
của nhà thơ. Màu sắc
đường nét ấy là màu sắc
của tâm tưởng, là đường
nét của tâm trạng. Còn
đâu nữa chén rượu tri âm
của đôi bạn “đăng khoa
ngày trước”:
“Cũng có lúc rượu ngon
cùng nhắp,
Chén quỳnh
tương ăm ắp bầu
xuân”…?
Nay nhà thơ chỉ còn
uống rượu trong “đêm
sâu”, âm thầm, lặng lẽ
và cô đơn. Cao Bá Quát
nửa đầu thế kỷ 19 chỉ
“uống rượu tiêu sầu”.
Còn Nguyễn Khuyến,
“đêm thu nay” uống
rượu cho vợi đi nỗi buồn
thế sự “rằng quan nhà
Nguyễn cáo về đã lâu”.
Uống rượu để thao thức,
thao thức nên uống rượu
để quên đi nỗi đau cuộc
đời: “Có phải tiếc xuân
mà đứng gọi - Hay là
nhớ nước vẫn nằm mơ”
(Cuốc kêu cảm hứng).
Vợ chết, con mất, bạn
chí thân qua đời, tuổi
già, yếu đau, Nguyễn
Khuyến mược “năm ba
chén” rượu để vợi đi ít
nhiều cô đơn:
“Đời loạn đi về như hạc
độc,
Tuổi già hình bóng tựa
mây côi”
(Gửi bạn)
Hình như chén rượu của
nhà thơ đã tràn đầy nước
mắt? Hai câu kết ý tại
ngôn ngoại. Thấm một
nỗi buồn mênh mông.
Người đọc vô cùng xúc
động khi nhìn thấy nhà
thơ “say nhè” nằm ngủ:
“Rượu tiếng rằng hay
hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say
nhè”
Cả bài thơ, ngoài đầu đề
“Thu ẩm” ra, chẳng có
một chữ thu nào nữa, thế
mà câu thơ nào cũng
chứa đựng một tình thu
và hồn thu man mác, dào
dạt. Đó là chất thi vị độc
đáo của bài thơ này. Các
từ láy: le te, lập loè,
phất phơ, long lanh…,
với các từ rượu, chén,
say nhè - cho thấy nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ
của Nguyễn Khuyến vô
cùng tinh luyện, hình
tượng và biểu cảm.
Trước Nguyễn Khuyến
gần 500 năm Nguyễn
Trãi có câu thơ:
“Sách một hai phiên làm
bậu bạn,
Rượu năm ba chén đổi
công danh”
(Tự thán - 10)
Sau khi Nguyễn Khuyến
mất gần nửa thế kỷ, nhà
thơ Hồ Chí Minh cũng
có câu thơ nói về rượu:
“Du kích quy lai tửu vị
tàn” - Thu dạ, 1948.
Đó là những chén rượu
một thời, cũng là những
chén rượu một đời. Chén
rượu của các thi nhân -
chén rượu thanh cao và
sang trọng.
Thương vợ
Tú Xương
Quanh năm buôn bán ở
mom sông.
Nuôi đủ năm con với
một chồng.
Lặn lội thân cò khi
quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò
đông.
Một duyên hai nợ âu
đành phận
Năm nắng mười mưa
dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở
bạc.
Có chồng hờ hững cũng
như không.
Tác giả
Tú Xương là bút danh
của Trần Tế Xương. Học
vị tú tài, lận đận mãi
trong con đường khoa
cử: “Tám khoa chưa
khỏi phạm trường quy”,
chỉ sống 37 năm, nhưng
sự nghiệp thơ ca của ông
thì bất tử. Quê ở làng Vị
Xuyên, thành phố Nam
Định. “Ăn chuối ngự,
đọc thơ Xương” là câu
nói tự hào của đồng bào
quê ông.
Tú Xương để lại khoảng
150 bài thơ nôm, vài bài
phú và văn tế. Có bài
trào phúng. Có bài trữ
tình. Có bài vừa trào
phúng vừa trữ tình.
Giọng thơ trào phúng
của Tú Xương vô cùng
cay độc, dữ dội mà xót
xa. Ông là nhà thơ trào
phúng bậc thầy trong
nền văn học cận đại của
dân tộc.
Chủ đề
Bài thơ ca ngợi những
phẩm chất tốt đẹp của
người vợ, của người phụ
nữ đảm đang chịu
thương chịu khó vì
chồng con.
Hình ảnh bà Tú, người
vợ hiền thảo
- Câu 1, 2 giới thiệu bà
Tú là một người đàn bà
giỏi buôn bán, tần tảo
“quanh năm”, buôn bán
kiếm sống ở “mom
sông”, cảnh đầu chợ, bến
đò, buôn thúng bán mẹt.
Chẳng có cửa hàng cửa
hiệu. Vốn liếng chẳng có
là bao. Thế mà vẫn
“Nuôi đủ năm con với
một chồng?”. Chồng đậu
tú tài, chẳng là quan
cũng chẳng là cùng đinh
nên phải “ăn lương vợ”.
Một gia cảnh “Vợ quen
dạ để cách năm đôi”.
Các số từ: “năm” (con),
“một” (chồng) quả là
đông đúc. Bà Tú vẫn cứ
“nuôi đủ”, nghĩa là ông
Tú vẫn có “giày giôn
anh dận, ô Tây anh
cầm”,… Câu thứ 2 rất
hóm hỉnh.
- Câu 3-4 mượn hình ảnh
con cò trong ca dao, tạo
thành “thân cò” - thân
phận lam lũ vất vả, “lặn
lội”. Cò thì kiếm ăn nơi
đầu ghềnh, cuối bãi, bà
Tú thì lặn lội… khi
quãng vắng, nơi mom
sông. Cảnh lên đò xuống
bến, cảnh cãi vã, giành
giật bán mua “eo sèo
mặt nước buổi đò đông”
để kiếm bát cơm manh
áo cho chồng, con. Hình
ảnh “thân cò” rất sáng
tạo, vần thơ trở nên dân
dã, bình dị. Hai cặp từ
láy: “lặn lội” và “eo sèo”
hô ứng, gợi tả một cuộc
đời nhiều mồ hôi và
nước mắt.
- Câu 5, 6, tác giả vận
dụng rất hay thành ngữ:
“Một duyên hai nợ” và
“năm nắng mười mưa”.
Ba tiếng đối ứng thượng,
hạ: “âu đành phận”,
“dám quản công” như
một tiếng thở dài. Có
đức hy sinh. Có sự cam
chịu số phận. Có cả tấm
lòng chịu đựng, lo toan
vì nghĩa vụ người vợ,
người mẹ trong gia đình.
Tú Xương có tài dùng số
từ tăng cấp (1-2-5-10) để
nói lên đức hy sinh thầm
lặng cao quý của bà Tú:
“Một duyên hai nợ/âu
đành phận,
Năm nắng mười
mưa/dám quản công”.
Tóm lại, bà Tú là hiện
thân của cuộc đời vất vả
lận đận, là hội tụ của bao
đức tính tốt đẹp: tần tảo,
gánh vác, đảm đang,
nhẫn nại,… tất cả lo toan
cho hạnh phúc chồng
con. Nhà thơ bộc lộ lòng
cảm ơn, nể trọng.
Nỗi niềm nhà thơ
- Câu 7 là một tiếng
chửi, đúng là cách nói
của Tú Xương vừa cay
đắng vừa phẫn nộ: “Cha
mẹ thói đời ăn ở bạc”.
“Cái thói đời” đó là xã
hội dở Tây dở ta, nửa
phong kiến nửa thực
dân: đạo lý suy đồi, lòng
người đảo điên. Tú
Xương tự trách mình là
kẻ “ăn ở bạc” vì thi mãi
chẳng đỗ, chẳng giúp
được ích gì cho vợ con.
Suốt đời vợ con phải
khổ, như có bài thơ ông
tự mỉa: “Vợ lăm le ở vú
- Con tập tểnh đi bộ -
Khách hỏi nhà ông đến -
Nhà ông đã bán rồi”.
- Câu 8 thấm thía một
nỗi đau chua xót. Chỉ có
Tú Xương mới nói được
rung động và xót xa thế:
“Có chồng hờ hững cũng
như không”. “Như
không” gì? Một cách nói
buông thõng, ngao ngán.
Nỗi buồn tâm sự gắn
liền với nỗi thế sự. Một
nhà nho bất đắc chí!
Kết luận
Bài thơ có cái hay riêng.
Hay từ nhan đề. Hay ở
cách vận dụng ca dao,
thành ngữ và tiếng chửi.
Chất thơ mộc mạc, bình
dị mà trữ tình đằm thắm.
Trong khuôn phép một
bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật, từ thanh
điệu, niêm đến phép đôi
được thể hiện một cách
chuẩn mực, tự nhiên,
thanh thoát. Tác giả vừa
tự trách mình vừa biểu
lộ tình thương vợ, biết
ơn vợ. Bà Tú là hình ảnh
đẹp đẽ của người phụ nữ
Việt Nam trong một gia
đình đông con, nhiều
khó khăn về kinh tế. Vì
thế nhiều người cho rằng
câu thơ “Nuôi đủ năm
con với một chồng” là
câu thơ hay nhất trong
bài “Thương vợ”.
Hương Sơn phong
cảnh ca
Chu Mạnh
Trinh
1- Bầu trời
cảnh bụt
Thú Hương
Sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non,
nước nước, mây mây
Đệ nhất
động hỏi là đây có phải.
2- Thỏ thẻ
Rừng Mai chim cúng trái
Lửng lơ Khe
Yến cá nghe kinh,
Thoảng bên
tai một tiếng chày kình,
Khách tang
hải giật mình trong giấc
mộng.
3- Này suối Giải Oan,
này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này
động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo
vẽ hình,
Đá ngũ sắc long lanh
như gấm dệt.
4- Thăm thẳm một hang
lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn
thang mây.
Chừng giang sơn còn
đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay
xếp đặt.
5- Lần tràng
hạt niệm nam mô Phật
Cửa từ bi
công đức biết là bao!
Càng trông
phong cảnh càng yêu.
Xuất xứ, bố cục, chủ đề
1. Chu Mạnh Trinh
(1862 - 1905) hiệu là
Trúc Vân, quê ở tỉnh
Hưng Yên. Đậu tiến sĩ,
nổi tiếng tài hoa. Hội
họa, kiến trúc, âm nhạc
đều tài giỏi. Là nhà thơ,
nổi tiếng với những bài
vịnh Kiều - Từng vẽ
kiểu trùng tu chùa Thiên
Trù ở Hương Tích. Bài
thơ “Hương Sơn phong
cảnh ca” là bài thơ hay
nhất viết về Hương Sơn,
nơi có động Hương Tích
- Nam thiên đệ nhất
động.
2. Bố cục: bài hát nói
dôi 2 khổ
- Khổ đầu (1): giới thiệu
khái quát cảnh Hương
Sơn.
- Khổ giữa (2): cảnh
Rừng Mai, Khe Yến…
huyền diệu.
- Khổ dôi (3, 4): những
suối, chùa, hang, động…
nơi Hương Sơn.
- Khổ xếp (5): nỗi lòng
của khách hành hương.
3. Chủ đề:
Ca ngợi cảnh sắc Hương
Sơn - Nam thiên đệ nhất
động - cảnh đẹp đượm
mùi Thiền.
Phân tích
1. Cảnh Hương Sơn tả
khái quát từ xa. Thiên
nhiên nhuốm màu sắc
Phật giáo: Cảnh trí hùng
vĩ: non, nước, mây trời
là vẻ đẹp riêng “bầu trời
cảnh bụt”. Du khách vui
thú ngạc nhiên thốt lên
tự hỏi: “Đệ nhất động
hỏi là đây có phải?”.
Đầy xúc động, tự hào.
2. Rừng Mai và Khe Yến
là 2 cảnh đẹp tiêu biểu
của Hương Sơn. Chim
hót “thỏ thẻ”, gọi bầy,
mổ trái mơ vàng ăn:
“Chim cúng trái”. Cá
lửng lơ bơi lượn nơi Khe
Yến: cá nghe kinh. Hình
ảnh ẩn dụ, với đường
nét, âm thanh gợi cảm
mùi Thiền. Cặp câu đối
nhau rất tài hoa:
“Thỏ thẻ Rừng Mai,
chim cúng trái,
Lửng lơ Khe Yến cá
nghe kinh”
Chuông chùa xa “thoảng
bên tai một tiếng chày
kình” như rũ sạch bụi
trần, làm tiêu tan cơn ác
mộng của du khách -
khách tang hải. Vần thơ:
tiếng “kình” với “giật
mình”, âm điệu du
dương, huyền diệu.
3. Hai khổ dôi
+ Bốn cảnh đẹp điển
hình. Chữ “này” - từ để
trỏ gần, nhịp 4 cân xứng
hài hòa. Du khách ngắm
nhìn không chán “cảnh
Bụt”:
“Này suối Giải Oan /
này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích / này
động Tuyết Quynh.”
+ Lấy gấm dệt để so
sánh với nhũ đá trong
hang động, “long lanh”,
tưởng như có bóng
nguyệt lồng vào. Có
hang “thăm thẳm”…, là
lối “gập gềnh” như uốn
lượn “thang mây”. Vẻ
đẹp mộng ảo, thần tiên.
Du khách ngỡ ngàng tự
hỏi:
“Chừng
giang sơn còn đợi ai đây,
Hay tạo hóa khéo ra tay
xếp đặt.”
Niềm “ao ước” đến
Hương Sơn cũng là tình
yêu giang sơn, là sự hòa
nhập vào thế giới thần
tiên huyền diệu. Bốn chứ
“còn đợi ai đây” biểu lộ
niềm tự hào của nhà thơ
- là người đã vẽ kiểu và
tổ chức trùng tu chùa
Thiên Trù, góp phần
cùng “tạo hóa” làm đẹp
thêm cảnh Hương Sơn.
Tám câu trong 2 khổ dôi
rất đẹp và thú vị: sử
dụng điệp nhữ (này), ẩn
dụ, so sánh (long lanh
như gấm dệt; thang
mây), từ láy tượng
thanh, tượng hình (long
lanh, thăm thẳm, gập
ghềnh). Vần thơ trầm
bổng, du dương. Thể
hiện lòng yêu mến, tự
hào đối với “Nam thiên
đệ nhất động”.
4. Khổ xếp (ba câu
cuối):
Cảm xúc của du khách:
Xúc động thành kích
tụng niệm. Ngợi ca và
biết ơn Phật tổ: “Cửa từ
bi công đức biết là
bao!”. Đi xa dần, nhìn
lại, lưu luyến đầy say
mê: “Càng trông phong
cảnh càng yêu”. Cảm
hứng thiên nhiên chan
hòa với lòng tín ngưỡng
Phật giáo. Chu Mạnh
Trinh đã nói lên thật hay
và hồn nhiên tình cảm ấy
của du khách khi đi lễ
hội Chùa Hương.
Kết luận
Ngòi bút tài hoa. Miêu tả
cảnh sắc Hương Sơn rất
đẹp, vẻ đẹp thiên nhiên
với suối, am, chùa,
động… đượm mùi Thiền
mà thoát tục. Các nét vẽ
rất điển hình mang cái
hồn của “bầu trời cảnh
bụt”. Hình ảnh đẹp - vẻ
đẹp thần tiên. Người đọc
như cảm thấy Hương
Sơn hiển hiện. Chất thơ,
chất nhạc du dương tạo
nên nét tài hoa và giá
trị thẩm mĩ bài hát nói
này. Nhà thơ như mời
gọi chúng ta đi trẩy hội
chùa Hương, để thỏa
lòng “ao ước bấy lâu
nay”.
Tóm tắt vở kịch "Âm
mưu và tình yêu"
Tác giả
Sile (1759-1805) là kịch
tác gia vĩ đại, “viên công
tố của toàn nhân loại đã
kêu gọi loài người cùng
hướng về trời sao”.
Cùng với Gớt, Sile là
một trong hai ngôi sao
sáng trên bầu trời văn
học Đức thế kỷ 18.
Tác phẩm kịch gồm có:
Những tên cướp (1780),
Âm mưu và tình yêu
(1784), Người thiếu nữ
ở Orlêăng (1801),
Vinhem Ten (1804),…
Sile đã xây dựng thành
công những vở kịch có
xung đột dữ dội, những
nhân vật, tính cách điển
hình thể hiện mãnh liệt
khát vọng tự do và tinh
thần bất khuất chống
cường quyền bạo lực.
Tóm tắt vở kịch “Âm
mưu và tình yêu”
Vở kịch có 5 hồi bằng
văn xuôi.
Luizơ là con gái nhạc
công Mile yêu thiếu tá
Fecđinăng là con trai Tể
tướng Fôn Vante. Phu
nhân Minfo là tình nhân
của Công tước nay đã bị
Công tước chán bỏ. Tể
tướng bắt ép thiếu tá
phải kết duyên cùng phu
nhân Minfo để lấy lòng
Công tước. Fecđinăng
gặp Minfo nói cho phu
nhân biết là chàng đã có
người yêu là nang Luizơ,
cô vô cùng xấu hổ. Tể
tướng làm nhục Luizơ,
gọi nàng là con đĩ, mạt
sát ông bà Minle. Tể
tướng và thiếu tá đấu
khẩu dữ dội. Thiếu tá
kiếm tuốt trần, đâm bị
thương một số nhân viên
pháp đình.
Đổng lí Vuôm hiến kế
bắt giam ông bà Mile.
Muốn cứu bố mẹ, Luizơ
phải viết một bức thư
tình gửi cho Thị vệ
trưởng Fôn Canbơ do
chúng đọc. Chúng đưa
bức thư tình ấy cho
Fecđinăng. Fecđinăng
thách Thị vệ trưởng đấu
súng làm cho hắn vô
cùng sợ hãi. Đau khổ…
Fecđinăng pha thuốc độc
bắt người yêu cùng mình
uống. Uống xong thuốc
độc, Luizơ mới nói ra sự
thật đau lòng! Cùng lúc
ấy, Tể tướng phải nộp
mình cho nhân viên pháp
đình.
Hồi hai: Ngang trái
1. Xung đột diễn ra dữ
dội tại nhà nhạc công
Mile
Luizơ bị Tể tướng sỉ
nhục đã ngất đi.
Fecđinăng đỡ lấy người
yêu rồi kêu lên hoảng
hốt: “Cứu nàng với,
nàng sợ hãi ngất đi rồi!”.
Trong lúc đó, nhạc công
Mile nắm lấy gậy, căm
giận nhìn Tể tướng, bà
Mile vô cùng sợ hãi, quỳ
sụp xuống chân Tể
tướng. Tể tướng ra lệnh
bắt giam Luizơ: “Bắt lấy
nó, dù nó ngất hay tỉnh.
Khi nào vòng sắt gông
vào cổ nó rồi, người ta
sẽ dùng đá ném cho nó
tỉnh lại”. Bà Mile cất
tiếng kêu van, trái lại,
ông nhạc công Mile thì
giận dữ khinh bỉ gọi Tể
tướng và các nhân viên
pháp đình là “lũ vô lại”.
2. Cuộc đấu khẩu dữ
dội giữa hai cha con -
Thiếu tá và Tể tướng.
- Tể tướng ra lệnh cho
các nhân viên pháp đình
bắt Luizơ. Thiếu tá bảo
vệ người yêu, tuốt kiếm.
Nhân viên pháp đình sợ
hãi lùi ra, lại xông vào.
Thiếu tá đâm bị thương
vài tên.
Thiếu tá cầu xin Tể
tướng “đừng dồn ép con
thêm nữa”. Lại cầu xin:
“… đừng dồn ép con
đến chỗ cùng đường cha
ơi!”. Tể tướng mắng
nhiếc bọn nhân viêc
pháp đình là “quân tôi
đòi hèn mạt”, tự tay túm
lấy Luizơ, giao cho một
tên nhân viên pháp đình,
đồng thời thách thức
Thiếu tá: “Tao muốn
xem liệu chính ta có phải
nếm lưỡi kiếm này
không?”.
- Vấn đề đạo lý được đặt
ra: liệu con có dám đâm
cha để bảo vệ người yêu
hay không? Xung đột
kịch diễn biến đến cao
trào.
- Thiếu tá mạt sát Tể
tướng:… “Thượng đế đã
lầm, đã lẫn chọn tên đao
phủ đê hèn lên làm Tể
tướng mạt hạng”. Không
chỉ là con lên án cha mà
đó là tiếng nói nhân
danh công lý và nhân
dân lên án bạo quyền,
lên án một xã hội -
phong kiến cát cứ - đã
lỗi thời.
- Fecđinăng dọa: “Nếu
nàng lên giá nhục hình,
nhưng là cùng với Thiếu
tá con trai Tể tướng…” -
Một sự ngập ngừng đầy
tính kịch. Và Tể tướng
châm biếm: “Tức thì
cuộc trừng bày sẽ càng
thú vị!”. Kiên quyết ra
lệnh bắt Luizơ: “Lôi nó
đi!”.
- Lại van xin! Tất cả vì
tình yêu mà Fecđinăng
vẫn chưa tìm được, chưa
lựa chọn được cách ứng
xử. Một mặt chàng quyết
dùng thanh kiếm sĩ quan
(danh dự và quyền lực)
mà “che phủ cho người
thiếu nữ này”; mặt khác
lại van xin một chút tình
cha con nào đó còn sót
lại trong lòng Tể tướng:
- “Cha vẫn cương quyết
ư?” - Xung đột càng trở
nên dữ dội, khi Tể tướng
vừa châm biếm vừa ra
lện: “Lên giá nhục hình
mà mang kiếm bên mình
thì chẳng hợp chút
nào… Lôi nó lôi nó đi,
đi, chúng mày rõ ý tao
rồi đấy!”.
3. Có thể xem đây là
“bước đột biến” của
Hồi hai này!
Lưỡi kiếm lại xuất hiện,
tiếng nói của Fecđinăng
càng quyết liệt hơn.
Giằng lấy Luizơ từ tay
nhân viên pháp đình, ôm
lấy Luizơ, chĩa lưỡi
kiếm vào nàng và nói:
“Thà tôi đâm lưỡi kiếm
này qua xác vợ tôi còn
hơn nhìn nàng bị cha sỉ
nhục!” - Từ người yêu,
Luizơ đã trở thành vợ,
Thiếu tá khẳng định
quyết tâm bảo vệ người
yêu của mình. Tể tướng
vẫn thách thức. Xung
đột kịch càng trở nên
quyết liệt: “Đâm đi, nếu
mũi kiếm của mày còn
đủ nhọn!”. Đó là sự
thách thức của cường
quyền! Tể tướng muốn
ép con trai mình kết
duyên cùng phu nhân
Minfo. Trở lực lớn nhất
là tình yêu của Luizơ.
Phải bắt nàng để triệt
phá, để thực hiện “âm
mưu” và để tấn công bề
trên, đó là Công tước!
Cái ác đi kèm cái hèn hạ,
sự đê tiện và sỉ nhục, đó
là nhân cách của Tể
tướng, và buồn thay, đó
còn là một người cha -
một người cha đã bán
mình cho quỷ dữ.
4. “Bước mở nút” -
xung đột được đẩy lên
đến đỉnh điểm rồi chùng
lại, mâu thuẫn được giải
quyết. Cử chỉ Fecđinăng
buông Luizơ, ngước mắt
nhìn trời ghê gớm. Thiếu
tá độc thoại. Chàng cầu
đến Chúa. Sức chịu
đựng của một con người
đã vượt quá giới hạn và
chỉ một cách “dùng đến
thủ đoạn của loài ma
quỷ!”. Sẵn sàng trả giá,
và thách thức: “Được
các người cứ đưa nàng
lên giá nhục hình đi!”.
Như một cú đánh trời
giáng khi Fecđinăng thét
vào tai Tể tướng: “Ta sẽ
đi kể cho tất cả cung
điện này nghe một câu
chuyện nhan đề là:
Người ta đã leo lên ghế
Tể tướng bằng cách
nào!”. Như bị sét đánh,
Tể tướng sụp đỏ. Như
loài ma quỷ sợ ánh sáng.
Hắn đã kinh hoàng kêu
lên: “Thế là thế nào,
Fecđinăng! Hắn ra lệnh:
buông con bé ra!” rồi
chạy theo Thiếu tá.
Kết luận
Nhạc công Mile xuất
thân bình dân và
Fecđinăng xuất thân
quyền quý đã dũng cảm
và ngoan cường chống
bạo quyền vì khát vọng
tự do và hạnh phúc. Hồi
hai đầy kịch tính. Có lúc
ta xúc động về lưỡi kiếm
của Fecđinăng sẽ vang
lên, hoặc là đâm chết
người yêu và tự sát, hoặc
là đâm vào Tể tướng. Và
thật thú vị, bạo quyền đã
bị đánh gục chỉ bằnh
một câu nói mạnh như
sấm sét. Tình yêu làm
nên sức mạnh phi
thường.
Xung đột dữ dội. Chỉ
một hồi kịch ngắn, ta
vần tìm ra năm bước như
một vở kịch: giao đãi,
phát triển, cao trào, đột
biến và mở nút. Và đó là
nét đặc sắc của kịch Sile
và kịch cổ điển Đức
trong thế kỷ 18.
Đoạn văn “Đám tang
lão Gôriô”
Tác giả
Banzăc (1799 - 1850) là
nhà tiểu thuyết Pháp nổi
tiếng, “một bậc thầy của
chủ nghĩa hiện thực”.
Ông đã sáng tạo ra bộ
“Tấn trò đời” đồ sộ, bất
hủ gồm 87 tác phẩm với
trên 2000 nhân vật.
Miếng da lừa (1871),
Ơgiêni Grăng đê (1833),
Lão Gôriô (1834), Ảo
mộng tiêu tan (1837 -
1843),… là những kiệt
tác của Banzăc.
Bằng ngòi bút chân thực,
cụ thể lịch sử, Banzắc đã
xây dựng hàng loạt tính
cách điển hình trong
những hoàn cảnh điển
hình. Qua bộ Tấn trò
đời, tác giả đã phê phán
xã hội tư sản, vì nó như
một tấn hài kịch, trong
đó đồng tiền tác oai tác
quái, gây ra biết bao bi
kịch đau lòng.
Phân tích đoạn văn
“Đám tang lão Gôriô”
1. Lão Gôriô xưa kia
nhờ buôn bán lúa mì mà
giàu có. Nhưng hai “ái
nữ” của lão đã bòn rút
đến đồng vàng cuối
cùng. Cuối đời lão sống
cô đơn, nghèo khổ trong
cái quán trọ tồi tàn của
mụ Vôke. Lão chết năm
69 tuổi. Không một
người thân thích. Người
ta đã tháo đinh quan tài,
đặt lên ngực lão “cái
hình ảnh” của hai cô
con gái yêu thương của
lão khi chúng nó “còn bé
bỏng, đồng trinh và
trong trắng…” - Một chi
tiết hiện thực vô cùng
chua chát nói lên sự vô
tình, bạc bẽo của hai đứa
con gái lấy chồng giàu
sang.
2. Chỉ có Raxtinhăc và
Crixtôphơ (hai người
cùng ở chung nơi quán
trọ) cùng với hai gã đô
tuỳ đưa lão đến ngôi nhà
thờ Thánh - Êchiên-đuy-
Mông. Xác chết của kẻ
nghèo khó được đặt
trước một giáo đường
nhỏ, thấp và tối. Tang lễ
sơ sài, qua quýt mất 20
phút với cái giá 70 quan
do hai vị linh mục, chú
bé hát lễ và người bõ
nhà thờ. Tang lễ qua
quýt thế thôi, rẻ rúng thế
thôi, bởi lễ “trong một
thời kỳ mà tôn giáo
không lấy gì làm giàu
lắm để cầu kinh làm
phúc”. Như vậy là,
Thánh đường, linh mục,
tang lễ… đều được cân,
đo, đong, đếm bằng tiền.
Bốn người có mặt trong
tang lễ cũng vì tiền mà
đến. Crixtôphơ vì nghĩa
vụ” mà anh ta đến đưa
đám, vì lão Gôriô chết
“đã làm cho anh ta kiếm
được mấy món tiền đãi
công kha khá”.
3. Không có người đưa
đám, lại đã năm giờ
rưỡi rồi, xác chết lão
Gôriô được chở nhanh
đến nghĩa địa, lúc ấy có
hai chiếc xe có treo huy
hiệu nhưng không có
người ngồi, một của bá
tước Đơ Rextô, và một
của nam tước Đơ
Nuyxinghen theo sau
chiếc xe tang đến nghĩa
địa! Dù là con gái,
nhưng nay đã trở thành
mệnh phụ rồi, không thể
đi đám ma một kẻ nghèo
khó, hèn mọn! Một nét
vẽ sâu sắc lên án tình đời
bạc bẽo!
4. Cảnh hạ huyện vội vội
vàng vàng. Bài kinh
ngắn cầu cho kẻ xấu số
do chàng sinh viên trả
tiền (như một sự bố thí).
Người nhà hai cô con gái
và đám người nhà đạo
biến ngay! Hai dã đào
huyệt mới hất được vài
xẻng đất xuống che lấp
chiếc áo quan thì ngẩng
đầu lên đòi tiền đãi
công! “Ơ gien móc túi
thấy không còn đồng
nào, chàng buộc phải
vay Crixtôphơ 20 xu”.
Cái món nợ này lại ghi
vào số nợ của người xấu
số ngày một thêm chồng
chất! Ai sẽ trả cho lão
Gôriô?
Cảnh nghĩa địa là “ngày
tàn, một buổi hoàng hôn
ẩm ướt” trên bầu trời có
những đám mây. Trong
cái khung cảnh buồn bã
ấy, Raxtinhăc “não lòng
ghê gớm”… “giọt nước
mắt tràn ra…”. Đây là
giọt nước mắt duy nhất
trong đám tang lão
Gôriô.
Kết luận
Một đám tang của kẻ già
nua, cô đơn và nghèo
hèn. Số tiền làm lễ ở nhà
thờ, tiền đọc kinh cầu
nguyện lúc hạ huyệt, tiền
đãi công phu đào huyệt,
và tiền thuê đòn đám ma
- bấy nhiêu khoản tiền,
ai bố thí cho lão Gôriô?
Cha cố và con chiên, cha
và con,… tất cả đều vì
tiền. Bằng những chi tiết
chân thực, cụ thể,
Banzăc đã là hiện lên
một đám tang của kẻ
nghèo hèn trong cái xã
hội kim tiền, tình đời
đen bạc. Chúng ta hãy
đọc lên vần thơ này để ai
điếu lão Gôriô bất hạnh:
“… Ai chết
đó? Trục xoay và bánh
đẩy,
Xe tang đi
về tận thế giới nào?
Chiều đông
tàn, lạnh xuống tự trời
cao,
Không lửa
ấm, chắc hồn buồn lắm
đó…”
(“Nhạc sầu”
- Huy Cận)