TC. DD & TP 14 (3) – 2018
THùC TR¹NG CH¡M SóC DINH DƯỡNG ở
BệNH NHÂN LAO ĐIềU TRị TạI BệNH VIệN PHổI
THáI BìNH NĂM 2017
Hong Khc Tun Anh1, Trn Th Vân Anh2, Phạm Thị Dung3, Lê Đức Cường4
Qua nghiên cứu mô tả dịch tễ học cắt ngang 127 bệnh nhân lao phổi tới khám và điều trị từ
tháng 9/2017 đến tháng 12/2017 và 24 nhân viên y tế (bác sỹ, điều dưỡng) tại 3 khoa Lao hô hấp
Nội 2 và Nội 3 - Bệnh viện Phổi Thái Bình về thực trạng chăm sóc dinh dưỡng ở bệnh nhân lao
điều trị tại bệnh viện năm 2017 cho thấy: có 100% bệnh nhân được thăm khám cân đo về chiều
cao, cân nặng khi nhập viện nhưng sau ra viện công tác này chưa được chú trọng. Đa số các bệnh
nhân ăn trên 3 bữa/ngày với nguồn cung cấp bữa ăn chủ yếu tại căng tin bệnh viện. Hầu hết các
bệnh nhân (94,5%) hài lòng với hoạt động tư vấn dinh dưỡng, trên 85% mong muốn xây dựng
khoa dinh dưỡng với nhân lực làm trong Khoa dinh dưỡng có chun mơn về dinh dưỡng, ý thức
đạo đức, sức khoẻ, cơ sở của Khoa đầy đủ tiện nghi, phong cách phục vụ tận tình, chu đáo. Các
nhân viên y tế đã thực hiện nhiều hình thức ni dưỡng khác nhau phù hợp cho từng bệnh nhân,
thời gian báo ăn muộn nhất của bệnh nhân sau vào viện là 1 giờ đảm bảo cho tất cả bệnh nhân đều
được phục suất ăn tại căng tin bệnh viện; có 91,7% bệnh nhân được tư vấn dinh dưỡng khi vào
viện và điều dưỡng là đối tượng chính giám sát chế độ ăn của bệnh nhân.
Từ khóa: Chăm sóc dinh dưỡng, bệnh nhân lao, Bệnh viện Phổi Thái Bình.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy dinh dưỡng và các bệnh nhiễm
trùng ln có mối quan hệ mật thiết,
nhiễm trùng làm tăng nguy cơ suy dinh
dưỡng và ngược lại suy dinh dưỡng làm
tình trạng nhiễm trùng nặng hơn. Bệnh
lao là một bệnh truyền nhiễm còn khá phổ
biến hiện nay. Dinh dưỡng cho bệnh nhân
lao là một vấn đề mới và cũng là một vấn
đề có ý nghĩa trong việc hỗ trợ điều trị
lao, tăng cường sức đề kháng và cải tình
trạng sức khỏe. Tuy nhiên, khi bệnh nhân
nhập viện điều trị, hoạt động chăm sóc
dinh dưỡng cho bệnh nhân lao gần như
chưa được chú trọng. Trong khi đó, nhiều
nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy,
suy dinh dưỡng là một vấn đề phổ biến
của bệnh nhân nằm viện. Do đó, chúng
tơi thực hiện đề tài nhằm mục tiêu: Mô tả
CN- Trường Đại học Y Dược Thái Bình,
Email:
2TS-Trường Đại học Y Dược Thái Bình
3TS-Trường Đại học Y Dược Thái Bình
4TS-Trường Đại học Y Dược Thái Bình
1
54
thực trạng chăm sóc dinh dưỡng ở bệnh
nhân lao điều trị tại Bệnh viện Phổi Thái
Bình năm 2017.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian
nghiên cứu: Các bệnh nhân được chẩn
đoán lao tuổi từ 18 đến 65 tuổi tới khám,
điều trị nội trú và cán bộ y tế công tác
bệnh viện Phổi Thái Bình tại Bệnh viện
Phổi Thái Bình từ tháng 9/2017 đến
12/2017. Không chọn những bệnh nhân
mắc lao kèm các bệnh lý như suy tim, suy
thận,suy gan,viêm gan, cơn đau thắt ngực
khơng ổn định, phình tách động mạch
chủ, kén khí lớn ở phổi và các tình trạng
bệnh lý cấp tính cần được xử trí cấp cứu,
bệnh nhân nhiễm HIV, nghiện rượu và
Ngày nhận bài: 16/4/2018
Ngày phản biện đánh giá: 7/5/2018
Ngày đăng bài: 1/6/2018
làm việc trong môi trường độc hại và
không đồng ý tham gia nghiên cứu [1].
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên
cứu mô tả dịch tễ học cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn
mẫu: Chọn tất cả các bệnh nhân đến
khám từ tháng 9/2017 đến tháng 12/2017
được chẩn đoán lao, đáp ứng các tiêu
chuẩn chọn mẫu và toàn bộ nhân viên y
tế (bác sỹ, điều dưỡng) tại 3 khoa Lao hô
hấp Nội 2 và Nội 3 của Bệnh viện Phổi
Thái Bình: 24 cán bộ.
2.2.3. Các chỉ số và biến số trong
nghiên cứu: Tuổi, giới, học vấn, số bữa
ăn, nguồn cung cấp bữa ăn, chế độ ăn,
phương pháp nuôi dưỡng, phương pháp
tư vấn dinh dưỡng; nhu cầu về xây dựng
khoa dinh dưỡng.
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
2.2.4. Xử lý số liệu: Theo phương
pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm
SPSS 16.0.
2.2.5. Khía cạnh đạo đức trong
nghiên cứu: Các đối tượng tham gia
được giải thích ý nghĩa, mục đích, quy
trình nghiên cứu và tự nguyện tham gia.
Mọi thơng tin của đối tượng nghiên cứu
đều được bí mật đảm bảo quyền lợi của
người bệnh. Mục đích của nghiên cứu
nhằm góp phần chăm sóc sức khỏe cộng
đồng mà khơng nhằm mục đích gì khác.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Trong tổng số 127 bệnh nhân tham gia
nghiên cứu có 80,3% là bệnh nhân nam
và 19,7% là bệnh nhân nữ; trình độ học
vấn là cấp 1 chiếm 20,5%, cấp 2 chiếm
50,4 %, cấp 3 chiếm 26,7% và trình độ
cao đẳng, đại học là 1,6%.
Bảng 1. Số bữa ăn, chế độ ăn uống của bệnh nhân (n=127)
Nhóm tuổi
Chế độ ăn
2 bữa
Số bữa ăn hàng
3 bữa
ngày
Trên 3 bữa
Tự nấu
Quán ăn ngoài
Nguồn cung
cấp bữa ăn
Căng tin bệnh viện
Khác
Có
Ăn bữa phụ
Khơng
Có
Ăn kiêng
Khơng
≤ 50 tuổi
(n = 60)
n
%
0
2
58
1
2
57
0
54
6
2
58
Kết quả bảng 1 cho thấy: Đa số bệnh
nhân lao ăn trên 3 bữa 1 ngày chiếm
95,3% với nguồn cung cấp bữa ăn chủ
yếu là từ căng tin bệnh viện chiếm đa số
với 93,7%. Chỉ có 5% (n=7) bệnh nhân
có ăn kiêng và 94,5% (n=120) bệnh nhân
0
3,3
96,7
1,7
3,3
95
0
90
10
3,3
96,7
> 50 tuổi
(n = 67)
n
%
1
3
63
2
3
62
0
64
3
5
62
1,5
4,5
94
3
4,5
92,5
0
95,5
4,5
7,5
92,5
Chung
(n = 127)
n
%
1
5
121
3
5
119
0
118
9
7
120
0,8
3,9
95,3
2,4
3,9
93,7
0
92,9
7,1
5,5
94,5
khơng ăn kiêng. Có 92,9% (n=118) bệnh
nhân ăn theo suất ăn tại bệnh viện và
7,1% (n=9) bệnh nhân khơng ăn theo suất
ăn tại bệnh viện vì khơng thích ăn ở viện
hoặc nhà gần tự nấu mang đi và do suất
ăn tại viện quá ít.
55
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
Bảng 2. Phân bố tỷ lệ đối tượng nghiên cứu được thăm khám và tư vấn dinh dưỡng
Thăm khám
và tư vấn dinh dưỡng
Khám, cân đo khi Khi vào viện
vào viện
Trước khi ra viện
Tư vấn chế độ ăn
≤ 50 tuổi
(n = 60)
n
%
Nhóm tuổi
Khi vào viện
Trước khi ra viện
60
1
> 50 tuổi
(n = 67)
n
%
100
1,7
59
3
67
4
98,3
5
Kết quả bảng 2 cho thấy: 100% bệnh
nhân được thăm khám, cân đo về dinh
dưỡng khi vào viện. Trước khi ra viện chỉ
có 3,9% bệnh nhân được thăm khám, cân
65
6
100
6
97
9
Chung
(n = 127)
n
%
127
5
124
9
100
3.9
97.6
7.1
đo về dinh dưỡng; có 97,6 % bệnh nhân
được tư vấn chế độ ăn khi vào viện và
7,1% bệnh nhân) bệnh nhân được tư vấn
chế độ ăn trước khi ra viện.
Bảng 3. Mức độ hài lòng của bệnh nhân lao về hoạt động tư vấn dinh dưỡng của
bệnh viện
Mức độ
Nhóm tuổi
Rất hài lịng
Hài lịng
Khơng hài lịng
Rất khơng hài lịng
≤ 50 tuổi
(n = 60)
SL
%
0
58
2
0
0
96,7
3,3
0
Kết quả bảng 3 cho thấy: Mức độ hài
lòng của bệnh nhân lao về hoạt động tư
vấn dinh dưỡng của bệnh viện có 94,5%
> 50 tuổi
(n = 67)
SL
%
0
62
5
0
0
92,5
7,5
0
Chung
(n = 127)
SL
%
0
120
7
0
0
94,5
5,5
0
p
> 0,05
(n=120) bệnh nhân hài lịng và 5,5%
(n=7) bệnh nhân khơng hài lòng.
Biểu đồ 1. Ý kiến của bệnh nhân lao về việc xây dựng khoa dinh dưỡng bệnh viện (%)
56
Kết quả biểu đồ 1 cho thấy: Trong
tổng số 60 bệnh nhân ≤ 50 tuổi tham gia
nghiên cứu về xây dựng khoa dinh dưỡng
có 91,7% bệnh nhân cho rằng cần thiết;
1,7% bệnh nhân cho rằng không cần thiết
và 6,7% bệnh nhân không biết trả lời.
Trong 67 bệnh nhân > 50 tuổi tham gia
nghiên cứu về xây dựng khoa dinh dưỡng
có 85,1% bệnh nhân cho rằng cần thiết;
1,5% bệnh nhân cho rằng không cần thiết
và 13,4% (n=9) bệnh nhân không biết trả
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
lời. Nhưng khi hỏi về mong muốn của
bệnh nhân lao về Khoa dinh dưỡng của
bệnh viện thì 100% đều mong muốn về
nhân lực, người làm trong Khoa dinh
dưỡng có chun mơn về dinh dưỡng, ý
thức đạo đức, sức khoẻ; Khoa Dinh
dưỡng có cơ sở đầy đủ tiện nghi, đảm bảo
tiện nghi thuận tiện, phong cách phục vụ
tận tình, chu đáo, hài hồ, hồ đồng,
nhanh nhẹn, nhiệt tình.
Bảng 4. Các phương pháp ni dưỡng bệnh nhân lao tại Bệnh viện phổi Thái Bình (%)
SL
(n = 24)
Tỷ lệ
%
Miệng
Qua sonde
Qua tĩnh mạch
Phối hợp
20
0
1
9
83,3
0
4,2
37,5
1 giờ
2 giờ
3 giờ
4 giờ
24
0
0
0
100
0
0
0
Phương pháp
Phương pháp nuôi dưỡng
Thời gian báo ăn sau vào viện
Kết quả bảng 4 cho thấy: Trong tổng
số 24 nhân viên tham gia nghiên cứu tại
3 khoa trả lời về các phương pháp ni
dưỡng có 83,3% bệnh nhân được ni
dưỡng bằng đường miệng; 4,2% bệnh
nhân được nuôi dưỡng bằng đường tĩnh
mạch và 37,5% bệnh nhân được nuôi
dưỡng bằng phối hợp các đường ăn. Về
thời gian báo ăn sau vào viện có 100%
nhân viên trả lời thời gian báo ăn muộn
nhất của bệnh nhân sau vào viện là 1 giờ.
Bảng 5. Những phương pháp tư vấn dinh dưỡng được sử dụng tại bệnh viện
Khoa
Hình thức
Trao đổi nhóm nhỏ
Trao đổi cá nhân
Nói chuyện tại hội
trường
Ti vi/ báo/ tờ rơi
Khoa Nội
Khoa
(2 và 3) (n = 15) Lao hô hấp (n = 9)
n
%
n
%
Chung
(n = 24)
n
%
0
13
0
86,7
2
5
22,2
55,6
2
18
6
40
4
44,4
10
2
13,3
3
33,3
5
p
8,3
75
>0,05
>0,05
41,7
>0,05
20,8
>0,05
57
Kết quả bảng 5 cho thấy: Trong tổng
số 24 nhân viên tham gia nghiên cứu về
các phương pháp tư vấn dinh dưỡng được
sử dụng tại bệnh viện có 8,3% là trao đổi
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
nhóm nhỏ, 75% trao đổi cá nhân, 20,8%
nói chuyện tại hội trường và 41,7%
(n=10) là qua ti vi, báo tờ rơi.
Bảng 6. Ý kiến đóng góp của cán bộ y tế về hoạt động dinh dưỡng của bệnh nhân lao
Khoa
Các biến số
Khoa Nội
(2 và 3)
(n = 15)
n
%
Khi vào viện
Lúc bác sĩ đi buồng
Khi ra viện
Khi bệnh nhân yêu cầu
Bất kì lúc nào
14
0
0
0
1
93,3
0
0
0
6,7
8
0
0
0
1
Bác sĩ
Điều dưỡng
Người nhà bệnh nhân
0
12
3
0
80
20
1
3
5
Thời gian tư vấn dinh dưỡng
Đối tượng giám sát chế độ ăn của bệnh nhân
Kết quả bảng 6 cho thấy: Trong tổng
số 24 nhân viên tham gia nghiên cứu về
thời gian tư vấn dinh dưỡng cho bệnh
nhân cho rằng 91,7% là khi vào viện và
8,3% là bất kì khi nào. Nghiên cứu về đối
tượng giám sát chế độ ăn của bệnh nhân
từ nhân viên y tế cho rằng 4,2% là bác sĩ,
62,5% là điều dưỡng và 33,3% là người
nhà bệnh nhân.
BÀN LUẬN
Cơng tác về chăm sóc dinh dưỡng cho
người bệnh lao đã được chú trọng các
nước quan tâm từ lâu. Năm 2013 WHO
phát hành cuốn tài liệu: “Chăm sóc dinh
dưỡng và hỗ trợ bệnh nhân lao phổi
2013” [2] hướng dẫn bổ sung dinh dưỡng
cho bệnh nhân lao trong cộng đồng và
trong quá trình điều trị. Về số bữa ăn, chế
độ ăn uống của bệnh nhân tham gia
nghiên cứu, số bữa ăn trên 3 bữa chiếm
58
Khoa
Lao hô hấp
(n = 9)
n
%
Chung
(n = 24)
p
n
%
88,9
0
0
0
11,1
22
0
0
0
2
91,7
0
0
0
8,3
> 0,05
11,1
33,3
55,6
1
15
8
4,2
62,5
33,3
< 0,05
đa số 95,3%, số bữa là 2 chiếm 0,8% và
nằm ở nhóm bệnh nhân >50 tuổi. Nguồn
cung cấp bữa ăn cho bệnh nhân chủ yếu
là tại căng tin bệnh viện chiếm 93,7%. Số
bệnh nhân có ăn bữa phụ là 92,9%. Số
bệnh nhân khơng ăn bữa phụ nằm nhóm
≤50 tuổi là 66,6%. Sơ bệnh nhân ăn
kiêng là 5,5%. Đa số bệnh nhân trong
thời gian nằm viện đều ăn trên 3 bữa và
có ăn bổ sung bữa phụ sau khi được tư
vấn về chế độ ăn cũng như cải thiện tình
trạng bệnh do đáp ứng với thuốc lao, cải
thiện chức năng gan và tăng cảm giác
ngon miệng và thèm ăn. Căng tin bệnh
viện là nguồn cung cấp suất ăn chính vì
đa số bệnh nhân nằm điều trị nội trú tại
viện xa nhà, căng tin gần khoa bệnh
thuận tiện đi lại cung cấp suất ăn theo
nhu cầu. Số lượng bệnh nhân ăn kiêng
là 5 bệnh nhân chủ yếu là các bệnh nhân
tiểu đường cần chế độ ăn giảm tinh bột
và glucose.
Toàn bộ bệnh nhân được thăm khám
cân đo về chiều cao, cân nặng khi nhập
viện. Tuy nhiên, trước khi ra viện số
lượng bệnh nhân được thăm khám cân đo
lại về chiều cao, cân nặng chỉ chiếm
3,94% và 97,64% bệnh nhân được tư vấn
chế độ dinh dưỡng khi vào viện tuy
nhiên cũng chỉ có 7,09% bệnh nhân được
tư vấn lại chế độ ăn trước khi ra viện.
Giải thích cho vấn đề rất ít bệnh nhân
trước khi ra viện được cân đo lại chiều
cao, cân nặng cũng như tư vấn chế độ ăn
là do: Bệnh nhân trước khi ra viện
thường ít quan tâm tới cân nặng bản thân
và cũng như có nhu cầu kiểm tra lại.
Bệnh nhân thường chủ yếu chú trọng
tình trạng bệnh như xét nghiệm đờm cịn
vi khuẩn lao hay tổn thương phổi qua
phim X quang có thuyên giảm khơng. Về
phía nhân viên y tế, do số lượng cơng
việc nhiều cũng như không nhận được
yêu cầu kiểm tra lại của bệnh nhân nên
cũng đã bỏ qua công tác này. Nhưng trên
hết đó là nhận thức về việc đánh giá lại
cân nặng khi xuất viện, cải thiện cân
nặng là một thước đo thành cơng của
phác đồ điều trị. Do đó cần phải nâng cao
ý thức cũng như kiến thức về vấn đề
đánh giá tình trạng dinh dưỡng trước
xuất viện cũng như phân loại tình trạng
dinh dưỡng ban đầu khi vào viện cho
nhân viên y tế và bệnh nhân [3], [4].
Kết quả nghiên cứu cho thấy có
92,9% bệnh nhân ăn theo suất ăn tại viện
cịn 7,1% bệnh nhân khơng ăn theo suất
ăn tại viện với lí do khơng thích ăn ở
viện, nhà gần tự nấu mang đi và do suất
ăn tại viện quá ít. Các suất ăn tại viện
được bác sĩ chỉ định như cơm hay cháo
phù hợp với thể trạng bệnh tương ứng
với suất ăn tương đương. Mỗi suất cũng
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
được tính tốn sao cho phù hợp về mặt
năng lượng và tỉ lệ các chất dinh dưỡng
và đặc biệt là cho bệnh nhân ăn kiêng
như tiểu đường hay suy thận.
Trong nghiên cứu cũng cho thấy có
94,5% bệnh nhân hài lịng về hoạt động
tư vấn dinh dưỡng của bệnh viện. Kết
quả cho thấy cần tăng cường cải thiện
nội dung cũng như cách thức tư vấn dinh
dưỡng cho bệnh nhân khi vào viện và
trước khi ra viện.
Khi khảo sát về việc xây dựng khoa
dinh dưỡng hầu hết bệnh nhân cho rằng
cần thiết; mong muốn về nhân lực làm
trong Khoa dinh dưỡng có chun mơn,
ý thức đạo đức, sức khoẻ, cơ sở của
Khoa tiện nghi, thuận lợi. Như vậy đa số
bệnh nhân đã nhận thức được tầm quan
trọng của khoa dinh dưỡng tại viện Phổi
Thái Bình cho những bệnh nhân lao. Tuy
nhiên vẫn còn bệnh nhân chưa nhận thức
được tầm quan trọng của hoạt động chăm
sóc dinh dưỡng đối với quá trình điều trị.
Điều này cũng cho thấy cơng tác tư vấn
về vai trị dinh dưỡng với điều trị bệnh
và điều trị lao vẫn còn hạn chế. Các yếu
tố này đóng góp quan trọng cho hiệu quả
hoạt động của khoa và góp phần ý nghĩa
cho chất lượng điều trị của Bệnh viện.
Kết quả phỏng vấn 24 nhân viên trực
tiếp tham gia điều trị và chăm sóc trong
nghiên cứu về các phương pháp nuôi
dưỡng bệnh nhân lao tại Bệnh viện phổi
Thái Bình cho thấy có 83,3% bệnh nhân
được nuôi dưỡng bằng đường miệng;
4,2% bệnh nhân được nuôi dưỡng bằng
đường tĩnh mạch và 37,5% bệnh nhân
được nuôi dưỡng bằng phối hợp các
đường ăn. Việc chỉ định đường nuôi
dưỡng phụ thuộc thể trạng của bệnh nhân
mà đưa ra phương pháp ni dưỡng hợp
lí. Việc kết hợp các đường ni dưỡng
59
đảm bảo mọi bệnh nhân đều được chăm
sóc dinh dưỡng dù đang trong tình trạng
hơn mê hay đang hồi sức tích cực.
Phỏng vấn 24 nhân viên tham gia
nghiên cứu về thời gian báo ăn sau vào
viện của bệnh nhân có 100% nhân viên
trả lời thời gian báo ăn muộn nhất của
bệnh nhân sau vào viện là 1 giờ đảm bảo
cho tất cả bệnh nhân đều được phục suất
ăn tại căng tin bệnh viện.
Về phương pháp tư vấn dinh dưỡng
được sử dụng tại bệnh viện có 8,3% là
trao đổi nhóm nhỏ; 75% trao đổi cá nhân;
20,8% nói chuyện tại hội trường và
41,7% là qua ti vi, báo, tờ rơi. Cần đa
dạng hơn những phương pháp tư vấn
cũng như phối hợp các phương pháp để
đạp hiệu cao trong công tác truyền thông.
giáo dục sức khỏe.
Điều tra 24 nhân viên tham gia nghiên
cứu về thời gian tư vấn dinh dưỡng cho
bệnh nhân có 91,7% là khi vào viện và
8,3% là bất kì khi nào; về đối tượng giám
sát chế độ ăn của bệnh nhân có 4,2% là
bác sĩ; 62,5% là điều dưỡng và 33,3% là
người nhà bệnh nhân. Về thời gian tư vấn
cho bệnh nhân thường là lúc vào viện
bệnh nhân sẽ được hướng dẫn nội quy,
chế độ ăn cũng như trả lời câu hỏi. Đây
là khoảng thời gian trao đổi trực tiếp giữa
bệnh nhân và nhân viên y tế, bệnh nhân
đưa ra những thăc mắc của mình và được
giải đáp một cách trực tiếp. Tuy nhiên
không phải nhất thiết là nên tư vấn cho
bệnh nhân lúc vào viện, nhân viên y tế có
thể tư vấn bất kể thời điểm phù hợp với
2 bên như khi đi buồng hay sẵn sàng giải
đáp thắc mắc của bệnh nhân khi được
hỏi. Về vấn đề giám sát chế độ ăn của
bệnh nhân cần phối hợp giữa cả bác sĩ,
điều dưỡng và cả người nhà bệnh nhân
60
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
để cung cấp cho bệnh nhân chế độ ăn phù
hợp nhất tùy theo nhu cầu và thể trạng.
Hiện trạng khoa dinh dưỡng của bệnh
viện Phổi Thái Bình được thành lập năm
2015 có 1 cán bộ phụ trách khoa là kiêm
nhiệm. Khoa đã triển khai việc phục vụ
suất ăn đến tận bệnh nhân. Công tác phục
vụ các chế độ ăn cho người bệnh còn
nhiều hạn chế. Chưa thực hiện được hội
chẩn về dinh dưỡng đối với các trường
hợp bệnh nặng ở các khoa lâm sàng cũng
như chưa có chế độ ăn phù hợp với từng
bệnh và từng đối tượng bệnh nhân và đặc
biệt là đối với bệnh nhân lao [5], [6], [7].
IV. KẾT LUẬN:
Qua nghiên cứu 127 bệnh nhân lao
phổi tới khám và điều trị từ tháng 9/2017
đến tháng 12/2017 và 24 nhân viên y tế
(bác sỹ, điều dưỡng) tại 3 khoa Lao hô
hấp Nội 2 và Nội 3 - Bệnh viện Phổi Thái
Bình về thực trạng chăm sóc dinh dưỡng
ở bệnh nhân lao điều trị tại bệnh viện
năm 2017 chúng tơi có kết luận như sau:
1. Tất cả bệnh nhân được thăm khám
cân đo về chiều cao, cân nặng khi nhập
viện nhưng sau ra viện cơng tác này chưa
được chú trọng. Trong q trình điều trị
tại bệnh viện, đa số các bệnh nhân ăn trên
3 bữa/ngày với nguồn cung cấp bữa ăn
chủ yếu tại căng tin bệnh viện. Hầu hết
các bệnh nhân (94,5%) hài lòng với hoạt
động tư vấn dinh dưỡng, trên 85% mong
muốn xây dựng khoa dinh dưỡng.
2. Các nhân viên y tế đã thực hiện
nhiều hình thức ni dưỡng khác nhau
phù hợp cho từng bệnh nhân, đảm bảo
thời gian báo ăn muộn nhất của bệnh
nhân sau vào viện là 1 giờ, tất cả bệnh
nhân đều được phục suất ăn tại căng tin
bệnh viện; có 91,7% bệnh nhân được tư
vấn dinh dưỡng khi vào viện và điều
dưỡng là đối tượng chính giám sát chế độ
ăn của bệnh nhân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2015). Hướng dẫn chẩn đoán,
điều trị và phòng bệnh lao, Quyết định số
4263/QĐ-BYT
2. Cegielski JP, McMurray DN (2004). The
relationship between malnutrition and tuberculosis: evidence from studies in humans and experimental animals. Int. J.
Tuberc. Lung Dis. 2004;8:286–98.
3. Kennedy N, Ramsay A, Uiso L, Gutmann
J, Ngowi FI, Gillespie SH (1996). Nutritional status and weight gainin patients
with pulmonary tuberculosis in Tanzania.
1996 90:162-166.
4. Lettow van M, Fawzi WW, Semba RD
(2003). Triple trouble: the role of malnu-
TC. DD & TP 14 (3) – 2018
trition in tuberculosis and human immunodeficiency virus co-infection. Nutr Rev.
2003;61:81–90.
5. Papathakis P, Piwoz E (2008). Nutrition
and tuberculosis: a review of the literature and considerations for TB control
program. USAID/Africa’s Health for
2010.
6. Pretoria: Academy of Science of South
Africa (2007). The influence of nutrition
on the risk and outcomes of tuberculosis.
HIV/AIDS, TB, and nutrition: scientific
inquiry into the nutritional influences on
human immunity with special reference to
HIV infection and active TB in South
Africa; 2007:153–72.
7. Van Lettow M et al(2004). Malnutrition
and the severity of lung disease in adults
with pulmonary tuberculosis in Malawi.
Int. J. Tuberc. Lung Dis. 2004;8:211–7.
Summary
SITUATION OF NUTRITIONAL CARE IN TUBERCULOSIS PATIENTS
TREATED AT THAI BINH LUNG HOSPITAL IN 2017
The epidemiological descriptive study was conducted in 127 tuberculosis patients, who
were examined and treated from September 2017 to December 2017 and 24 medical staff
(doctors, nurses) in 3 internal tuberculosis department No 2 and 3 of Thai Binh Lung Hospital on the situation of nutrition care in hospitalized tuberculosis patients in 2017. It revealed that 100% of patients were measured weight and height at admission but not at the
discharge. Most patients ate more than 3 meals a day with a major meal supply from the
hospital canteen. Most of the patients (94.5%) were satisfied with the nutritional counseling, over 85% wanted to have a nutrition department with qualified staff and facilities,
equipment providing good services. Health workers had implemented a variety of appropriate nurturing ways for each patient, with 1-hour notice from admission to the meal to
ensure that all patients were fed at hospital canteen; 91.7% of patients received nutritional
counseling while in hospital; and nurses were the primary ones to monitor the patient's
diet.
Keywords: Nutrition care, tuberculosis patients, Thai Binh Lung hospital.
61