GIẢI ĐỀ TỐT NGHIỆP
MÔN DÂN SỰ
Đề 3-8
(Bài giải mang tính tham khảo, các anh chị học viên cần phát triển thêm)
Người giải: ĐINH BÁ TRUNG
ĐỀ SỐ 3 Mã số: LS.DS/TN-03/240
*
Ngày 17/12/X-2 tại Sở giao dịch 3 - Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn tại thành phố Đ và ông Nguyễn Phước Cư địa chỉ 371 Phan Chu Trinh - thành phố Đ,
ký kết một hợp đồng vay tiền số 4120-0007/HĐ. Theo nội dung hợp đồng, Sở giao dịch 3 đồng ý
cho ông Nguyễn Phước Cư vay với số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng), thời hạn vay
6 tháng, với lãi suất 2,5%/tháng, thời hạn trả hết nợ ngày 17/06/X-1 và có gia hạn thêm 6 tháng
nữa đến ngày 17/12/X-1.
Tài sản thế chấp để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng vay giữa Chi nhánh 3 với
ông Nguyễn Phước Cư là 02 ngôi nhà: Ngôi nhà số 371 Phan Chu Trinh, thành phố Đ đứng tên
ông Nguyễn Phước Cư và bà Trần Thị Thiệp được thế chấp để bảo đảm cho số tiền vay là
220.000.000 đồng (hai trăm hai mươi triệu đồng); Ngôi nhà tại xã Hoà Hải, huyện Hoà Vang -
tỉnh Q, có số nghiệp chủ số 157HH/TLHC, do UBND huyện Hoà Vang cấp ngày 16/07/1994
thuộc sở hữu của vợ chồng ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý đồng ý thế chấp cho Sở giao
dịch 3 để bảo lãnh số tiền vay 80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) mà ông Cư đã vay tại Sở
giao dịch 3.
Ngày 17/5/X, Sở giao dịch 3 đến văn phòng Luật sư nhờ anh (chị) giúp đỡ về mặt pháp lý
yêu cầu ông Cư trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận hợp đồng.
Có ý kiến cho rằng việc ngân hàng nhận thế chấp tài sản của ông Nguyễn Quốc Trị và bà
Võ Thị Lý để bảo đảm khoản tiền vay của ông Nguyễn Phước Cư là không đúng thủ tục do pháp
luật quy định.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Ý kiến của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Hợp đồng thế chấp tài sản được công chứng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Căn cứ vào quy định của pháp luật, bạn hãy cho biết hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu
lực pháp luật hay không?
Tình tiết bổ sung
Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông Nguyễn Phước Cư đã thanh toán các khoản tiền
lãi hàng tháng cho Sở giao dịch 3. Riêng về tiền gốc thì đến ngày 17/6/X-1, ông Cư đã thanh
toán được số nợ gốc 220.000.000 đồng do ngôi nhà 371 Phan Chu Trinh thế chấp bảo đảm. Ngay
sau khi ông Cư trả được số nợ này, Sở giao dịch 3 đã làm thủ tục giải chấp ngôi nhà số 371 Phan
Chu Trinh, thành phố Đ cho vợ chồng ông Cư. Số tiền vay 80.000.000 đồng còn lại, sau nhiều
lần được Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn gia hạn ông Cư vẫn chưa
thanh toán được.
Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn muốn khởi kiện ra Toà án
quận H, thành phố Đ yêu cầu ông Nguyễn Phước Cư trả số tiền 80.000.000 đồng cả nợ gốc và lãi
theo hợp đồng vay được lập ngày 17/12/X-2.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Hãy giúp Sở giao dịch 3 ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn viết đơn khởi
kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định các giấy tờ cần thiết trong hồ sơ khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Tính từ ngày lập hợp đồng vay là ngày 17/12/X-2, sau khi hết hạn hợp đồng, Chi nhánh
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đã gia hạn nhiều lần và hạn cuối cùng là ngày
17/4/X. Ngày 20/5/X là ngày ngân hàng khởi kiện đòi nợ ra Tòa án. Ngày 17/9/X là ngày Tòa án
mở phiên tòa sơ thẩm. Giả định mức lãi suất trần của Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời
điểm này là 0,6%/tháng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Hãy tính toán số tiền gốc và tiền lãi mà Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn phải thu hồi?
Tình tiết bổ sung
Ngôi nhà tại xã Hòa Hải, Hòa Vang, tỉnh Q được xây dựng trên diện tích đất là 200 m
2
,
được cấp cho ông Nguyễn Quốc Trị và bà Võ Thị Lý. Về ngôi nhà này, UBND tỉnh Q đã có
quyết định số 1324 ngày 20/08/2005 thu hồi lô đất trên và hiện nay ngôi nhà cũng không còn
nữa. Nhưng có ý kiến cho rằng, trường hợp ngôi nhà trên vẫn còn tồn tại thì phía ngân hàng cũng
không thể yêu cầu thanh toán khoản nợ của ông Cư vì việc thế chấp trong trường hợp này là vô
hiệu.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị)?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết vụ án, Sở giao dịch 3 phát hiện vợ chồng ông Cư có dấu hiệu bán
căn nhà mà trước đây ông bà đã thế chấp cho ngân hàng và đã được giải chấp. Sở giao dịch 3
muốn đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp không cho ông bà Cư bán nhà. Nhưng có ý
kiến cho rằng Sở giao dịch không thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Anh (chị) hãy tư vấn cho Sở giao dịch 3 về vấn đề này?
Tình tiết bổ sung
Ông Cư thừa nhận số tiền vay giữa ông và Sở giao dịch 3, số tiền đã trả cũng như số tiền
còn nợ lại của Sở giao dịch 3. Nhưng ông cho rằng ông không vi phạm hợp đồng tín dụng. Vì số
tiền 80.000.000 đồng còn nợ Sở giao dịch 3, ông Cư không có trách nhiệm phải thanh toán, mặc
dù ông là người đứng tên trong hợp đồng vay tiền và trực tiếp nhận tiền, nhưng số tiền đó do bà
Lý dùng tài sản bảo lãnh với ngân hàng để trả nợ cho ông. Theo ông Cư, sở dĩ có việc vợ chồng
bà Lý dùng nhà ở để bảo lãnh cho ông Cư vay tiền ở ngân hàng vì bà Lý có nợ ông Cư một số
tiền lớn. Khi ông Cư yêu cầu bà Lý thanh toán số tiền nợ khi đến hạn nhưng bà Lý không chịu
thanh toán. Sau nhiều lần được ông Cư gia hạn nhưng bà Lý vẫn thất hẹn không trả được nợ, ông
Cư và bà Lý thỏa thuận ông Cư sẽ vay tiền ở ngân hàng, bà Lý sẽ có trách nhiệm bảo lãnh số tiền
vay bằng tài sản thuộc sở hữu của gia đình bà. Ông Cư cũng cho biết, ông Trị là chồng bà Lý
cũng đồng ý với giải pháp này. Sau đó, ông Cư đã tiến hành thủ tục tại Sở giao dịch 3 - Chi
nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Đ, với việc thế chấp và bảo lãnh
như đã nói ở trên.
Vì vậy, ông Cư cho rằng ông không có trách nhiệm thanh toán số tiền 80.000.000 đồng
còn nợ theo hợp đồng vay cho Sở giao dịch 3 mà bà Lý là người phải có trách nhiệm thanh toán.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Bạn có đồng ý với quan điểm của ông Cư hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà Võ Thị Lý hiện đang chấp hành án tù tại trại giam có lời khai: Năm X-2, do có nợ ông
Cư một khoản tiền, nên khi ông Cư yêu cầu bà Lý phải dùng tài sản của gia đình bà để thế chấp
khoản tiền vay của ông Cư tại ngân hàng, bà Lý buộc phải đồng ý. Thực tế, nhà đất của vợ chồng
bà đã bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Q thu hồi trước đó mấy tháng. Bà Lý có thông báo việc này cho
ông Cư nhưng ông Cư không tin vì cho rằng bà viện lý do để trốn tránh trách nhiệm trả nợ.
2
Khi ông Cư vay tiền ở Sở giao dịch 3, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn thành phố Đ, bà Lý đã cùng với chồng là ông Nguyễn Quốc Trị phải đến ký giấy thế
chấp. Còn việc thực hiện thủ tục thế chấp như vậy có đúng quy định hay chưa, bà Lý cũng không
rõ.
Bà Lý cũng thừa nhận khoản nợ tiền 100 triệu đồng bà nợ ông Cư, đến thời điểm này bà
chưa thể thanh toán cho ông Cư, vì sau khi bà bị bắt và bị xét xử trong một vụ án hình sự khác,
gia đình bà tan nát, con cái mỗi người một nơi, chồng bà hiện nay ở đâu không ai biết, tài sản
hiện tại không còn gì. Về quan hệ thế chấp của bà trong vụ án dân sự ngân hàng kiện đòi nợ ông
Cư, thì bà Lý đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Hãy chuẩn bị những nội dung cơ bản trong luận cứ bảo vệ quyền lợi của Chi nhánh ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, ông Cư vẫn giữ nguyên quan điểm là ông không có trách nhiệm gì đối với
khoản nợ còn lại vì theo hợp đồng vay, số nợ gốc này đã được bảo đảm bằng căn nhà của vợ
chồng bà Lý. Chính ngân hàng là người đã ký vào hợp đồng thế chấp với vợ chồng bà Lý. Vậy
ngân hàng phải đòi nợ vợ chồng bà Lý. Sau khi trình bày xong, ông Cư bỏ ra về. Hội đồng xét
xử đã phải hội ý về tình huống này để quyết định có phải hoãn phiên tòa hay không.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Là luật sư của phía ngân hàng, anh (chị) hãy trình bày lập luận của mình về việc Hội
đồng xét xử không thể hoãn phiên tòa.
Câu 1:
-Ý kiến này đúng. Áp dụng điều 342 BLDS 2005. Căn nhà này phải
thuộc quyền sở hữu của ông Cư, bà Thiệp thì ông Cư bà Thiệp mới thế chấp được.
-Trong trường hợp này, áp dụng điều 361 BLDS 2005, ông Trị, bà Lý đã
dùng căn nhà của mình để bảo lãnh khoản vay 80.000.000 đồng của ông Cư bà
Thiệp.
Câu 2:
Hợp đồng thế chấp được công chứng là đúng theo quy định điều 343
BLDS 2005. Nhưng về nội dung, nhà thế chấp là nhà ông Trị bà Lý không phải là
nhà của ông Cư bà Thiệt nên việc thế chấp căn nhà không có hiệu lực (áp dụng
điều 342, điều 122 BLDS 2005).
Câu 3: Đơn khởi kiện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Thành phố H, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H
Nguyên đơn:
-Cơ quan: CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN PTNT TẠI TP.H
-Địa chỉ:
-Đại diện là ông/bà:
Bị đơn:
3
-Họ và tên: Ông NGUYỄN PHƯỚC CƯ
-Địa chỉ: 371 phường ……………………
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gốc là 80.000.000 đồng và lãi phát
sinh là………………
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay
-Công văn trao đổi…
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Đại diện nguyên đơn
Câu 4:
Những giấy tờ cần thiết gồm:
1. Quyết định cử người đại diện
2. Chứng minh nhân dân
3. Hợp đồng vay tiền
4. Và các giấy tờ có liên quan
Câu 5:
Có thể xác định:
-Thời gian thực hiện hợp đồng : ngày 17.12.(x-2) đến 17.4.x
(Tính luôn thời gian gia hạn hợp đồng)
-Ngày khởi kiện : ngày 20.5.x
-Ngày xử sơ thẩm : ngày 17.9.x
-Lãi suất : 0,6%/tháng
-Nợ gốc là : 80.000.000 đồng
-Thời gian tính lãi :
+Từ ngày 17.12.(x-2) đến ngày 17.12.(x-1) là 12 tháng
+Từ ngày 17.12.(x-1) đến ngày 17.9.x là 09 tháng
Như vậy lãi sẽ là: 21 tháng x 0,6% x 80.000.000 đ = 10.080.000 đ
Tổng gốc và lãi là 90.080.000 đồng.
Câu 6:
Nhận định đúng. Vì việc thế chấp vô hiệu. (Dựa vào câu số 02).
Câu 7:
Ngân hàng không có quyền, vì căn nhà này chỉ dùng thế chấp cho khoản
vay 220.000.000 đồng đã thanh lý xong, không thế chấp cho khoản vay 80.000.000
đồng. Đối với khoản vay 80.000.000 đồng, việc thế chấp là vô hiệu. Chỉ có Tòa án
(Bằng bản án) và Thi hành án dân sự mới có quyền kê biên tài sản của vợ chồng
ông Cư (gồm cả căn nhà –nếu còn) để đảm bảo thực hiện khoản vay 80.000.000
đồng. (áp dụng điều 342, khoản 7 điều 351 BLDS 2005).
4
Câu 8:
Tôi không đồng ý với ý kiến của ông Tư. Ông Cư vay bà Lý là 01 quan
hệ. Bà Lý bảo lãnh thế chấp cho ông Cư là 01 quan hệ khác. Ở đây ông Cư vay
80.000.000 đồng mà không đồng ý trả nợ là không đúng. Nếu như điều kiện bảo
lãnh thế chấp phát sinh thì bên bảo lãnh, bên có tài sản thế chấp (bà Lý) sẽ phải trả
nợ thay cho ông Cư. Nhưng ở đây bà Lý ông Trị dùng nhà của mình thế chấp
(không phải là bảo lãnh) cho ông Cư nên việc thế chấp này vô hiệu. Ở đây không
có việc bảo lãnh, không có hợp đồng bảo lãnh. Do đó, khoản vay 80.000.000 đồng
ông Lý không được bảo lãnh, hay thế chấp nên ông Cư phải là người trả nợ
80.000.000 đồng và lãi phát sinh.
Câu 9:
Nội dung chính của bản luận cứ:
-Vợ chồng ông Cư và bà Lý có quan hệ làm ăn,… Bà Lý nợ ông Cư 100
triệu là có thật và chưa thanh toán được.
-Bà Lý ông Trị đã tự nguyện dùng căn nhà thuộc sở hữu của mình để thế
chấp cho khoản vay 80 triệu của ông Cư. Việc thế chấp này là sai. Đúng ra là phải
bảo lãnh. Sự sai sót này vì sự kém hiểu biết của các bên, sự tắc trách của Ngân
hàng,…Nhưng thực tế các bên đều xác định đây là sự bảo lãnh. Do đó, kính đề
nghị Tòa án chấp nhận việc bảo lãnh, buộc vợ chồng bà Lý phải có trách nhiệm trả
nợ 80 triệu và lãi,…
Câu 10:
Trong vụ án này, ông Cư là bị đơn. Ông Cư tự ý bỏ về chứ không phải
ông Cư không đến phiên tòa. Đặc biệt trước khi ra về ông Cư đã nói rõ về tư cách
tham gia tố tụng của mình và bà Lý. Bà Lý chính là người bảo lãnh nên bà Lý phải
trả nợ thay. Đúng là ông Cư là người đã ký hợp đồng vay nhưng sự vắng mặt của
ông Cư trong trường hợp này không đủ cơ sở để hoãn phiên tòa. Khoản 1 điều 200
BLTTDS quy định: “Bị đơn phải………phiên tòa.”
ĐỀ SỐ 4 (Mã số LS.DS/TN-04/240)
Mã số: LS.DS/TN-04/240
*
Chị Hoàng Thị Định kết hôn với anh Hà Thanh Chiến năm 1982, trên cơ sở tự nguyện, có
đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã. Vợ chồng chung sống hạnh phúc tại xã T, huyện C, tỉnh
H đến năm 1997 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị Định nghi ngờ anh Chiến có
quan hệ bất chính với người đàn bà khác. Từ đó, vợ chồng thường xuyên xô xát, cãi vã nhau. Gia
đình hai bên, chính quyền địa phương và các đoàn thể giúp đỡ nhiều lần nhưng tình cảm vợ
chồng không hàn gắn được. Tháng 7 năm X, chị Định có đơn xin ly hôn.
Về con chung, vợ chồng chị Định có hai con chung:
- Cháu Hà Thị Thanh Hương sinh năm 1983;
- Cháu Hà Mạnh Thắng sinh năm 1985.
Hiện tại, hai cháu ở với mẹ.
Về tài sản chung: Một nhà cấp 3 diện tích 93,79 m
2
trên diện tích đất 137 m
2
(đất thuê 40
năm); một nhà bán mái diện tích sử dụng 24,9 m
2
và một số tài sản khác. Tổng giá trị tài sản
được xác định khoảng gần 200 triệu đồng.
Về các khoản nợ: Vợ chồng có các khoản nợ như sau:
- Nợ Ngân hàng nông nghiệp tỉnh H cả gốc và lãi tính đến ngày 31/11/X-1 là
81.918.700 đồng;
- Nợ bà Hoàng Thị Tâm số tiền 50 triệu đồng;
5
- Nợ anh Nguyễn Văn Dự số tiền 15 triệu đồng;
- Nợ anh Hoàng Thanh Bình số tiền 8 triệu đồng;
- Nợ anh Nguyễn Văn Kiên số tiền 8 triệu đồng.
Ly hôn, chị Định xin được nuôi hai con, yêu cầu anh Chiến hàng tháng đóng góp 500.000
đồng nuôi con.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Trao đổi với chị Định những nội dung cần thiết trước khi khởi kiện?
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp chị Định viết một đơn khởi kiện trên cơ sở những nội dung đã trao đổi
thống nhất với chị Định?
Tình tiết bổ sung
Anh Chiến cũng thừa nhận thời điểm kết hôn và quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa vợ
chồng anh đúng như chị Định đã trình bày. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp,
chị Định lại thường xuyên ghen tuông vô cớ. Anh Chiến cũng đồng ý xin ly hôn với chị Định.
Về con chung: Anh Chiến nhất trí để chị Định nuôi con. Hàng tháng, anh Chiến đóng góp
mỗi tháng 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng chẵn)
Về tài sản chung: Nhất trí với chị Định, nhưng anh Chiến xin được sử dụng toàn bộ tài
sản và thanh toán chênh lệch tài sản cho chị Định 100 triệu đồng. Anh Chiến chịu trách nhiệm
thanh toán tất cả các khoản nợ, bao gồm nợ Ngân hàng, nợ anh Bình, nợ chị Tâm, nợ anh Dự, nợ
anh Kiên. Tổng số tiền nợ là 103.918.000 đồng.
Chị Định cũng nhất trí với anh Chiến về việc phân chia tài sản như đề xuất của anh
Chiến.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Với tư cách là luật sư bảo vệ cho chị Định, anh (chị) tư vấn cho chị Định cũng như anh
Chiến phải làm gì để thỏa thuận của hai người có cơ sở chấp nhận?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Trên cơ sở đó, xác định những chứng cứ, tài liệu mà anh (chị) cần phải giúp chị Định bổ
sung trong hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Trần Thị Cúc là người đại diện theo ủy quyền cho Ngân hàng nông
nghiệp tỉnh H ngày 4/9/X như sau: Ngày 11/11/X-5, Ngân hàng nông nghiệp tỉnh cho vợ chồng
anh Chiến, chị Định vay 80 triệu, lãi suất 1,05%/tháng, thời hạn trả nợ 4/12/X. Khi vay có thế
chấp tài sản là nhà đất của vợ chồng anh Chiến. Quá trình vay nợ, vợ chồng anh Chiến thực hiện
đúng nghĩa vụ. Tất cả các khoản lãi đều được trả đầy đủ theo đúng hợp đồng vay. Riêng tiền gốc
thì vợ chồng anh Chiến phải thanh toán khi đến hạn. Tính đến ngày 31/11/X-1, vợ chồng anh
Chiến phải trả gốc và lãi là 81.918.700 đồng. Quan điểm của Ngân hàng là nghĩa vụ trả nợ của
vợ chồng anh Chiến sẽ theo đúng hợp đồng vay. Trường hợp anh Chiến, chị Định không thực
hiện thì sẽ xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật.
Quan điểm của Tòa án thì cho rằng, do đây là vụ án ly hôn của vợ chồng anh Chiến, chị
Định nên quan hệ tài sản của vợ chồng, trong đó có khoản nợ chung cần được giải quyết luôn
trong vụ án ly hôn này.
Phía khách hàng của anh (chị) là chị Định cũng muốn Tòa án giải quyết luôn khoản tiền
nợ của Ngân hàng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Quan điểm của anh, chị về vấn đề trên?
Tình tiết bổ sung
Lời khai của chị Tâm ngày 4/9/X như sau: Chị Tâm có cho vợ chồng anh Chiến, chị Định
vay 50 triệu đồng làm nhiều lần. Các lần vay đều có mặt đầy đủ cả hai vợ chồng. Vì quen biết
nên chị Tâm cho vợ chồng anh Chiến vay không tính lãi. Nay anh chị ly hôn, chị Tâm đề nghị
hai người phải có trách nhiệm thanh toán khoản nợ cho chị Tâm.
6
Lời khai của anh Dự ngày 4/9/X: Ngày 10/2/X-5, anh Dự cho vợ chồng anh Chiến vay 15
triệu. Khi vay, hai bên thỏa thuận lãi suất là 1%. Vợ chồng anh Chiến đã trả đều lãi. Nay vợ
chồng ly hôn, anh Dự đề nghị vợ chồng phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Dự.
Cùng ngày 4/9/X, Tòa án còn lấy lời khai của anh Kiên. Anh Kiên cho biết ngày 10/1/X-
3, anh Kiên có cho vợ chồng anh Chiến vay 8 triệu đồng, lãi suất 1%/tháng. Vợ chồng anh Chiến
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả lãi hàng tháng. Nay vợ chồng ly hôn, anh Kiên yêu cầu vợ chồng
anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ cho anh.
Anh Bình cũng cho biết khoảng tháng 10/X-4, anh Bình có cho vợ chồng anh Chiến vay
8 triệu đồng. Vì quen biết nên anh Bình không tính lãi, hẹn khi nào có tiền thì trả. Nhưng nay vợ
chồng ly hôn, anh Bình đề nghị vợ chồng anh Chiến phải có trách nhiệm trả nợ cho anh Bình.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Hãy cho biết hướng giải quyết đối với những khoản nợ trên?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Cả chị Định
và anh Chiến đều cương quyết xin ly hôn. Đồng thời hai bên cũng thỏa thuận được về người nuôi
con là chị Định và anh Chiến hàng tháng chịu trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 500.000 đồng.
Hai bên cũng thỏa thuận toàn bộ tài sản chung sẽ thuộc quyền quản lý của chị Định, chị Định có
trách nhiệm thanh toán cho anh Chiến số tiền chênh lệch là 70 triệu đồng. Chị Định có trách
nhiệm thanh toán tất cả các khoản nợ chung của vợ chồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án ly hôn này, con chung giữa anh Chiến và chị Định đều đã
trưởng thành. Bố mẹ không còn phải có trách nhiệm đối với con nên không cần thiết phải giải
quyết quan hệ đối với con trong vụ án này.
Ý kiến của anh (chị)?
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Đối với việc giải quyết quan hệ về nợ chung vợ chồng, có ý kiến cho rằng, chưa đủ cơ sở
để Tòa án công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng.
Anh (chị) có đồng ý với ý kiến đó hay không?
Tình tiết bổ sung
Trên cơ sở sự thỏa thuận của anh Chiến, chị Định, Tòa án đã ra quyết định công nhận
thuận tình ly hôn giữa chị Định và anh Chiến, trong đó bao gồm cả quyết định về quan hệ hôn
nhân, về con, về tài sản và nợ chung đúng như nội dung trên.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Căn cứ quy định của pháp luật, hãy cho biết Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly
hôn trong trường hợp này có đúng hay không?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa, chị Định, anh Chiến vẫn giữ
nguyên các quan điểm. Phía các chủ nợ giữ nguyên yêu cầu đòi nợ. Riêng đại diện ngân hàng
cũng giữ nguyên yêu cầu là chưa buộc vợ chồng anh Chiến, chị Định phải trả nợ trước thời hạn.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày những lập luận cơ bản để bảo vệ quyền lợi của chị Định?
Câu 1:
-Giải thích, động viên chị hàn gắn tình cảm gia đình
-Giải thích hậu quả việc ly hôn
-Giải thích quyền lợi, nghĩa vụ của các bên khi giải quyết ly hôn
Câu 2: Đơn xin ly hôn:
7
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Huyện C, ngày tháng năm
ĐƠN XIN LY HÔN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C
Nguyên đơn:
-Họ tên:
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên:
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa giải quyết các yêu cầu sau:
-Về hôn nhân: Cho ly hôn
-Về tài sản:
-Về con chung:
Chứng cứ kèm theo:
-Giấy kết hôn
-Giấy tờ về tài sản
-Giấy tờ có liên quan khác…
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Nguyên đơn
Câu 3:
Vợ chồng cần làm văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung, trình Tòa
án xem xét.
Câu 4:
Giấy tờ:
1. Giấy kết hôn
2. Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
3. Giấy tờ nhà đất
4. Giấy tờ vay mượn
5. Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản
6. Giấy tờ khác
8
Câu 5:
Điều 424 BLDS 2005 quy định rất chung chung. Nếu trong hợp đồng vay
có quy định là sẽ chấm dứt hợp đồng khi li hôn thì hợp đồng này sẽ chấm dứt, Tòa
án giải quyết luôn, còn không quy định thì hợp đồng vay này đương nhiên còn hiệu
lực thi hành.
Câu 6:
-Vay bà Tâm nhiều lần 50 triệu không lãi
-Vay ông Bình 10.(x-4) 08 triệu không lãi
(Hai trường hợp này áp dụng k1, điều 477 BLDS 2005)
-Vay ông Dự 10.2.(x-5) 15 triệu 1% lãi
-Vay ông Kiên 10.1.(x-3) 08 triệu 1% lãi
(Hai trường hợp này áp dụng k2, điều 477 BLDS 2005)
Cả 04 trường hợp này: Các bên cần thỏa thuận thống nhất, nếu không vẫn
có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.
Câu 7:
Con của họ đã thành niên, không tàn tật, không bị mất hoặc hạn chế năng
lực hành vi dân sự, theo điều 92 Luật HNGĐ 2000 thì họ không có trách nhiệm
nữa. Tuy nhiên, trong bản án ly hôn vẫn phải ghi là con đã thành niên,…
Câu 8, và Câu 9: Áp dụng điều 90 Luật HNGĐ về thuận tình ly hôn.
Câu 10:
Lập luận cơ bản bảo vệ chị Định:
-Hôn nhân tự nguyện, có con chung, có tài sản chung
-Nay do mâu thuẫn….
-Mà ai bên đã thuận tình ly hôn, đã thỏa thuận được về con chung và tài
sản chung
> Đề nghị Tòa cho ly hôn.
ĐỀ SỐ 5 (Mã số LS.DS./TN-05-/240)
Mã số: LS.DS/TN-05/240
*
Ngày 2/4/2002, Vợ chồng bà Nguyễn Thị M và ông Phạm Văn P, trú tại số 2, ngõ 16,
Đường Nguyễn Ngọc Nại, quận T, thành phố N và bà Trần Thị T, trú tại 72, Đường Nguyễn Viết
Xuân, quận T, thành phố N có thoả thuận mua bán một căn nhà mái bằng 01 tầng diện tích 80 m
2
trên tổng diện tích 100 m
2
. Người bán là vợ chồng bà M, ông P; người mua là bà T. Nguồn gốc
căn nhà này là do cơ quan quân đội cấp cho vợ chồng bà M và ông P từ năm 1982. Giá ngôi nhà
và đất được hai bên thỏa thuận là 1.700.000.000 đồng (một tỷ bảy trăm triệu đồng).
Cùng ngày hai bên có làm giấy giao nhận một số tiền là 200.000.000 đồng (hai trăm
triệu đồng) và hẹn khi nào bên mua bàn giao nốt số tiền còn lại thì bên bán sẽ giao nhà. Việc bàn
giao số tiền trên có sự chứng kiến của anh Phan Hồng Vinh, người hàng xóm của bà T, đồng thời
số tiền được giao tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp quận T. Số tiền cũng được chuyển vào
tài khoản cá nhân của bà M tại Chi nhánh ngân hàng này. Giấy giao nhận không ghi thoả thuận
9
thời gian cụ thể giao nốt tiền mà chỉ thoả thuận khi nào bà T bán được ngôi nhà của mình tại 343
Bạch Đằng, quận H, thành phố H thì sẽ trả hết cho vợ chồng bà M.
Theo bà M, sau nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nốt số tiền còn lại thông qua anh Vinh,
nhưng không thấy bà T trả lời. Cho nên, ngày 4/8/2002 bà M làm hợp đồng mua bán chính ngôi
nhà đã thoả thuận bán cho bà T với anh Chu Xuân A với giá 2.000.000.000 đồng (hai tỷ đồng).
Hợp đồng này chưa được công chứng, chứng thực, nhưng hai bên trên thực tế đã bàn giao nhà
ngay sau khi ký hợp đồng. Anh A đã phá ngôi nhà cũ và xây thành 02 căn hộ 04 tầng và lại bán
ngay cho 02 chủ khác vào tháng 6/2003 với giá 3.200.000.000 đồng (ba tỷ hai trăm triệu đồng).
Biết được sự việc, bà T đã phản đối vì không nhận được yêu cầu nào của bà M và đề nghị
bà M tôn trọng hợp đồng đã ký kết. Thực tế hai bên cũng làm giấy mua bán, tuy giấy tờ mua bán
chưa được cơ quan có thẩm quyền chứng thực. Bà T cũng đã thanh toán cho bà M số tiền là
200.000.000 đồng. Nhưng bà M không chấp nhận, vì thực tế bà cũng đã bán nhà và bàn giao nhà
cho người khác từ năm 2002. Ngày 20/5/X Bà T muốn khởi kiện yêu cầu bà M thực hiện hợp
đồng mua bán đã ký kết với bà T.
Bà T nhờ anh (chị) tư vấn.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Theo anh (chị) bà T có nên khởi kiện bà M hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà T cho biết sở dĩ có chuyện bà M bán nhà trong suốt thời gian dài như vậy mà bà
không có ý kiến gì vì trong thời gian này bà T không sinh sống ở thành phố N mà đang sống
cùng con trai ở thành phố M. Qua một người quen là anh Vinh, bà T biết vợ chồng bà M có nhu
cầu bán nhà nên thông qua anh Vinh, bà đã thỏa thuận mua nhà với vợ chồng bà M. Khi mua có
viết giấy nhưng trong giấy mua không nói đến thời hạn kết thúc hợp đồng mua vì thực tế bà T
chưa thực sự có nhu cầu về chỗ ở. Bà T cho rằng người có lỗi trong trường hợp này là vợ chồng
bà M, nhưng do nhà đã bán, người mua đã xây nhà mới, đã chuyển qua nhiều chủ khác nên bà T
quyết định yêu cầu bà M trả lại cho mình số tiền đã giao là 200.000.000 đồng.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Ngoài số tiền 200.000.000 đồng, bà T có quyền yêu cầu bà M phải chịu khoản tiền phạt
hợp đồng do không thực hiện hợp đồng hay không?
Tình tiết bổ sung
Bà M thừa nhận các nội dung như bà T trình bày, nhưng không đồng ý cho rằng bà M là
người có lỗi. Theo bà M, sau khi nhận tiền của bà T từ tháng 4/2002, bà đã nhiều lần liên lạc với
bà T yêu cầu thanh lý hợp đồng vì vợ chồng bà đang cần tiền nhưng không thấy bà T trả lời.
Trước đó bà M có thỏa thuận miệng với bà T là sau ba tháng, nếu bà T không trả nốt tiền thì bà
M sẽ bán nhà nếu gặp khách. Từ đó đến giờ, bà T mới gặp bà để yêu cầu đòi nhà thì bà không
thể chấp nhận được vì bà M đã bán nhà cho người khác. Bà M đồng ý sẽ trả lại cho bà T
200.000.000 đồng, nhưng hiện tại số tiền đó được gửi ở ngân hàng chưa đến kỳ rút tiền và hẹn
khi nào đến hạn rút tiền thì sẽ trả dần cho bà T, mỗi lần 30.000.000 đồng. Bà T không đồng ý.
Trên thực tế, từ đó đến nay, bà M vẫn chưa trả tiền cho bà T. Ngày 5/6/X, bà T đã khởi kiện ra
Toà án yêu cầu bà M trả lại số tiền 200.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà T làm đơn khởi kiện.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết kèm theo đơn khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Bà M uỷ quyền cho luật sư Nguyễn Văn K, trưởng Văn phòng luật sư X có trụ sở tại 90
Tô Hiệu, Quan hoa, quận C. thành phố N. Trong biên bản lấy lời khai lần 2, luật sư K cho rằng
bà T không phải là người trực tiếp giao dịch mua bán với thân chủ của mình. Do đó, Luật sư đề
nghị Toà án xác định nhân thân và tư cách của nguyên đơn, đồng thời không công nhận chứng
10
cứ do nguyên đơn đưa ra - đó là Giấy biên nhận số tiền 200.000.000 đồng mà nguyên đơn khai
rằng là do chính bà M viết.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) đề nghị của luật sư K có ý nghĩa gì cho việc bảo vệ quyền lợi của bà M
hay không?
Tình tiết bổ sung
Vì biết được bị đơn có tài khoản cá nhân tại Ngân hàng nông nghiệp Quận T, bà T muốn
đề nghị Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài khoản của bà M. Mặt khác, bà T
cho rằng số tiền trong tài khoản của bị đơn có thể không đủ số tiền để trả cho bà, nên bà T muốn
Tòa án áp dụng thêm biện pháp kê biên tài sản là ngôi nhà mà bà M đang cư trú.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) đối với yêu cầu của bà T về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời?
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Trên cơ sở quan điểm này, hãy giúp bà T làm đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời?
Tình tiết bổ sung
Quá trình giải quyết, ngoài yêu cầu đòi bà M phải trả lại số tiền 200.000.000 đồng, bà T
còn đề nghị Tòa án giải quyết bồi thường thiệt hại tính theo tỷ lệ số tiền đã giao so với giá trị nhà
đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời còn yêu cầu bà M phải trả lãi đối với số tiền
200.000.000 đồng theo quy định của pháp luật.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Yêu cầu của bà T có cơ sở chấp nhận không?
Tình tiết bổ sung
Trong phần mở đầu phiên tòa, sau khi đã kiểm tra căn cước của đương sự, bà M đã tự ý
bỏ về không tiếp tục tham gia phiên tòa mà không nêu ra bất kỳ lý do nào. Hội đồng xét xử đã
hoãn phiên tòa.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Không đồng ý với việc hoãn phiên tòa, anh (chị) phải làm gì?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà M không thừa nhận chữ viết và chữ ký của bà trong giấy biên nhận số
tiền 200.000.000 đồng. Hội đồng xét xử công bố biên bản lấy lời khai ngày 11/11/2005, người
được lấy lời khai là bà M, trong đó bà M thừa nhận vào khoảng năm 2002, bà có thỏa thuận bán
nhà cho bà T và có viết giấy biên nhận số tiền 200.000.000 đồng. Bà M cho rằng, hiện tại bà đã
già hiện nay 73 tuổi, trí nhớ không minh mẫn, lúc nhớ, lúc quên nên đã nhận là có viết giấy biên
nhận số tiền của bà T. Thực ra bà không nhận tiền của bà T và cũng không viết giấy biên nhận.
Bà M đề nghị Tòa án cho hoãn phiên tòa để giám định chữ viết của bà M.
Không đồng ý với yêu cầu của bà M vì cho rằng bà M làm vậy là để cố tình kéo dài thời
gian kết thúc vụ án, kéo dài thời gian phải thanh toán tiền cho bà T nên đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu của bà M.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Hãy trình bày lập luận của mình tại phiên tòa về vấn đề trên
Câu 1:
Bà T không nên khởi kiện vì:
-Hợp đồng mua bán nhà không có công chứng -> vô hiệu về hình thức ->
Xử lý vô hiệu: Các bên trả lại những gì đã nhận, bà T chỉ nhận được 200.000.000
đồng (Nếu bà T chứng minh được bà k có lỗi thì mới được bồi thường. Mà để
chứng minh được, đây là điều khó).
-Bà M đã bán nhà, nhà này bị đập bỏ, xây thành 02 nhà mới, lại được bán
cho 02 chủ mới, nghĩa là không còn nhà để bán cho bà T nên bà T không thể yêu
cầu bà M tiếp tục bán cái nhà không còn tồn tại
11
-Việc kiện tụng tốn thời gian, công sức, tiền bạc,…Tốt nhất bà T nên
thương lượng để lấy lại tiền
Câu 2:
Bà T không thể phạt vi phạm hợp đồng:
-Có hợp đồng đâu mà đòi phạt?
-Sự vi phạm hình thức hợp đồng có cả lỗi của bà T
-Việc mua bán nhà đã vô hiệu
-Hơn nữa, nếu giả sử có hợp đồng hợp pháp, mà 02 bên không thỏa thuận
việc phạt ghi trong hợp đồng thì cũng pó tay, không thể đương nhiên phạt vi phạm
hợp đồng
Áp dụng điều 410, 422 BLDS 2005.
Câu 3: Đơn khởi kiện
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận T, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T
Nguyên đơn:
-Họ tên: Bà T
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên: Bà M
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gố là 200.000.000 đồng và bồi
thường thiệt hại……
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay
-Giấy tờ khác
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Nguyên đơn
Câu 4:
Các giấy tờ gồm:
12
1. Giấy tay vay tiền
2. Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
3. Sự xác nhận của người làm chứng
4. Thư từ trao đổi,…
Câu 5:
Luật sư K được bà M ủy quyền muốn:
-Xác định bà T không phải là nguyên đơn >ông Vinh sẽ là nguyên
đơn
-Giấy biên nhận là giả giám định
Cách này có thể làm cho vụ việc kéo dài, bà M được chiếm dụng tiền của
bà T lâu hơn, gây nhiều khó khăn cho bà T
Câu 6:
Yêu cầu này là chấp nhận được. Áp dụng theo quy định tại điều 99,
khoản 10, 11 điều 102 BLDS 2005.
Câu 7:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận T, ngày tháng năm
ĐƠN
YÊU CẦU ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN T
Kính thưa Quý Tòa,
Tôi tên: T
Địa chỉ:
Là bị đơn trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tiền được Tòa án thụ lý
số…………………
Bị đơn trong vụ án này là………………. Bà M thiếu tôi………….
Được biết bà M có……………
Theo qui định của pháp luật, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tôi
cũng như để vụ án được giải quyết thuận lợi, mau chóng, tôi kính đề nghị Tòa án
ra quyết định áp dụng BPKCTT đối với bà M bao gồm:
-Biện pháp phong tỏa nhà………………
-Biện pháp phong tỏa tài khoản…………
Rất mong được sự đồng ý của Tòa án. Tôi thành thật cảm ơn.
Người làm đơn (nguyên đơn)
13
Bà T
Câu 8:
Bà T yêu cầu bà M:
-Trả 200.000.000 đồng: chấp nhận được
-Bồi thường thiệt hại: Nếu có thiệt hại và chứng minh được
-Lãi của 200.000.000 đồng: Không chấp nhận, do hợp đồng vô hiệu, chỉ
trả lại tiền đã trao
Câu 9:
Không có cơ sở hoãn. Áp dụng khoản 1 điều 208 và điều 200 BLTTDS.
Câu 10:
Áp dụng điều 91 BLTTDS, sự giám định là cần thiết để làm sáng tỏ vụ
án.
ĐỀ SỐ 6 (Mã số LS.DS/TN-06/240)
Mã số: LS.DS/TN-06/240
*
Vào lúc 19h10 ngày 19/2/X, tại đường Quốc Phòng thuộc thôn 4 Điện Dương, huyện Đ,
tỉnh H giữa xe môtô do Trần Văn Công điều khiển với xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển
chở phía sau cháu Nguyễn Quang 5 tuổi và Nguyễn Thị Ba. Hậu quả là cả ba người trên xe của
Vinh đều bị thương nặng.
Diễn biến như sau: Tối hôm đó, Công đi mua thức ăn cho tôm. Sau khi mua xong thức ăn
cho tôm, Công điều khiển xe môtô chạy về hướng thôn 5 Điện Dương, đoạn đường quốc phòng
rộng 3m và dọc 2 bên đường là khu vực dân cư, Công cho xe chạy với tốc độ 55km/h (lời khai
của Công). Khi đến đoạn đường chợ chiều thuộc thôn 4 xã Điện Dương, Công phát hiện hướng
ngược chiều có xe môtô do Nguyễn Văn Vinh điều khiển chở phía sau là Nguyễn Quang 5 tuổi
và Nguyễn Thị Ba đang chạy đến nhưng chạy giữa đường. Thấy vậy, Công lấn trái và bọc qua
bên phải xe môtô ngược chiều để tránh. Khi bọc qua phải thì va vào dọc theo bên phải xe ngược
chiều nên làm cho xe của Vinh ngã qua trái và nằm gần giữa đường bên phải theo hướng đi của
Vinh, còn xe của Công điều khiển chạy luôn về phía trước và đâm qua bên trái đường dài 20m10
mới nằm lại. Qua hiện trường để lại có nhiều mảnh vỡ nhựa của đèn, yếm xe bị bể và điểm cày
xước của xe của Vinh điều khiển, vị trí này cách mép đường bên trái hướng đi xe của Vinh là
1m70, cũng như biên bản khám hai xe đều thấy hai xe bị bể các dụng cụ như trên. Xác minh các
mảnh vỡ của xe cho thấy đó là điểm va chạm của xe.
Hậu quả của tai nạn:
- Trần Văn Công: Gãy xương đùi trái đoạn 1/3 trên, gãy đầu trên xương chày phải phức
tạo, kèm gãy xương mác, gãy 1/3 dưới xương quay tay phải, gãy các xương bàn tay 2,3,4,5 và
xương đốt một ngón 3 bàn tay phải. Đã được giám định thương tích là 50%.
- Nguyễn Văn Vinh: Gãy kín đầu dưới xương mác chân phải được giám định thương tích
là 9%.
- Nguyễn Thị Ba: Gãy kín đi lệch đoạn 1/3 dưới xương cánh tay phải, gãy đầu dưới
xương quay tay phải được giám định thương tích là 28%.
Riêng cháu Quang năm tuổi may mắn không bị sao.
Cơ quan công an đã kết luận:
“Căn cứ vào hiện trường để lại, các dấu vết để lại trên hai xe và tài liệu trong hồ sơ thì
nguyên nhân của tai nạn là do:
- Trần Văn Công điều khiển xe môtô chạy vượt quá tốc độ cho phép và chạy lấn sang
phần đường bên trái nên đã va vào xe môtô ngược chiều để xảy ra tai nạn.
14
- Đối với Nguyễn Văn Vinh trong vụ tai nạn này không có lỗi vì Vinh đã đi đúng phần
đường quy định. Riêng bản thân không có giấy phép lái xe sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị
định 39/CP của Chính phủ.
Như vậy, hành vi của Trần Văn Công đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường
bộ Việt Nam đã được Quốc hội khoá 9 Kỳ họp thứ X thông qua ngày 29/6/2001, nhưng vì thương
tích của người bị hại còn thấp chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần
Văn Công.
Do đó công an huyện Đ xử lý hành chính đối với Trần Văn Công. Về trách nhiệm dân sự
thì bản thân Công có trách nhiệm bồi thường cho bên bị hại theo chứng từ hợp lệ, do hai bên
thỏa thuận hoặc giải quyết theo quy định của pháp luật”.
Kết luận điều tra của cơ quan công an đã được thông báo tới các đương sự.
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Hồ sơ vụ tai nạn có được cơ quan công an chuyển sang để Toà án giải quyết về trách
nhiệm bồi thường dân sự hay không?
Tình tiết bổ sung
Sau khi được cơ quan thông báo, gia đình người bị hại đã làm đơn khởi kiện Trần Văn
Công ra Toà án.
Câu hỏi 2: (1 điểm)
Những người bị hại có thể làm chung một đơn khởi kiện hay mỗi người phải làm riêng
một đơn khởi kiện?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Xác định những giấy tờ cần thiết được gửi kèm theo đơn khởi kiện?
Tình tiết bổ sung
Trong hồ sơ vụ tai nạn do cơ quan công an chuyển giao cho cơ quan Toà án có một “Đơn
xin nhận lại xe” viết ngày 2/8/X. Nội dung của đơn này như sau:
“Tên tôi là: Trần Thị Hồng Ánh, là chủ xe mang biển số ….
Tôi viết giấy này xin nhận lại xe của tôi vì vào ngày 19/2/X, tôi có cho em trai tôi là Trần
Văn Công mượn xe và trong quá trình điều khiển xe thì em tôi đã bị tai nạn giao thông. Và hiện
giờ xe còn đang bị tạm giữ tại cơ quan công an huyện Đ.
Trong khi chờ đợi sự chấp thuận của cấp trên, tôi xin thành thật biết ơn”.
Đoạn cuối trong đơn này có ghi: “Đã nhận lại xe mang biển số, tình trạng xe đúng như
biên bản khám nghiệm ngày 25/2/X” và chữ ký của Trần Thị Hồng Ánh.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Việc cơ quan công an giải quyết trả lại xe theo đơn trình bày của chị Ánh là đúng hay
không?
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Tài liệu này có ý nghĩa như thế nào đối với việc giải quyết vụ án dân sự yêu cầu bồi
thường thiệt hại về sức khỏe của các bị hại?
Tình tiết bổ sung
Hồ sơ vụ tại nạn cũng có lưu một bản sao Giấy chứng nhận bảo hiểm mô tô - xe máy số
No 637400 ghi tên chủ xe Trần Thị Hồng Ánh, số biển kiểm soát, loại xe C100; thời hạn bảo
hiểm từ 15h ngày 12/10/X-1 đến …h ngày 11/10/X. Phần mức trách nhiệm hoàn toàn bỏ trống.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) cơ quan bảo hiểm có trách nhiệm trong vụ tai nạn giao thông này hay
không?
Tình tiết bổ sung
Về phía các nguyên đơn trong vụ kiện dân sự, Nguyễn Văn Vinh và Nguyễn Thị Ba đã
kê ra các khoản tiền hại sau đây:
1/Nguyễn Văn Vinh:
- Thuốc điều trị: 262.000 đ
- Tiền công lao động: 45 ngày x 40.000 đ/ngày
Tổng cộng: 1.800.000 đ
15
- Tiền ăn 45 ngày x 25.000 đ/ngày 1.005.000 đ
Tổng cộng: 3.187.000 đ
2/ Nguyễn Thị Ba:
- Tiền thuốc: 2.518.000 đ
- Tiền công chăm sóc: 60 ngày x 40.000đ/ngày
Tổng cộng: 2.400.000 đ
- Tiền xe đi lại: 300.000 đ
- Tiền công lao động:
60 ngày x 30.000 đ/ngày 1.800.000 đ
Tổng cộng: 10.500.000đ.
3/ Tiền sửa xe: 300.000 đ
Tổng cộng toàn bộ số tiền yêu cầu bồi thường là 13.987.000 đồng.
Câu hỏi 7: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu bồi thường của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Phía bị đơn, anh Trần Văn Công cho rằng trước khi xảy ra tai nạn, anh Vinh đã điều
khiển xe đi lấn sang phần đường của anh Công, làm anh Công phải lách qua trái gây tai nạn. Do
vậy, anh Công không chấp nhận bồi thường thiệt hại cho anh Vinh vì anh Vinh cũng có lỗi trong
tai nạn giao thông. Riêng chị Ba là người ngồi sau nên anh Công chấp nhận bồi thường cho chị
Ba số tiền thuốc điều trị là 2.518.000 đồng. Ngoài ra anh Công không chấp nhận bồi thường bất
kỳ một khoản nào khác. Anh Công là nông dân, hiện tại đang bị thương tích cũng rất nặng và
khó có khả năng để thực hiện việc bồi thường.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Quan điểm của anh (chị) về việc xác định trách nhiệm bồi thường trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tòa án đã mở phiên tòa giải quyết vụ án. Triệu tập tham gia phiên tòa có anh Công, anh
Vinh, chị Ba và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của anh Vinh, chị Ba.
Câu hỏi 9: (1 điểm)
Tòa án đã triệu tập đầy đủ những người phải tham gia tố tụng hay chưa?
Tình tiết bổ sung
Có ý kiến cho rằng, trong vụ án này, Tòa án cần phải triệu tập cơ quan bảo hiểm tham gia
tố tụng.
Câu hỏi 10: (1 điểm)
Trong trường hợp đồng ý với quan điểm này, anh, chị hãy trình bày lập luận của mình để
thuyết phục hội đồng xét xử hoãn phiên tòa để triệu tập thêm cơ quan bảo hiểm.
Câu 1:
Về hình sự không khởi tố. Về dân sự, các bên phải thương lượng, kiện
hay không là quyền của các bên. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa sẽ yêu cầu công an cung
cấp hồ sơ. Chứ công an không có tự động chuyển hồ sơ.
Câu 2:
Nên viết riêng đơn kiện. Tòa án sẽ gom và xử chung 1 vụ.
Câu 3:
Giấy tờ gồm:
-Chứng thương, hóa đơn thuốc men,
-Giấy tờ khác
-Chứng minh nhân dân, hộ khẩu
Câu 4:
Công an trả xe đúng theo quy định tại điều…… BLHS về xử lý tang vật.
Câu 5:
16
Tài liệu này có ý nghĩa:
Theo điều 623 BLDS 2005: Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải
liên đới bồ thường. (Hiện nay cũng có nhiều cách hiểu, nhiều tranh cãi). Do đó, xe
trả ra rồi, không được chuyển cho Tòa án để đảm bảo thi hành án cũng là điều bất
lợi cho nguyên đơn. Nhưng không sao. Nguyên đơn có quyền yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tại thời, kê biên sau chiếc xe này….
Câu 6:
Mức trách nhiệm bồi thường bị bỏ trống, thể hiện sự sai sót khi viết giấy
này. Nhưng thực tế vẫn làm phát sinh trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm –bảo
hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3, căn cứ theo hợp đồng đã ký.
Câu 7, 8:
Áp dụng điều 608, 609 BLDS 2005.
Câu 9:
Còn thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan:
-Bà Trần Thị Ánh Hồng là chủ xe nguồn nguy hiểm cao độ đã gây ra
thiệt hại.
-Cơ quan bảo hiểm
Câu 10:
-Bảo hiểm phải bồi thường vì:
+đã kí hợp đồng bảo hiểm
+đã phát sinh sự kiện bảo hiểm
-Bảo hiểm là người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan
Tòa cần hoãn xử để triệu tập Bảo hiểm
ĐỀ SỐ 7 (Mã số LS.DS/TN-07/240)
Mã số: LS.DS/TN-07/240
*
Theo lời trình bày của anh Trần Văn Khoa: Ngày 18/11/X-4 anh vay của bà Phương ở xã
Tân Lý, huyện C, Tiền Giang 13 chỉ vàng. Hai bên thỏa thuận mỗi quý trả lãi là 2.5 chỉ vàng.
Anh trả lãi đến tháng 2/X-3 thì ngưng. Tháng 4/X-2 phía bà Phương ngang nhiên chiếm 500m
2
đất trên phần diện tích 990m
2
đất thuộc quyền sử dụng của anh Khoa (Mảnh đất 990m
2
này anh
Khoa đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ ngày 20/4/1998 tọa lạc
tại xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang). Bà Phương tuyên bố với vợ chồng anh lấy đất để cấn trừ
nợ. Sau đó bà Phương đã xây nhà cho con là vợ chồng chị Hà Minh ở trên diện tích 300m
2
.
Ngoài ra, phần còn lại 200m
2
bà Phương tự cho ông Luật thuê, thu lợi. Anh Khoa đã nhiều lần
yêu cầu bà Phương, vợ chồng chị Hà Minh trả đất nhưng bà Phương và vợ chồng chị Hà Minh
không trả. Đầu năm X-1 vợ chồng chị Hà Minh đổ đất và vật liệu xây dựng nhà kiên cố trên đất,
vợ chồng anh Khoa đã phản đối quyết liệt, hai bên xô sát công an xã Tân Lý đã đến lập biên bản
yêu cầu các bên giữ nguyên hiện trạng chờ giải quyết. Nay, anh Khoa yêu cầu bà Phương và vợ
chồng chị Hà Minh dỡ nhà trả lại cho vợ chồng anh toàn bộ diện tích đất lấn chiếm. Số tiền vợ
chồng anh Khoa nợ là 13 chỉ vàng 24k vợ chồng anh Khoa sẽ trả nếu bà Phương yêu cầu
Ngày 1/3/X anh Khoa đến nhờ anh (chị) khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Câu hỏi 1: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Phương và chị Hà Minh: Vào năm X-4, anh Khoa có vay của
vợ chồng bà Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN
17
diện tích 0,41ha để làm ăn. Sau đó, năm X-3, X-2 vợ chồng anh Khoa nhiều lần đến vay tiền và
vàng. Việc vay mượn những lần tiếp theo này hai bên không làm biên nhận và không lập hợp
đồng. Cứ 4 tháng một lần chị Diệp (vợ anh Khoa) viết giấy cộng trả lãi (lãi 4%) tổng cộng 6 lần:
lần 1 là 0,5 chỉ vàng 24K; lần 2 là 8,5 chỉ vàng 24K; lần 3 là 3 triệu đồng; lần 4 là 1 triệu đồng;
lần 5 là 7 triệu đồng; lần 6 là 2,5 chỉ vàng 24K. Ngoài ra, còn mượn thêm 10 triệu đồng không
làm giấy biên nhận. Tổng cộng vàng và tiền quy ra vàng là 7,3 cây tiền vốn và lãi trả hàng tháng.
Bà Phương đã đòi nhiều lần nhưng vợ chồng anh Khoa không trả. Vì vậy, 2 bên thỏa thuận sang
nhượng diện tích đất 500m
2
vì chỗ quen biết nên không làm giấy tờ. Sau khi sang nhượng bà
Phương tiến hành san lấp mặt bằng và trồng chuối dừa, tổng chi phí là 18 triệu đồng. Năm X-2
bà Phương cho anh Luật thuê mặt bằng sửa xe trong thời hạn 3 năm. Bà Phương yêu cầu được
tiến hành thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Vụ kiện này có nhiều ý kiến về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp:
(i) Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất;
(ii) Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản;
(iii) Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Nêu ý kiến của anh (chị) về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp?
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong hồ sơ vụ kiện này?
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh về nguồn gốc và diện tích đất, địa chính xã Tân Lý, huyện C, Tiền Giang
cho biết diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ chồng anh Khoa. Ngoài ra, anh
Khoa còn thế chấp quyền sử dụng đất này tại ngân hàng T, huyện C, Tiền Giang. Tòa án nhân
dân huyện C, Tiền Giang đã gửi thông báo thụ lý vụ kiện đến ngân hàng T nhưng Ngân hàng T
đã có công văn từ chối tham gia tố tụng. Ngân hàng T cho rằng đợi đến hạn nếu vợ chồng anh
Khoa không thực hiện việc trả nợ, ngân hàng T sẽ khởi kiện thành một vụ kiện khác.
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, bà Phương và anh Khoa đều thừa nhận năm X -4 anh Khoa có vay của vợ
chồng bà Phương 13 chỉ vàng 24K và thế chấp một sổ kê khai diện tích đất số 124/TC/TN diện
tích 0,41ha để làm ăn.
Ngoài ra, theo bà Phương: Tổng cộng các lần anh Khoa vay tiếp theo cả vốn và lãi tính đến
tháng 4 năm X-3 là 35 triệu đồng. Bà Phương xuất trình cho Hội đồng xét xử giấy tính nợ do chị
Diệp vợ anh Khoa viết nhưng không có chữ ký của chị Diệp ở dưới tờ văn bản nhận nợ này. Vì
không có khả năng trả được nợ nên vợ chồng anh Khoa đã đồng ý cắt đất giao cho bà Phương.
Diện tích đất giao được 2 bên xác định tương đương với số vàng và tiền anh Khoa vay vào thời
điểm vay. Anh Khoa đã tự nguyện làm hàng rào để xác định ranh giới đất giao cho bà Phương.
Sau đó bà Phương cùng vợ chồng chị Hà Minh tiến hành xây dựng nhà, việc xây dựng nhà kéo
dài 2 tháng, anh Khoa không ngăn cản, đồng thời cũng không bị cơ quan chức năng xử phạt vi
phạm hành chính. Bà Phương cho rằng bà không lấn chiếm đất của anh Khoa. Đây là sự thỏa
thuận đồng tình chuyển nhượng đất bằng miệng. Bà Phương yêu cầu anh Khoa tiếp tục lập thủ
tục sang tên đất cho bà.
Anh Khoa không thừa nhận số nợ 35.000.000 đồng như bà Phương khai. Anh Khoa chỉ
thừa nhận có nợ 13 chỉ vàng 24 K, vợ chồng anh đã trả lãi đến năm 2. Việc anh đưa sổ nông
nghiệp kê khai nộp thuế cho bà Phương để làm tin không thể xem là thế chấp và nếu thế chấp
cũng trái pháp luật. Anh Khoa khẳng định không hề cắt đất để cấn trừ nợ cho bà Phương, không
có bất kỳ một văn bản nào thể hiện sự thỏa thuận về việc chuyển nhượng đất giữa hai bên. Thực
tế, anh Khoa vẫn đứng tên chủ sử dụng hợp pháp diện tích đất tranh chấp này.
Câu hỏi 5: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
18
Tại phiên tòa, chị Diệp không thừa nhận chữ viết trên giấy tính nợ mà bà Phương xuất
trình cho Hội đồng xét xử là của chị Diệp. Vì vậy, bà Phương đề nghị Hội đồng xét xử hoãn
phiên tòa để giám định chữ viết của chị Diệp làm căn cứ để giải quyết vụ án.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của bà Phương có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Phương phân tích rằng: Có việc vay nợ tiền
vàng giữa anh Khoa và chị Phương. Sau đó anh Khoa cắt đất cấn trừ nợ, hiện tại bà Phương và
vợ chồng chị Hà Minh đã xây dựng nhà kiên cố và cho ông Luật thuê làm cơ sở hàn gò. Việc xây
dựng nhà của bà Phương phía nguyên đơn không xuất trình được bất cứ một giấy tờ gì để chứng
minh bị cơ quan chức năng xử phạt vi phạm hành chính đối với việc xây dựng của bà Phương.
Vì vậy, có căn cứ để xác định có việc thỏa thuận chuyển nhượng đất miệng giữa bà Phương và
vợ chồng anh Khoa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào mục b3, tiểu mục 2.3, mục 2, phần II,
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC buộc anh
Khoa tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho vợ chồng anh Khoa tại phiên
tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày 29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang đã quyết
định:
“1. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Khoa;
Buộc anh Khoa phải có nghĩa vụ lập thủ tục tách quyền sử dụng đất cho bà Phương diện
tích 500m
2
đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01041/QSDĐ/1541/QĐ-UB ngày
30/5/1998 cấp cho hộ anh Khoa (kèm theo sơ đồ);
2. Bà Phương được quyền đăng ký kê khai diện tích đất theo quyết định đã tuyên. Thời
gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật;
3. Kiến nghị UBND huyện C điều chỉnh diện tích đất theo khoản 3 của quyết định này;
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự”.
Anh Khoa không đồng ý với toàn bộ quyết định của bản án sơ thẩm số 259/DSST ngày
29/12/X của TAND huyện C, Tiền Giang và muốn kháng cáo toàn bộ bản án này.
Câu hỏi 8: (1 điểm)
Anh (chị) hãy giúp anh Khoa soạn thảo đơn kháng cáo.
Câu 1:
-Tòa án: Huyện C
-Nguyên đơn: anh Khoa
-Bị đơn: bà Phương
-Người liên quan:
+ông Luật
+vợ chồng Hà Minh
-Nội dung đơn kiện: Như đề bài
-Yêu cầu của nguyên đơn: Trả lại 500m
2
đất
Câu 2:
Chọn (iii).
Câu 3:
Cần chứng minh:
-Có việc vay không?
-Có việc thế chấp đất không?
19
-Có việc chuyển nhượng đất trừ nợ không?
Câu 4:
Tư các đương sự như câu 1, bổ sung Ngân hàng vào người liên quan.
Câu 5:
Trọng tâm các vấn đề cần hỏi và tranh luận:
-Có việc vay không?
-Có việc thế chấp đất không?
-Có việc chuyển nhượng đất trừ nợ không?
-Tại sao các bên lại vi phạm về hình thức và trình tự thủ tục hợp đồng
vay, hợp đồng chuyển nhượng đất?
Câu 6:
Việc giám định là cần thiết để làm sáng tỏ nội dung vụ án. Áp dụng điều
91 BLTTDS.
Câu 7:
Luật sư đã lập luận đúng. Tùy khả năng của từng người, tìm những lý lẽ
và cơ sở khác để “vớt vát” chút đỉnh.
Câu 8:
-Kính gửi Tòa án huyện C, và Tòa án tỉnh Tiền Giang
-Nội dung kháng cáo cần làm rõ: Việc chuyển nhượng là bất hợp pháp
ĐỀ SỐ 8 (Mã số LS.DS/TN-08/240)
Mã số: LS.DS/TN-08/240
*
Theo lời trình bày của Bà Kim: Căn nhà số 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H có
nguồn gốc là của ông Hoàng Văn Nam và bà Phan Thị Khánh. Bà Khánh chết ngày 08/8/2002,
ông Nam chết ngày 01/6/2004. Ông Nam, bà Khánh có hai con chung là chị Thu hiện cư trú tại
số nhà 38 phố T, quận M, Tp. H và anh Hoàng Văn hiện đang định cư tại Hoa Kỳ.
Ngày 01/8/2004 chị Thu và bà Kim có thỏa thuận lập hợp đồng chuyển nhượng căn nhà số
4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H cho bà Kim, trị giá nhà bán là 1 tỷ đồng. Hợp đồng
được lập thành văn bản nhưng không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo
thỏa thuận hợp đồng bà Kim đã trả trước cho chị Thu số tiền 650.000.000 đồng (sáu trăm năm
mươi triệu đồng). Sau khi nhận được khoản tiền này chị Thu có giao cho bà Kim 01 (bản sao)
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đứng tên ông Hoàng Văn Nam (giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7135/2002 ngày 18/3/2002); 01 tờ khai sử dụng đất ngày
23/5/2003; tờ cam kết ngày 01/8/2004 đã được sự thỏa thuận đồng ý của em chị Thu là anh
Hoàng Văn cho chị Thu được toàn quyền định đoạt căn nhà này. Sau khi bà Kim giao tiền, chị
Thu viết giấy biên nhận tiền và hẹn 02 tháng khi làm xong giấy tờ nhà giao cho bà Kim thì bà
Kim trả hết số tiền còn lại cho chị Thu là 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng). Chị
Thu cam kết: “Nếu có gì thay đổi không thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng thì chị
Thu sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường cho bà Kim thỏa đáng”.
Sau 2 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, chị Thu đã không thực hiện các thỏa thuận trong hợp
đồng. Bà Kim đã nhiều lần đàm phán yêu cầu chị Thu thực hiện hợp đồng nhưng chị Thu đưa ra
nhiều lý do về việc chậm thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngày 06/5/2005 chị Thu thương lượng
với bà Kim đề nghị đưa thêm 85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu đồng), chị Thu hứa sẽ giao
nhà vào cuối tháng 7/2005 và tự ý viết giấy thực hiện giao tiền lần 2 đưa cho bà Kim cùng với
giấy đồng ý để bà Kim đến gặp bà Đồng Thị Thảo (người đã nhận cầm giấy tờ nhà của chị Thu)
để bà Kim đến chuộc lại giấy tờ nhà nói trên và khi giao nhà thì bà Kim chỉ còn phải giao nốt số
20
tiền mua nhà là 260.000.000 đồng (hai trăm sáu mươi triệu đồng). Do chị Thu đã không thực
hiện đúng việc thỏa thuận ban đầu nên bà Kim đã không chấp nhận đề nghị này của chị Thu.
Ngày 20/7/X bà Kim muốn khởi kiện ra Tòa xin hủy hợp đồng mua bán nhà, yêu cầu chị
Thu thanh toán lại số tiền đã nhận cho bà là 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Câu hỏi 1: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp này?
Câu hỏi 2: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy giúp bà Thu soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho phía
nguyên đơn
Tình tiết bổ sung
Tòa án thụ lý vụ án, sau khi nhận được thông báo về vụ kiện. Chị Thu có đơn trình bày gửi
Tòa với nội dung: Căn nhà 4/61 Lê Đức Thọ là của cha mẹ chị là ông Hoàng Văn Nam và bà
Phan Thị Khánh đã chết để lại, chị không có quyền quyết định. Năm 2003 chị Thu đã thế chấp
giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ, phường X, quận G, Tp. H cho bà Đồng Thị Thảo để vay số tiền
80.000.000 đồng (tám mươi triệu đồng) với lãi suất 13%/tháng. Chị Thu xác nhận có ghi hợp
đồng bán nhà cho bà Kim với giá 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), theo hợp đồng chị Thu đã
nhận trước 650.000.000 đồng (sáu trăm năm mươi triệu đồng) nhưng thực tế chị Thu cho rằng
chị không nhận số tiền này. Chị Thu khẳng định chỉ có nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng
(bảy mươi triệu đồng), không có giấy nợ. Nay chị Thu chỉ đồng ý trả nợ cho bà Kim số tiền
70.000.000 đồng bằng cách trả góp mỗi tháng 2 triệu đồng.
Anh Hoàng Văn gửi đơn trình bày với nội dung: Hợp đồng mua bán nhà ngày 01/8/2004
do chị Thu lập là không hợp lệ, anh Văn không hề có sự ủy quyền nào cho chị Thu được toàn
quyền định đoạt căn nhà này. Anh được biết chị Thu viết giấy mua bán nhà theo yêu cầu của bà
Kim, thực tế chị Thu không nhận tiền. Nay có việc tranh chấp giữa bà Kim với chị Thu về việc
đòi tiền, anh Văn không liên quan.
Câu hỏi 3: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định tư cách đương sự trong vụ án này?
Câu hỏi 4: (1 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần chứng minh trong vụ án này?
Tình tiết bổ sung
Theo lời trình bày của bà Thảo: Ngày 20/7/2003 chị Thu có nhờ bà vay số tiền 80.000.000
đồng. Khi vay chị Thu có thế chấp giấy tờ nhà do ông Hoàng Văn Nam đứng tên chủ quyền, 01
tờ khai sử dụng đất, 01 giấy chứng minh nhân dân của chị Thu. Đến nay chị Thu cũng chưa trả
nợ cho bà nên bà Thảo đã thế chấp toàn bộ giấy tờ nhà trên cho bà Lê Thủy Tiên để vay số tiền
120.000.000 đồng thanh toán nợ mà bà đã vay. Nay chị Thu muốn bán nhà thì phải trả số tiền nợ
trên để nhận lại toàn bộ giấy tờ nhà.
Bà Lê Thủy Tiên khai: Ngày 20/6/2004 bà có cho bà Đồng Thị Thảo vay số tiền
120.000.000 đồng (một trăm hai mươi triệu đồng), lãi suất 1,5%/tháng. Bà Thảo có giao cho bà
một số giấy tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H (bản chính). Bà Thảo hẹn vài
tháng sẽ trả nợ nhưng từ đó đến nay cũng chưa trả nợ vốn và lãi cho bà. Nay, bà Tiên đồng ý
giao toàn bộ hồ sơ nhà lại cho bà Thảo với điều kiện bà Thảo phải trả lại tiền nợ vay cho bà. Đối
với việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa bà Kim với chị Thu, bà không liên quan.
Theo đơn trình bày của anh Hoàng Văn, anh đề nghị Tòa án giải quyết thu hồi toàn bộ giấy
tờ nhà 4/61 Lê Đức Thọ phường X, quận G, Tp. H do chị Thu đã thế chấp vay nợ của bà Đồng
Thị Thảo năm 2003 số tiền 80.000.000 đồng.
Câu hỏi 5: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu này của anh Hoàng Văn có được giải quyết ngay trong vụ án này
không?
Tình tiết bổ sung
Tại phiên tòa, chị Thu cho rằng khi chị viết hợp đồng mua bán nhà với bà Kim là do chị bị
áp lực và do bà Kim ép buộc. Việc ép buộc này có chính quyền địa phương biết. Thực tế chị Thu
không có nhận số tiền như chị đã ghi trong hợp đồng là đã nhận trước số tiền của bà Kim giao là
21
650.000.000 đồng. Chị Thu chỉ thừa nhận nợ của bà Kim số tiền 70.000.000 đồng. Nay chị Thu
xin trả dần mỗi tháng 2 triệu đồng.
Hội đồng xét xử công bố các chứng cứ có trong hồ sơ, ngoài hợp đồng mua bán nhà ngày
01/8/2004, ngày 24/11/2004 chị Thu có làm giấy hẹn là “tháng 2/2005 chị Thu sẽ giao giấy tờ
nhà, bà Kim sẽ giao tiền cho chị Thu và chị Thu giao nhà cho bà Kim”; ngày 06/5/2005 chị Thu
lập hợp đồng mua bán nhà tiếp tục giao tiền lần hai với số tiền là 85.000.000 đồng. Hẹn 01 tháng
kể từ ngày nhận tiền lần hai sẽ sang tên chính thức chủ quyền nhà 4/61 Lê Đức Thọ cho bà Kim
và bà Kim sẽ giao hết số tiền còn lại 260.000.000 đồng, hẹn cuối tháng 7 sẽ giao nhà cho bà
Kim. Chị Thu đề nghị hoãn phiên tòa để xác minh tại chính quyền địa phương về việc hợp đồng
giao kết giữa chị Thu với bà Kim là bị áp lực và do ép buộc.
Câu hỏi 6: (1 điểm)
Theo anh (chị) yêu cầu của chị Thu có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Câu hỏi 7: (1,5 điểm)
Anh (chị) hãy xác định trọng tâm vấn đề cần hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm.
Tình tiết bổ sung
Qua xác minh tại ủy ban nhân dân phường X, quận G, Tp. H : UBND không biết việc bà
Kim dùng áp lực buộc chị Thu phải viết giấy bán nhà. Ủy ban nhân dân phường không nhận
được đơn khiếu nại nào của chị Thu về việc này.
Tại phiên tòa, Luật sư của chị Thu xuất trình xác nhận của Công an phường X, quận G, TP.
H xác nhận ngày 16/8/2005, chị Thu có gởi đơn tố cáo bà Kim đe dọa và ép buộc chị Thu ký kết
hợp đồng. Tuy nhiên, Công an phường X xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết nên Công
an phường không thụ lý vụ việc. Luật sư của chị Thu cho rằng, bà Kim hoàn toàn có lỗi trong
việc thực hiện giao dịch chuyển nhượng này.
Câu hỏi 8: (2 điểm)
Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho bà Kim tại phiên tòa sơ thẩm.
Câu 1:
Tòa án nhân dân quận G.
Câu 2:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Quận G, ngày tháng năm
ĐƠN KHỞI KIỆN
Kính gửi: TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN G
Nguyên đơn:
-Họ tên: bà Kim
-Địa chỉ:
Bị đơn:
-Họ và tên: bà Thu
-Địa chỉ:
Nội dung đơn khởi kiện:
(Nêu tóm tắt lại nội dung vụ việc)
Yêu cầu của nguyên đơn:
22
Yêu cầu Quý Tòa buộc bị đơn trả nợ gố là 650.000.000 đồng và lãi phát
sinh là………………
Chứng cứ kèm theo:
-Hợp đồng vay…
Rất mong được sự đồng ý của Quý Tòa.
Nguyên đơn
Câu 3:
Như câu 1, 2 bổ sung Người liên quan là bà Thảo và ông Hoàng Văn.
Câu 4:
Trọng tâm:
1-Nhà của ai?
2-Thu có thế chấp cho Thảo k?
3-Thu có bán nhà cho Kim?
4-Số tiền Thu nhận là bao nhiêu?
Câu 5:
Câu 6:
Có quyền. Để làm sáng tỏ vụ án.
Câu 7:
Như câu 4, cần làm rõ thêm vụ 70 triệu
Câu 8:
Các nội dung chính:
-Bà Thu có bán nhà cho bà Kim
-Bà Kim có giao 650.000.000 đồng cho bà Thu
-Bà Kim không hề đe dọa, ép buộc bà Thu ký hợp đồng
-Yêu cầu bà Thu trả lại 650.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại,…
23