ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
SỸ THỊ THƠM
ho
ai
D
an
aN
cD
ẨN DỤ VỀ MÙA TRONG BÀI HÁT TIẾNG ANH
VÀ TIẾNG VIỆT: NGHIÊN CỨU THEO ĐƯỜNG
HƯỚNG TRI NHẬN
g
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Anh
Mã số: 9.22.02.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
Đà Nẵng, 2022
Luận án đƣợc hoàn thành tại trƣờng Đại học Ngoại ngữ,
Đại học Đà Nẵng
Hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Long
TS. Nguyễn Thị Minh Tâm
D
Phản biện 1:
PGS.TS. Nguyễn Văn Độ
ai
Phản biện 2:
ho
Phản biện 3:
PGS.TS. Hoàng Tuyết Minh
TS. Huỳnh Anh Tuấn
aN
cD
Luận án đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án
an
Thời gian: 8 giờ ngày 10 tháng 2 năm 2022
Địa điểm: Trƣờng Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
g
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Trung tâm Cơng nghệ Thông tin và Học liệu, Trường Trường Đại học
Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng
- Trung tâm Thông tin - Học liệu và Truyền thông, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
CHƢƠNG 1. MỞ ĐẦU
g
an
aN
cD
ho
ai
D
1.1. Lý do chọn đề tài
Lakoff và Johnson đã đánh dấu cuộc cách mạng về ngôn ngữ học tri
nhận bằng tác phẩm kinh điển có tên Ẩn dụ quanh ta đƣợc viết vào năm 1980
khi hai ông xem xét ẩn dụ dƣới góc nhìn ngơn ngữ tri nhận. Quan điểm cho
rằng ẩn dụ cần đƣợc nhìn nhận là một hiên tƣợng ý niệm, không chỉ là một
hiện tƣơng ngôn ngữ đơn thuần đã đƣợc khẳng định bởi Lakoff và các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ theo trƣờng phái của ơng nhƣ Kưvecses, 2002, 2010;
Lakoff, 1987; Lakoff & Johnson, 1980a, 1999; Lakoff & Turner, 1989 v.v. Vì
vậy lý thuyết này đã tạo nên nền tảng, cơ sở cho những nguyên cứu sau này. Ở
Việt Nam, nhiều học giả cũng đã đƣa ra những quan điểm về ẩn dụ tri nhận
dựa trên học thuyết của Lakoff và Johnson.
Hiện tại trên thế giớ cũng nhƣ ở Việt Nam có khá nhiều nghiên cứu về
ẩn dụ tri nhận khảo sát về thực thể trừu tƣợng và cụ thể xung quanh thế giới
con ngƣời. Đặc biệt, các nghiên cứu quan tâm nhiều tới việc khảo sát các thực
thể trừu tƣợng đƣợc xem xét nhƣ là miền đích trong ẩn dụ tri nhận. Những thứ
trừu tƣợng này trở nên dễ hiểu hơn nhờ ẩn dụ tri nhận bởi lẽ ẩn dụ tri nhận là
quá trình ý niệm hóa một miền trừu tƣợng hơn thơng qua một miền cụ thể hơn.
Trong đó đáng chú ý là khái niệm trừu tƣợng thời gian cũng đƣợc khảo sát
nhiều bởi các tác giả trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên đa số trong các nghiên
cứu này thời gian đƣợc xem là miền đích. Nhƣ vậy thời gian đƣợc xem xét
nhƣ là miền nguồn vẫn chƣa đƣợc khảo sát sâu rộng.
Tóm lại, chủ đề này vẫn chƣa đƣợc khảo sát rộng rãi ở Việt Nam mặc
dù đó là một chủ đề thú vị và có ý nghĩa. Vì vây, nghiên cứu “Ẩn dụ về mùa
trong bài hát tiếng Anh và tiếng Việt: nghiên cứu theo đƣờng hƣớng tri nhận”
đƣợc thực hiện nhằm bổ sung và cung cấp ứng dụng hữu ích cho việc day, học
và dịch tiếng Anh ở Việt Nam. Ngồi ra, nghiên cứu cịn giúp thúc đẩy sự
thơng hiểu về ẩn dụ của ngƣời nƣớc ngoài sử dụng tiếng Viêt.
1.2. Mục đích và mục tiêu cảu nghiên cứu
Nghiên cứu đƣợc thực hiện với mục đích khảo sát ẩn dụ vè mùa trong
bài hát tiếng Anh và tiếng Việt theo lý thuyết của ẩn dụ tri nhận. Sau đó, có sự
so sánh ẩn dụ giữa tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra sự tƣơng đồng và khác
biệt giữa chúng. Đồng thời, nghiên cứu cũng đƣa ra một số lí do giải thích cho
sự giống và khác nhau đó. Để đạt đƣợc mục đích đó nghiên cứu cần theo đuổi
các mục tiêu cụ thể sau:
1
g
an
aN
cD
ho
ai
D
- Mô tả mùa đƣợc ánh xạ nhƣ thế nào từ các thực thể cụ thể trong bài
hát tiếng Anh và tiếng Việt.
- Mô tả mùa ánh xạ nhƣ thế nào lên các thực thể trừu tƣợng trong bài
hát tiếng Anh và tiếng Việt.
- Tìm ra sự giống và khác nhau ẩn dụ tri nhận về mùa trong các bài hát
tiếng Anh và tiếng Việt.
- Đƣa ra những lí giải cho sự giống và khác nhau đó qua sự nghiệm
than từ mơi trƣờng vật lí và mơi trƣờng văn hóa xã hội.
1.3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Nghiên cứu đã khảo sát những ngƣời nói tiếng Anh ở các quốc gia
trong nhóm các nƣớc vịng trong cùng của biểu đồ Kachru (1985) và ngƣời
Việt ý niệm hóa về mùa. Do đó, nghiên cứu có ý nghĩa cả về lí luận và thực
tiễn. Về mặt lí thuyết, nghiên cứu góp phần vào tính hiệu quả của CMT. Lý
thuyết này đƣợc liên tục bổ sung ngày một hoàn thiện. Nghiên cứu hi vọng
rằng sẽ góp phần vào việc hiểu bản chất của ngơn ngữ con ngƣời nói chung,
thúc đẩy nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận và đặc tính của nó nói riêng và khuyến
khích nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực ngơn ngữ học tri nhận. Về phƣơng pháp,
nghiên cứu đã chỉ ra các tiếp cân mới trong khảo sát ẩn dụ trong nghiên cứu so
sánh đối chiếu ngôn ngữ, cụ thể trong nguyên cứu này là so sánh giữa tiếng
Anh và tiếng Việt. Về thực tiễn nghiên cứu cung cấp những gợi ý hữu dụng
trong việc dạy và học ngôn ngữ. Đặc biệt, nghiên cứu góp phần vào việc cải
thiện khả năng ngôn ngữ của ngƣời Việt học tiếng Anh và ngƣời nƣớc ngoài
học tiếng Việt.
2
g
an
aN
cD
ho
ai
D
CHƢƠNG 2. TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Cở sở lý luận
2.1.1. Lý thuyết ẩn dụ theo truyền thống
Ẩn dụ là đối tƣợng nghiên cứu đƣợc bàn luận lâu nay với nhiều quan
điểm khác nhau trên khắp thế giới. Theo truyền thống, nghiên cứu ẩn dụ đƣợc
xem nhƣ là một hình thái tu từ, là phƣơng tiện có tính trang trí sủ dụng trong
hình thức tu từ (trích từ Ungerer & Schmid, 2006, tr.114). Bên cạnh đó, ở
phƣơng tây ẩn dụ đƣợc tiếp cận với nhiều cách khác nhau: Bên cạnh đó, ở
phƣơng Tây, ẩn dụ đã đƣợc tiếp cận theo nhiều cách khác nhau nhƣ phƣơng
pháp luận của Aristotle, nghiên cứu ẩn dụ với tƣ cách là chuyển di tên gọi;
phƣơng pháp ngôn ngữ truyền thống tiếp cận ẩn dụ là một sự sai lệch về ngôn
ngữ dẫn đến câu khơng chính xác hoặc phi logic; về cách tiếp cận ứng dụng,
ẩn dụ đƣợc coi là một hành động nói khác thƣờng, từ đó một loạt các nguyên
tắc đặc biệt đƣợc yêu cầu; và dƣới góc độ tiếp cận tƣơng tác, ẩn dụ đƣợc hiểu
là sự tƣơng tác giữa hai chủ thể. Do đó, phƣơng pháp tƣơng tác mở ra sự thừa
nhận giá trị của ẩn dụ trong tri nhận. Nó tạo ra cơ sở cho sự xuất hiện của lý
thuyết tri nhận, đặc biệt, với tác phẩm kinh điển Ẩn dụ quanh ta (Metpahors
we live by 1980) của Lakoff & Johnson mà nghiên cứu này chủ yếu dựa vào.
2.1.2. Ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận
Lý thuyết ẩn dụ tri nhận (CMT), đã đề xuất rằng ẩn dụ không phải là
một kiểu sử dụng ngôn ngữ theo kiểu cách mà chủ yếu là một mơ hình tri nhận
có hệ thống về các khái niệm, đã dẫn đến một cuộc cách mạng lớn trong
nghiên cứu về ẩn dụ. Do đó, CMT đƣợc nhiều nhà ngơn ngữ học nhận thức áp
dụng rộng rãi để phân tích ẩn dụ (Lakoff & Johnson, 1980a; Lakoff, 1993;
Kövecses, 2010; Gibbs, 2011). CMT không chỉ làm nổi bật bản chất phổ biến
của phép ẩn dụ trong cuộc sống hàng ngày mà còn cho thấy phép ẩn dụ ảnh
hƣởng đến cách mọi ngƣời suy nghĩ, nói và hành động (Lakoff & Johnson,
2003; Deignan, 2005; Littlemore 2009; Kövecses, 2010). Điều quan trọng hơn
đối với các nhà ngơn ngữ học là CMT có thể đƣợc coi là một giải thích ý niệm
cho phần ẩn dụ của việc sử dụng ngôn ngữ.
Thuật ngữ ẩn dụ đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này đề cập đến phép
ẩn dụ ý niệm, mà một miền ý niệm này đƣợc hiểu theo một miền ý niệm khác.
Ẩn dụ ý niệm có thể đƣợc đƣa ra bằng công thức A là B hoặc A nhƣ B. Cụ thể,
A biểu thị miền đích và B là miền nguồn nhƣ trong ẩn dụ thời gian trơi qua
như một đối tượng chuyển động, trong đó khái niệm đối tượng chuyển động
đƣợc ánh xạ lên khái niệm thời gian trôi qua. (Lakoff & John, 1980a; Lakoff,
1993, 2003; Kövecses, 2010).
3
g
an
aN
cD
ho
ai
D
Thành phần của ẩn dụ tri nhận
Khi thảo luận về ẩn dụ trong văn hóa, Kưvecses (2005) lƣu ý rằng “ẩn
dụ đƣợc xem là sự cấu thành bởi nhiều bộ phận, khía cạnh hoặc thành phần
tƣơng tác với nhau.” (Tr.5). Ông cũng phác thảo 11 thành phần của phép ẩn dụ
khái niệm, đó là (1) miền nguồn, (2) miền đích, (3) cơ sở trải nghiệm, (4) cấu
trúc thần kinh tƣơng ứng với (1) và (2) trong não, (5) mối quan hệ giữa nguồn
và đích, (6) các biểu thức ngơn ngữ ẩn dụ, (7) ánh xạ, (8) kế thừa, (9) pha trộn,
(10) hiện thực hóa phi ngơn ngữ và (11) mơ hình văn hóa.
Đăc điểm của ẩn dụ tri nhận
Để hồn thiện định nghĩa về ẩn dụ, một số đặc điểm chính của phép ẩn
dụ ý niệm, đƣợc trình bày nhƣ là tính đẳng hình, tính hệ thống, tính phổ biến,
tính bộ phận và tính đối ngẫu.
2.2. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan
Thời gian đƣợc coi là miền đích trong hầu hết các tác phẩm nổi tiếng.
Lakoff và Johnson (1980a, tr.7-9), cung cấp các ẩn dụ ý niệm về thời gian
thông qua một số biểu thức ẩn dụ nhƣ là THỜI GIAN LÀ TIỀN BẠC, THỜI
GIAN LÀ NGUỒN LỰC CÓ HẠN, THỜI GIAN LÀ HÀNG HÓA CÓ GIÁ
TRỊ. Bên cạnh đó, họ đƣa ra một khái niệm ẩn dụ khác về thời gian, đó là
THỜI GIAN LÀ ĐỐI TƢỢNG CHUYỂN ĐỘNG. Tƣơng tự, Kövecses đồng ý
và đƣa ra ẩn dụ THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG. Tuy nhiên, ông mở rộng
phép ẩn dụ này khi nói thêm rằng ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ CHUYỂN
ĐỘNG tồn tại hai trƣờng hợp đặc biệt trong tiếng Anh: CHUYỂN ĐỘNG
CỦA THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG CỦA ĐỐI TƢỢNG và CHUYỂN
ĐỘNG CỦA THỜI GIAN LÀ CHUYỂN ĐỘNG CỦA NGƢỜI QUAN SÁT
QUA KHÔNG GIAN. Ngồi ra, Goedly (1997) phát hiện ra THỜI GIAN LÀ
KHƠNG GIAN. Hơn nữa, thảo luận về nhân cách hóa, một phƣơng thức ẩn dụ
đƣợc sử dụng phổ biến trong văn học, tức là trong ngơn ngữ thơ ca, Kưvecses
tìm thấy nhiều ẩn dụ ý niệm hơn về thời gian, cụ thể là, THỜI GIAN LÀ KẺ
CẮP, THỜI GIAN LÀ KẺ HỦY DIỆT, THỜI GIAN LÀ NGƢỜI THU
HOẠCH, THỜI GIAN LÀ NGƢỜI PHÁ HOẠI, THỜI GIAN LÀ MỘT
NGƢỜI ĐÁNH GIÁ, và THỜI GIAN LÀ NGƢỜI TRUY NÃ.
Phát triển khái niệm ẩn dụ về thời gian của Lakoff và Johnson
(1980a), Evans (2004) đƣa ra cách tiếp cận ẩn dụ ý niệm về thời gian. Đặc
biệt, ông làm rõ ẩn dụ THỜI GIAN LÀ ĐỐI TƢỢNG CHUYỂN ĐỘNG bằng
hai bộ ánh xạ trong đó thời gian đƣợc cấu trúc ẩn dụ theo chuyển động. Nói
cách khác, ánh xạ khơng-thời gian trong trƣờng hợp này đã đƣợc phân loại
trên cơ sở đối tƣợng chuyển động.
4
g
an
aN
cD
ho
ai
D
Li (2014) đã tiến hành nghiên cứu “Phân tích khối liệu về việc sử dụng
ẩn dụ của thời gian danh từ tần suất cao: Những thách thức đối với lý thuyết ẩn
dụ ý niệm”. Với việc sử dụng Ngân hàng Anh ngữ (BoE), nghiên cứu này
phân tích các biểu thức ngơn ngữ thƣờng xuất hiện về thời gian có liên quan
đến hai ẩn dụ khái niệm về thời gian (THỜI GIAN LÀ TIỀN và THỜI GIAN
LÀ CHUYỂN ĐỘNG). Cụ thể, khái niệm thời gian thƣờng xuyên đƣợc sử
dụng làm chủ đề để minh chứng cho sự tồn tại của ẩn dụ ý niệm trong CMT.
Thật thú vị, kết quả cho thấy danh sách các ẩn dụ ngôn ngữ thƣờng xuyên
đƣợc tìm thấy ở đây dƣờng nhƣ khá khác với danh sách các ví dụ do Lakoff và
Johnson (1980a, b) đƣa ra cho hai nhóm ẩn dụ ý niệm này.
Ở Việt Nam, các ẩn dụ ý niệm về thời gian đƣợc khảo sát trong nghiên
cứu của Nguyễn Thị Quyết (2015). Thông qua biểu hiện của thời gian: ngày,
các phần của ngày, đêm, tháng, mùa, và thời gian nói chung nhƣ các miền
đích, bên cạnh các ẩn dụ ý niệm về thời gian đƣợc trình bày ở trên (bởi Lakoff
và Johnson, 1980a, b; Kövecses, 2010; Goosystem , 1997; Evans, 2004),
nghiên cứu đã phát hiện ra 7 phép ẩn dụ khái niệm về thời gian.
Ngoài ra, nghiên cứu do Bạch Thị Thanh Phƣợng (2014) thực hiện đã
khảo sát các ẩn dụ khái niệm về mùa xuân và xuân biểu thị các mùa trong thơ
tiếng Anh và tiếng Việt. Nghiên cứu cho thấy những phát hiện thú vị và tiết lộ
những hạn chế của nó.
Đáng chú ý, Hồ Trịnh Quỳnh Thƣ (2018) đã tiến hành một nghiên cứu
có tên: nghiên cứu tri nhận về cách diễn đạt ẩn dụ tình yêu trong tiếng Anh và
tiếng Việt. Đây là một trong những nghiên cứu hiếm hoi có phát hiện liên quan
đến ẩn dụ thời gian trong đó thời gian đƣợc coi nhƣ một miền nguồn.
Tóm lại, một số lƣợng lớn các nghiên cứu đã đƣợc thực hiện để điều
tra khái niệm về thời gian nhƣ một miền đích. Ngƣợc lại, rất ít nghiên cứu cho
thấy thời gian đƣợc sử dụng để diễn tả các thực thể khác đƣợc coi là miền
đích. Nói cách khác, thời gian nhƣ một miền nguồn đƣợc sử dụng để ánh xạ
lên các miền khác là một vùng đất bao la hoặc miền đất hứa chào đón các học
giả đến khám phá về ẩn dụ tri nhận.
5
g
an
aN
cD
ho
ai
D
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Luận án đƣợc thực hiện cố gắng trả lời câu hỏi nghiên cứu tổng thể
sau:
Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa được thể
hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt?
Để đạt đƣợc mục đích này, nghiên cứu cần trả lời hai câu hỏi nghiên
cứu sau:
1. Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa đƣợc thể
hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa đƣợc xem là miền đích?
2. Có sự giống và khác nhau nào của ẩn dụ tri nhận về mùa đƣợc thể
hiện qua ca từ bài hát tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa đƣợc xem là miền
nguồn?
3.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn này là một nghiên cứu so sánh đƣợc thực hiện nhằm xác
định các ẩn dụ về MÙA dƣới góc nhìn của ngơn ngữ học tri nhận, trong đó chủ
yếu sử dụng phƣơng pháp so sánh kết hợp phƣơng pháp mơ tả và có sự hỗ trợ
của một số kỹ thuật của phƣơng pháp định tính và định lƣợng.
3.3. Tiến trình thu thập dữ liệu
3.3.1. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu thu thập đƣợc lấy từ lời bài hát tiếng Anh và tiếng Việt từ thế
kỷ 20 cho tới nay. Là khảo sát ẩn dụ khái niệm về mùa, các mẫu đƣợc chọn
đến từ bài hát. Dữ liệu đƣợc thu thập từ một số nguồn, cụ thể là bản ghi trên
Internet, bản ghi dựa trên CD / DVD và các ấn phẩm.
Quá trình thu thập dữ liệu tuân theo một số bƣớc để xây dựng hai khối
liệu của hai ngôn ngữ. Khối liệu đƣợc xây dựng gồm 1646 và 1897 biểu thức
ẩn dụ liên quan đến mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt tƣơng ứng.
3.3.2. Xác định ẩn dụ ý niệm
Nhận dạng các ẩn dụ (bao gồm xác định các ẩn dụ ngôn ngữ và ẩn dụ
ý niệm) là một bƣớc quan trọng của bất kỳ nghiên cứu ẩn dụ nào. Thực tế, việc
xác định ẩn dụ ý niệm phụ thuộc vào ý nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ (tức
là ẩn dụ ngôn ngữ) chỉ ra các ẩn dụ ý niệm trong diễn ngôn.
Xác định ẩn dụ ngôn ngữ
Nghiên cứu áp dụng phƣơng pháp xác định ẩn dụ của Charteris-Black,
Pragglejaz Group và mở rộng quy trình của Pragglejaz do Wittink thực hiện.
Xác định ẩn dụ ý niệm
6
Nghiên cứu áp dụng tiến trình 5 bƣớc xác định ẩn dụ ý niệm của Steen
(1999, 2007).
3.4. Phân tích dữ liệu
3.4.1. Khung phân tích
Khái niệm mùa trong nghiên cứu này đƣợc ký hiệu bằng các từ: mùa
xuân, mùa xuân, mùa xuân, mùa hạ, mùa hạ, mùa thu, mùa thu, mùa đông,
mùa đông trong tiếng Việt và and season, spring, springtime, summer,
summertime, autumn, autumntime, fall, winter and wintertime trong tiếng
Anh.
Khung phân tích của nghiên cứu này có thể đƣợc sơ đồ hóa nhƣ hình
dƣới đây:
cD
ho
ai
D
g
an
aN
Hình 1. Khung phân tích ẩn dụ tri nhận về mùa trong tiếng Anh
và tiếng Việt
3.4.2. Tiến trình phân tích dữ liệu
Tiến trình phân tích của nghiên cứu này đƣợc kết hợp giữa CMA
(Charteris-Black, 2004) và FSM (Steen, 2011) với sự hỗ trợ của (CIC)
(Kövecses, 2010), đƣợc đề cập lại trong cuốn sách Khái niệm mở rộng lý
thuyết ẩn dụ (Kưvecses, 2020) khi ơng thảo luận về ẩn dụ trong ngữ cảnh, có
thể hình dung qua 3 giai đoạn nhƣ sau:
7
ho
ai
D
Hình 2. Tiến trình phân tích ẩn dụ tri nhận về mùa
g
an
aN
cD
8
CHƯƠNG 4. THỰC THỂ MÙA ĐƯỢC ÁNH XẠ TỪ CÁC MIỀN THỰC
THỂ CỤ THỂ TRONG CA TỪ BÀI HÁT TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Chƣơng này trình bày kết quả phân tích ẩn dụ về mùa trong tiếng Anh
và tiếng Việt khi mùa đƣợc coi là miền đích.
Theo phân loại của Zheng (2017), các miền cụ thể đƣợc sử dụng để ý
niệm mùa đã đƣợc phát hiện với tổng số lƣợng lớn các biểu thức ẩn dụ trong
cả tiếng Anh và tiếng Việt, lần lƣợt giữ 1,275 và 1,359 từ hai khối liệu với sự
phân bố của các thực thể sống và vơ tri nhƣ các miền nguồn đƣợc thấy trong
hình sau:
cD
ho
ai
D
g
an
aN
Hình 3. Sự phân bổ thực thể sống và vơ tri đƣợc ánh xạ lên mùa trong
tiếng Anh và tiếng Việt
4.1. Thực thể sống
Liên quan đến MÙA NHƢ MỘT THỰC THỂ SỐNG, các phát hiện đã
phát hiện ra 9 phép ẩn dụ về mùa nhƣ trong hình bên dƣới:
Hình 4. Sự phân bố miền đích của các thực thể vơ tri lên mùa trong
tiếng Anh và tiếng Việt
9
g
an
aN
cD
ho
ai
D
Rõ ràng là ẩn dụ MÙA LÀ THỰC THỂ TRONG KHƠNG GIAN là
phổ biến nhất trong cả hai ngơn ngữ. Có nghĩa là cả ngƣời phƣơng Tây và
ngƣời Việt Nam đều coi MÙA là một thực thể đƣợc thể hiện tƣơng quan trong
không gian. Tƣơng tự, các thực thể, cụ thể là thực thể cụ thể, chất tự nhiên, đặc
điểm của tự nhiên đƣợc sử dụng rất nhiều để miêu tả MÙA. Những ẩn dụ này
là phổ biến vì những miền này quen thuộc với tất cả mọi ngƣời trên trái đất
chúng ta. Cụ thể, mọi ngƣời đều coi mình nhƣ một thực thể, và họ tự hiện thân
nhƣ một vật chứa những vật thể khác trong một không gian nhất định. Hơn
nữa, con ngƣời trải nghiệm môi trƣờng sống của họ với kiểu thời tiết, đơn vị
thời gian mỗi ngày.
Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cho thấy những ẩn dụ mới lạ, cụ thể
là khái niệm hóa MÙA nhƣ một thực thể xã hội và một hoạt động xã hội. Trên
thực tế, khi THỜI GIAN đƣợc khảo sát nhƣ một miền đích, khơng có phát hiện
nào cho thấy ÂM NHẠC đƣợc sử dụng để miêu tả THỜI GIAN. Tuy nhiên,
kết quả của luận án này đã phát hiện ra ẩn dụ MÙA LÀ ÂM NHẠC trong cả
hai ngôn ngữ. Có thể kết luận rằng mọi ngƣời có chung cách nhận thức thế
giới nói chung, MÙA nói riêng khi họ có những trải nghiệm vật lý giống nhau
cho dù họ sống ở đâu trên Trái Đất.
4.2. Miền thực thể sống
Theo phân loại của Zheng (2017), các thực thể sống bao gồm động vật
và thực vật, trong đó động vật bao gồm động vật bậc thấp và động vật bậc cao
(cụ thể là con ngƣời). Số liệu thống kê thu thập đƣợc cho thấy ẩn dụ MÙA LÀ
THỰC THỂ SỐNG khá phổ biến trong cả tiếng Anh và tiếng Việt. Chính xác là
có 201 biểu thức, với 336 tần số trong tiếng Anh và 268 biểu thức trong tiếng
Việt, giữ 285 tần số. Giống nhƣ các miền trên, số lƣợng biểu thức hỗ trợ mỗi
trƣờng hợp trong mỗi ngôn ngữ là khơng giống nhau. Nó có thể đƣợc minh họa
trong hình dƣới đây:
Hình 5. Phân bổ thực thể sống là miền nguồn ánh xạ lên mùa trong tiếng
Anh và tiếng Việt
10
4.3. Tiểu kết
Kết quả cho thấy có hai miền nguồn lớn ánh xạ lên miền đích MÙA
trong khối liệu tiếng Anh và tiếng Việt, đó là miền vơ tri và miền thực thể
sống, với 13 miền nhỏ hơn. Ngoài ra, mỗi cấp dƣới này có một số lƣợng lớn
các miền phụ. Nói cách khác, về mặt MÙA là miền đích, có 40 phép ẩn dụ
khái niệm đƣợc tìm thấy trong hai ngôn ngữ nhƣ trong Bảng dƣới đây:
Bảng 1. Ẩn dụ ý niệm về mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt khi mùa là
miền đích
Conceptual Metaphors
SEASON IS MOTION
SEASON IS A CONTAINER
SEASON IS A CONTAINED OBJECT
SEASON IS A CORPOREAL OBJECT
SEASON IS A COLORED OBJECT
SEASON IS AN OLFACTORY OBJECT
SEASON IS A TASTY OBJECT
SEASON IS EXISTENCE
SEASON IS POSSESSION
SEASON IS LOCATION
SEASON IS PATH
SEASON IS A FORCE/CHANGER
SEASON IS PLACE
SEASON IS HEAVEN
SEASON IS SEA
SEASON IS A RIVER
SEASON IS FIRE
SEASON IS HEAT
SEASON IS LIGHT
SEASON IS SUNSHINE
SEASON IS WIND
SEASON IS COLDNESS
SEASON IS LIQUID
SEASON IS SOUND
SEASON IS TEMPORAL CYCLE
SEASON IS MUSIC
SEASON IS MONEY
SEASON IS MAGIC
SEASON IS FOOD
SEASON IS COSTUMES
SEASON IS COSMETICS
SEASON IS A SOCIAL EVENT
SEASON IS A HOLIDAY/VOCATION
SEASON IS CHARACTERISTIC OF CLIMATE
SEASON IS CHARACTERISTIC OF GALACTIC ENTITIES
SEASON IS CHARACTERISTIC OF TEMPORAL UNITS
SEASON IS A LIVING ENTITY
SEASON IS A PERSON
SEASON IS AN ANIMAL
SEASON IS A PLANT
Note: + = existent; - = nonexistent
English
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
11
g
an
aN
cD
ho
ai
D
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
Vietnamese
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
CHƢƠNG 5. THỰC THỂ MÙA ÁNH XẠ LÊN MIỀN TRỪU TƢỢNG
TRONG CA TỪ BÀI HÁT TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
5.1. Miền trạng thái tự nhiên
Trạng thái ở đây đề cập đến hình dạng và đặc điểm bên ngồi của các
đối tƣợng, hoặc hiện trạng của hệ thống vật chất. Bên cạnh đó, theo từ điển
Longman Dictionary English (LDE), nó đƣợc định nghĩa là “tình trạng mà một
ngƣời hoặc một vật là; cách để trở thành". Cụ thể, trạng thái tự nhiên trong bài
báo này bao gồm sức sống, sự suy tàn, sự trường tồn, sự sống, vẻ đẹp và tuổi
trẻ.
cD
ho
ai
D
g
an
aN
Hình 6. Phân bổ miền trạng thái tự nhiên đƣợc ánh xạ qua mùa trong
tiếng Anh và tiếng Việt
MÙA đƣợc sử dụng rộng rãi để ý niệm hóa các trạng thái tự nhiên
trong cả tiếng Anh và tiếng Việt. Điều đáng chú ý là các trạng thái tích cực
nhƣ cuộc sống tốt đẹp, sắc đẹp và tuổi trẻ đƣợc hình thành qua XUÂN trong
khi trạng thái tiêu cực, nhƣ là sự suy tàn đƣợc hiểu một cách ẩn dụ qua hai
mùa: mùa thu và mùa đơng. Ngồi ra, về ánh xạ phụ, bên cạnh hai lĩnh vực:
sức sống và sự suy giảm mà hai ngơn ngữ cùng có, phát hiện cho thấy có ba
miền đích là cuộc sống, vẻ đẹp và tuổi trẻ đƣợc ánh xạ từ mùa chỉ trong tiếng
Việt, và chỉ có một miền là sự tồn tại mà ngƣời Anh ánh xạ từ mùa lên.
5.2. Miền xã hội
Lĩnh vực xã hội, một lĩnh vực cơ bản trong ngôn ngữ học nhận thức,
bao gồm một số lƣợng lớn các mối quan hệ không thể tách rời với cuộc sống
của con ngƣời. Phát hiện của nghiên cứu cho thấy rằng MÙA đƣợc khai thác
để nói về các lĩnh vực xã hội, chẳng hạn nhƣ đoàn tụ, chia ly, chiến thắng,
v.v., đƣợc tổng hợp nhƣ trong hình dƣới đây:
12
g
an
aN
cD
ho
ai
D
Hình 7. Phân bố miền xã hội đƣợc ánh xạ từ mùa trong tiếng Anh và
tiếng Việt
5.3. Miền cảm xúc
Thực tế là cảm xúc đã trở thành một đối tƣợng phổ biến trong các
nghiên cứu liên quan đến ẩn dụ (Lakoff & Johnson, 1980: Ning Yu, 1998;
Kövecses, 2000, 2005, 2010). Lakoff và Johnson (1980) khẳng định rằng ẩn dụ
đóng một phần thiết yếu trong việc hình thành khái niệm về cảm xúc. Ngồi
ra, khi thảo luận về các miền đích phổ biến, Kưvecses chia sẻ rằng cảm xúc là
miền đích thƣợng danh, với rất nhiều yếu tố cấp dƣới nhƣ giận dữ, sợ hãi, tình
yêu, hạnh phúc, buồn bã, xấu hổ, tự hào, v.v., đƣợc hiểu chủ yếu qua ẩn dụ ý
niệm. Điều thú vị là những phát hiện của nghiên cứu đã khám phá ra rằng
MÙA đƣợc khai thác để thể hiện cảm xúc, với các miền tình yêu, hạnh phúc,
buồn bã và cô đơn đƣợc phân phối nhƣ trong bảng dƣới đây:
Bảng 2. Miền cản xúc đƣợc ánh xạ từ MÙA trong tiếng Anh và tiếng
Việt
Emotional domains
English
Vietnamese
Number of
Number of
expressions
expressions
1
Love
94
124
2
Happiness
31
34
3
Sadness
49
97
4
Loneliness
54
51
Total 228
301
Tóm lại, MÙA đƣợc coi nhƣ một miền nguồn để ánh xạ lên cảm xúc.
Đáng chú ý là cảm xúc tích cực nhƣ là tình u vui vẻ, hạnh phúc đƣợc biểu
hiện một cách ẩn dụ qua hai mùa là xuân và hạ. Ngƣợc lại, hai mùa khác đƣợc
sử dụng để thể hiện những cảm xúc tiêu cực nhƣ buồn bã và cô đơn.
13
5.4. Tiểu kết
Tóm lại, liên quan đến miền nguồn, ngƣời ta đã mƣợn MÙA để diễn tả
các miền trừu tƣợng, đƣợc phân loại thành các miền trạng thái tự nhiên, xã hội
và cảm xúc.
Với ba miền lớn đƣợc ánh xạ thơng qua miền nguồn MÙA, tổng cộng
có 18 miền miền nhỏ đƣợc tìm thấy trong tiếng Anh và tiếng Việt, và đƣợc
tổng hợp trong bảng sau:
Conceptual Metaphors
VITALITY IS SEASON
DECLINE IS SEASON
PERPETUATION IS SEASON
LIFE IS SEASON
BEAUTY IS SEASON
YOUTH IS SEASON
REUNION IS SEASON
SEPARATION IS SEASON
MEMORY IS SEASON
HOPE IS SEASON
DIFFICULTY IS SEASON
VICTORY IS SEASON
FREEDOM IS SEASON
PEACE IS SEASON
LOVE IS SEASON
HAPPINESS IS SEASON
SADNESS IS SEASON
LONELINESS IS SEASON
Note: + = existent; - = nonexistent
English
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
aN
cD
ho
ai
D
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Vietnamese
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
+
g
an
Giống nhƣ trƣờng hợp MÙA đƣợc coi là miền đích, sự tƣơng đồng và
khác biệt của ẩn dụ ý niệm cho MÙA với tƣ cách miền nguồn đƣợc tìm thấy
trong cả hai nguồn ngữ liệu.
Về mức độ khai thác ngôn ngữ, ẩn dụ CẢM XÚC LÀ MÙA là phổ biến
nhất so với các ẩn dụ khác trong cả hai ngôn ngữ. Cụ thể, có 228 và 306 biểu đạt
hỗ trợ phép ẩn dụ này trong dữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt tƣơng ứng. Bên cạnh
đó, một số miền kéo theo nhƣ LOVE, LONELINESS, VITALITY đƣợc áp dụng
rộng rãi trong cả 2 ngữ liệu, lần lƣợt là 94 và 124, 54 và 51, 48 và 55 trong tiếng
Anh và tiếng Việt. Ngƣợc lại, một số ẩn dụ ít phổ biến hơn trong hai ngơn ngữ,
ví dụ: ĐỒN TỤ LÀ MÙA, với 8 và 10 biểu đạt trong tiếng Anh và tiếng Việt,
và HY VỌNG LÀ MÙA, với 9 biểu đạt trong tiếng Anh và 10 trong ngữ liệu
tiếng Việt. Ngoài những điểm tƣơng đồng này, hai ngơn ngữ có sự khác biệt
trong việc khai thác MÙA để ý niệm hóa các thực thể trừu tƣợng, CHIẾN
THẮNG và SỰ TRƢỜNG TỒN là những trƣờng hợp điển hình. Chính xác là có
15 biểu đạt hỗ trợ ẩn dụ CHIẾN THẮNG LÀ MÙA trong tiếng Việt, trong khi
14
g
an
aN
cD
ho
ai
D
khơng tìm thấy biểu thức ẩn dụ nào trong ngữ liệu tiếng Anh. Ngƣợc lại, SỰ
TRƢỜNG TỒN LÀ MÙA đƣợc rút ra từ 8 biểu đạt trong tiếng Anh, nhƣng
không có bất kỳ biểu đạt nào đƣợc tìm thấy trong dữ liệu tiếng Việt.
Về chủ đề của miền, hai ngôn ngữ chia sẻ 10 miền đƣợc ánh xạ thông
qua MÙA. Đó là SỨC SỐNG, SỰ SUY TÀN, ĐỒN TỤ, CHIA CÁCH,
HỒI NIỆM, HY VỌNG, TÌNH U, HẠNH PHÚC, NỖI BUỒN, SỰ CƠ
ĐƠN. Ngƣợc lại, hai miền phụ: TRƢỜNG TỒN, KHĨ KHĂN tồn tại trong
ngôn ngữ tiếng Anh trong khi 6 miền khác, đó là CUỘC SỐNG, VẺ ĐẸP,
TUỔI TRẺ, HỊA BÌNH, CHIẾN THẮNG và TỰ DO đƣợc hiểu theo nghĩa ẩn
dụ qua MÙA đƣợc áp dụng trong dữ liệu tiếng Việt.
Liên quan đến các loại ẩn dụ ý niệm, nghiên cứu cho thấy một số phát
hiện thú vị. Nhƣ đã đề cập trƣớc đó, liên quan đến MÙA đƣợc coi là miền
đích, hầu hết các phép ẩn dụ đƣợc tìm thấy là phổ quát. Tuy nhiên, trong
trƣờng hợp MÙA là miền nguồn ánh xạ lên các thực thể trừu tƣợng, các ẩn dụ
của MÙA ở đây là mới lạ trong cả hai ngôn ngữ. Trên thực tế, các nghiên cứu
liên quan đã thực hiện để khảo sát các ẩn dụ về mùa liên quan đến MÙA nhƣ
miền đích. Do đó, ban đầu, tác giả của nghiên cứu này có ý định khảo sát miền
đích MÙA đƣợc ánh xạ thơng qua các miền nguồn. Đáng ngạc nhiên, dữ liệu
phát hiện ra rằng MÙA đƣợc khai thác để miêu tả các thực thể khác, đặc biệt
là các miền trừu tƣợng. Nói cách khác, ý niệm hóa các thực thể trừu tƣợng
thơng qua miền MÙA chƣa đƣợc tìm thấy trong các nghiên cứu trƣớc đây,
ngoại trừ phép ẩn dụ MÙA LÀ TÌNH YÊU (Phan, et al. (2018). Do đó, 18 ẩn
dụ ý niệm, đƣợc tìm thấy trong nghiên cứu này, có thể đƣợc coi là những ẩn dụ
mới lạ.
Đáng chú ý là mặc dù MÙA có thể đƣợc sử dụng để diễn đạt các miền
trừu tƣợng khác nói chung, nhƣng mỗi mùa có xu hƣớng khai thác để ngụ ý
một số khái niệm nhất định. Đặc biệt, MÙA XUÂN và MÙA HÈ thƣờng đƣợc
sử dụng để ý niệm hóa các khái niệm tích cực, trong khi các khái niệm tiêu cực
dƣờng nhƣ đƣợc hiểu qua MÙA THU và MÙA ĐƠNG trong hai ngơn ngữ.
SỨC SỐNG, HY VỌNG hay TÌNH YÊU HẠNH PHÚC đƣợc thể hiện qua
MÙA XUÂN và MÙA HÈ. Cũng có thể hiểu đƣợc vì trong hai mùa có điều
kiện thuận lợi, sinh vật nói chung, con ngƣời nói riêng đều trải nghiệm những
điều tốt đẹp. Theo đó, mọi ngƣời sử dụng những mùa này để mơ tả những điều
tích cực. Ngƣợc lại, SỰ SUY TÀN, TÌNH U TAN VỠ, CƠ ĐƠN, NỖI
BUỒN, v.v., gắn liền với MÙA THU và MÙA ĐÔNG.
15
g
an
aN
cD
ho
ai
D
CHƢƠNG 6. KẾT LUẬN
6.1. Kết luận
Dƣới gó nhìn của CMT, 3175 biểu đạt ẩn dụ về mùa, 4105 lần xuất
hiện đã đƣợc xác định và thu thập từ 854 lời bài hát tiếng Anh và tiếng Việt.
Phân tích dữ liệu dựa trên các khung phân tích của Steen (2011) đề xuất.
Phƣơng pháp định tính của CMA đƣợc sử dụng để mã hóa dữ liệu theo cách
thủ cơng nhằm xác định các ẩn dụ về mùa. Sau đó, chúng đƣợc định lƣợng để
hỗ trợ quá trình so sánh và đối chiếu giữa hai ngơn ngữ. Từ q trình phân tích
dữ liệu, các phát hiện chính của nghiên cứu có thể đƣợc tóm tắt câu trả lời cho
câu hỏi nghiên cứu tổng thể nêu trên nhƣ sau:
Mục đích của nghiên cứu là xác định các ẩn dụ về mùa trong tiếng
Anh và tiếng Việt khi mùa đƣợc coi là miền đích và miền nguồn. Tổng cộng,
có 58 ẩn dụ về mùa đƣợc tìm thấy từ hai nguồn ngữ liệu, với 40 ẩn dụ về mùa
là miền mục tiêu và 18 ẩn dụ về ánh xạ mùa sang các miền khác. Đáng chú ý,
số ẩn dụ với MÙA là miền đích cao hơn nhiều so với số ẩn dụ khi MÙA đƣợc
coi là miền nguồn. Thực tế, THỜI GIAN đƣợc coi là miền đích trong các
nghiên cứu liên quan đến ẩn dụ ý niệm (Lakoff & Johnson, 1980; Evans, 2004;
Kövecses, 2005, 2010; Li, 2014; Walinski, 2014, v.v., ). Do đó, MÙA, một
khái niệm về thời gian, đƣợc nhận thức một cách ẩn dụ với ứng dụng rộng rãi
trong cả hai ngôn ngữ là điều dễ hiểu. Đồng thời, suy ra rằng việc tìm ra 18
phép ẩn dụ qua miền nguồn MÙA là tƣơng đối mới mẻ.
Ngồi việc tìm ra miền đích và miền nguồn, nghiên cứu còn phát hiện
ra những điểm giống và khác nhau trong cách ẩn dụ về MÙA giữa tiếng Anh
và tiếng Việt. Xét về mức độ khai thác ngôn ngữ, số liệu thống kê cho thấy
kho ngữ liệu tiếng Việt có nhiều biểu đạt ẩn dụ hơn tiếng Anh, lần lƣợt là 1717
và 1458. Tuy nhiên, về tần số, ngữ liệu tiếng Anh chiếm ƣu thế, với 2777 lần
xuất hiện, trong khi tiếng Việt có 2061 lần xuất hiện. Có thể suy ra rằng các
biểu thức ẩn dụ đƣợc lặp lại dày đặc trong lời bài hát tiếng Anh. Về miền, hai
ngôn ngữ chia sẻ 40 ẩn dụ khi coi MÙA là cả miền nguồn và miền đích. Đặc
biệt, đƣợc phân loại thành hai miền chính: thực thể động và thực thể vô tri, 30
miền nguồn giống nhau đƣợc tìm thấy. Hơn nữa, MÙA là miền đích ánh xạ lên
10 miền trừu tƣợng khác trong hai ngôn ngữ. Ngƣợc lại, nghiên cứu phát hiện
ra 8 miền phụ liên quan đến MÙA là miền đích và 2 miền phụ liên quan đến
MÙA là miền nguồn chỉ bằng tiếng Anh. Ngƣợc lại, có 4 miền nguồn và 6
miền đích đƣợc tìm thấy trong ngữ liệu tiếng Việt, nhƣng chúng khơng có
trong ngơn ngữ kia. Tóm lại, các miền nguồn và miền đích ánh xạ lên hoặc
đƣợc ánh xạ thơng qua thực thể MÙA đƣợc tổng hợp trong Bảng dƣới đây:
16
Bảng 6.1. Sơ đồ miền MÙA ánh xạ hoặc đƣợc ánh xạ
aN
cD
ho
ai
D
g
an
Kết quả của nghiên cứu phù hợp với tuyên bố của Lakoff (1993): “các
ánh xạ ẩn dụ khác nhau về tính phổ quát; một số dƣờng nhƣ phổ biến, một số
khác trải rộng và một số dƣờng nhƣ là thu hẹp theo văn hóa. " (tr.245). Tuy
nhiên, rõ ràng là khái niệm MÙA, nhƣ nó đƣợc thể hiện qua dữ liệu ngữ liệu,
đƣợc ý niệm hóa với độ phức tạp hơn nhiều so với luận điểm theo Lakoff về
các giả định CMT (Khajeh, 2013).
6.2. Thảo luận
6.2.1. Mức độ khai thác bốn mùa
Về việc MÙA đƣợc coi là miền đích, dữ liệu từ cả hai ngôn ngữ cho
thấy rằng MÙA đƣợc ý niệm hóa nhƣ là các thực thể vơ tri vô giác và thực thể
sống đồng đều trong bốn mùa, cụ thể là xn, hạ, thu và đơng. Nói cách khác,
số lƣợng các biểu đạt ẩn dụ hỗ trợ cho các ẩn dụ về mùa là miền đích là khá
bằng nhau trong phép ẩn dụ bốn mùa trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Mặc dù hầu hết các ẩn dụ khái niệm liên quan đến mùa nhƣ miền đích
đều có sẵn trong bốn mùa tƣơng đối nhƣ nhau, nhƣng khái niệm về mùa nhƣ
17
g
an
aN
cD
ho
ai
D
một miền nguồn lại khác nhau đối với mỗi mùa. Nó có nghĩa là mặc dù MÙA
có thể đƣợc sử dụng để diễn đạt các lĩnh vực trừu tƣợng khác nói chung, mỗi
mùa có xu hƣớng khai thác để ngụ ý một số khái niệm nhất định. Đặc biệt,
MÙA XUÂN và MÙA HÈ thƣờng đƣợc sử dụng để khái niệm hóa các khái
niệm tích cực, trong khi các khái niệm tiêu cực dƣờng nhƣ đƣợc hiểu qua
MÙA THU và MÙA ĐƠNG trong hai ngơn ngữ. Ví dụ, tình u SỨC SỐNG,
HI VỌNG hoặc HẠNH PHÚC đƣợc thể hiện qua MÙA XN và HÈ. Cũng
có thể hiểu đƣợc vì trong hai mùa có điều kiện sống tốt, sinh vật nói chung,
con ngƣời nói riêng đều trải qua những điều tốt đẹp. Theo đó, mọi ngƣời sử
dụng những mùa này để mơ tả những điều tích cực. Ngƣợc lại, SỰ SUY TÀN,
TÌNH YÊU TAN VỠ, SỰ CÔ ĐƠN, NỖI BUỒN v.v., gắn liền với MÙA
THU và MÙA ĐƠNG.
Ngồi những điểm tƣơng đồng đƣợc chia sẻ trong việc khai thác bốn
mùa cho phép ẩn dụ, hai ngơn ngữ cịn bộc lộ những điểm khác biệt. Thứ nhất,
về số lƣợng diễn đạt ẩn dụ, mùa hè đƣợc khai thác hiệu quả nhất trong tiếng
Anh; tuy nhiên, mùa thu đƣợc sử dụng nhiều nhất trong tiếng Việt. Trong khi
đó, mùa thu và mùa hè đƣợc sử dụng với tỷ lệ thấp nhất so với các mùa khác
trong dữ liệu tiếng Anh và tiếng Việt, điều này gây ngạc nhiên đáng kể cho tác
giả của nghiên cứu này vì kết quả khác với dự đốn và giả định mà nhà nghiên
cứu đã nghĩ trƣớc khi thu thập và xử lý dữ liệu. Cụ thể hơn, lúc đầu tác giả
nghĩ rằng mọi ngƣời sẽ sử dụng mùa xn để ý niệm hóa hầu hết trong cả hai
ngơn ngữ. Thứ hai, một số mùa đƣợc sử dụng để ý niệm các thực thể nhất
định, có thể áp dụng trong ngơn ngữ này, nhƣng khơng có trong ngơn ngữ kia,
và ngƣợc lại. Ví dụ: MÙA HÈ đƣợc sử dụng để nói về sự trƣờng tồn, MÙA
THU và MÙA ĐƠNG đƣợc sử dụng để diễn đạt khó khăn tồn tại trong tiếng
Anh. Ngƣợc lại, XUÂN đƣợc sử dụng để phản ánh vẻ đẹp, chiến thắng, tự do,
v.v., chỉ có trong dữ liệu tiếng Việt.
6.2.2. Mức độ khai thác loại ẩn dụ
Về các loại ẩn dụ ý niệm, phát hiện cho thấy một số loại ẩn dụ về mùa
chiếm ƣu thế trong cả hai ngôn ngữ. Dựa trên SIL International và Lakoff và
Johnson (1980a), Sandstrưm (2006) đã nhóm các kiểu ẩn dụ phụ thành một
kiểu ẩn dụ cao hơn. Đặc biệt, các ẩn dụ thông thƣờng bao gồm ẩn dụ bản thể,
ẩn dụ định hƣớng và ẩn dụ cấu trúc. Trong ẩn dụ bản thể học, vật chứa đựng,
ẩn dụ thực thể và ẩn dụ vật chất. Trên thực tế, những ẩn dụ này có mặt khắp
nơi trong hai khối liệu với một số lƣợng lớn các ẩn dụ ngôn ngữ. Ví dụ, MÙA
LÀ THỰC THỂ CỤ THỂ lần lƣợt có 152 và 137 biểu đạt bằng tiếng Anh và
tiếng Việt. Theo đó, có thể kết luận rằng trong điều kiện MÙA đƣợc coi là
18
g
an
aN
cD
ho
ai
D
miền đích, các ẩn dụ ý niệm về mùa chủ yếu là ẩn dụ phổ quát. Tƣơng tự, liên
quan đến phân cấp giản đồ (Kövecses, 2020), hầu hết các ẩn dụ đƣợc coi là
miền đích thuộc về mức giản đồ cao, cụ thể là lƣợc đồ hình ảnh và miền. Ví
dụ: các ẩn dụ khái niệm MÙA LÀ ĐỐI TƢỢNG CHUYỂN ĐỘNG, MÙA LÀ
VẬT CHỨA, MÙA LÀ VẬT ĐƢỢC CHỨA, MÙA LÀ KHƠNG GIAN, v.v.,
ở cấp giản đồ hình ảnh.
Mặt khác, trong trƣờng hợp MÙA là miền nguồn ánh xạ lên các thực
thể trừu tƣợng, các ẩn dụ về MÙA ở đây là mới mẻ trong cả hai ngôn ngữ.
Không giống nhƣ trƣờng hợp mùa là miền đích, ở đây hầu hết các phép ẩn dụ
đều ở mức giản đồ thấp, tức là khung và không gian tinh thần theo quan điểm
của lƣợc đồ Kưvecses (2020). Nói cách khác, những ẩn dụ này trở nên cụ thể
hơn. Trƣờng hợp này có thể đƣợc minh họa thơng qua một số ẩn dụ điển hình
nhƣ HY VỌNG LÀ XN, TÌNH U LÀ MÙA, CÔ ĐƠN LÀ MÙA, v.v.,
đƣợc hiểu và diễn giải chủ yếu dựa trên ngữ cảnh cụ thể nơi những ẩn dụ này
đƣợc tạo ra.
Rõ ràng là liên quan đến các loại ẩn dụ, nghiên cứu cho thấy những
phát hiện khác nhau, so với những nghiên cứu đã đề cập trƣớc đó. Cụ thể hơn,
bên cạnh các miền nguồn nhƣ CHUYỂN ĐỘNG, VẬT CHỨA, LỰC, TIỀN,
CON NGƢỜI v.v., cũng đƣợc tìm thấy trong nghiên cứu nói trên liên quan đến
việc khảo sát ý niệm về thời gian, nghiên cứu hiện tại cịn tìm ra thêm các
miền khác ánh xạ lên MÙA ví dụ: ÂM THANH, ÁNH SÁNG, CHẤT LỎNG,
CÂY, v.v. Đặc biệt, các miền đích đƣợc ánh xạ thơng qua MÙA đƣợc tìm thấy
ở đây gần nhƣ mới. Nói cách khác, điều đáng ngạc nhiên là liên quan đến
MÙA là miền đích, dữ liệu phát hiện ra rằng MÙA đƣợc khai thác để thể hiện
các thực thể khác, cụ thể là miền trừu tƣợng. Vì vậy, việc ý niệm hóa về các
thực thể trừu tƣợng thông qua miền MÙA đã khơng đƣợc tìm thấy trong các
nghiên cứu trƣớc đây, ngoại trừ phép ẩn dụ MÙA LÀ YÊU trong nghiên cứu
của Hồ Trịnh Quỳnh Thƣ (2018).
6.2.3. Cơ sở lí giải cho ẩn dụ
Một mục tiêu khác của nghiên cứu là đƣa ra những lý giải cho những
điểm tƣơng đồng và khác biệt này, dựa trên cơ chế hình thành ý niệm và cấu
tạo nhận thức của con ngƣời thông qua sự nghiệm than vật lý. Trong nghiên
cứu này, cơ sở lý luận cho hiện tƣợng dựa trên cơ sở về môi trƣờng vật chất,
và mơi trƣờng văn hóa xã hội, nơi mà hai ngôn ngữ chia sẻ sự giống nhau và
bộc lộ sự khác biệt.
19
g
an
aN
cD
ho
ai
D
6.2.3.1. Sự tương đồng
Trên thực tế, nghiên cứu hiện tại đã chứng minh rằng phép ẩn dụ về
MÙA đƣợc hình thành bởi các phản ứng tâm sinh lý của con ngƣời đối với
khái niệm thời gian này. Sự tƣơng đồng này là kết quả của nhận thức và khái
niệm chung về MÙA dựa trên trải nghiệm cơ thể phổ biến khi thời gian là một
trong những yếu tố cần thiết liên quan đến cuộc sống con ngƣời. Ví dụ, các ẩn
dụ MÙA LÀ VẬT CHỨA và MÙA LÀ VẬT ĐƢỢC CHỨA thƣờng gặp
trong hai ngôn ngữ. Trên thực tế, mỗi ngƣời trên khắp thế giới đều là một vật
chứa đựng khi ngƣời đó đƣợc bao bọc bởi lớp da của mình, do đó họ coi
những thứ khác nhƣ một vật chứa hoặc một vật đƣợc chứa đựng, điều này phù
hợp với khẳng định của Lakoff và Johnson (1980a) trong cuốn sách nổi tiếng
Ẩn dụ quanh ta.
Chúng ta là những sinh vật sống, bị ràng buộc và tách biệt khỏi phần
còn lại của thế giới bởi bề mặt da của chúng ta, và chúng ta trải nghiệm phần
còn lại của thế giới bên ngoài chúng ta. Mỗi chúng ta là một vật chứa, có bề
mặt bao bọc và hƣớng vào ra. Chúng ta phản ánh hƣớng vào-ra lên các thực
thể cụ thể khác đƣợc giới hạn bởi các bề mặt. Do đó, chúng ta cũng xem chúng
nhƣ những vật chứa có bên trong và bên ngồi.
Do đó, giản đồ hình ảnh vật chứa đƣợc sử dụng để ý niệm hóa MÙA
là phổ quát. Một trƣờng hợp khác minh chứng rằng tác động của mơi trƣờng
vật chất đến việc hình thành ẩn dụ nói chung, ẩn dụ về mùa nói riêng, phổ biến
trên khắp thế giới. minh chứng đƣợc thể hiện qua ẩn dụ MÙA LÀ SƠNG.
Dƣờng nhƣ hình ảnh những dịng sông hay con suối đã quá quen thuộc đối với
mọi ngƣời trên trái đất của chúng ta. Ngƣời ta mƣợn những hình ảnh này để
miêu tả mùa bằng sự liên tƣởng giữa dịng chảy của sơng với dịng chảy của
mùa. Khái niệm về mùa này phù hợp với nhận định của Evan: “… sự kiện
chuyển động đƣợc mô tả bởi từ chảy, đƣợc chứng minh bằng sự phổ biến ở
khắp nơi mà nó đƣợc ví nhƣ các dịng sơng, suối chảy nhƣ vốn có của nó'
(2005, tr. 145) khi ơng đề cập đến mối quan hệ của chuyển động giữa dịng
sơng và thời gian.
Ngồi ra, một số nghiên cứu (Barcelona, 1986; Kövecses, 2003;
Stefanowitsch, 2006; Polley, 2012) đã phát hiện ra các ẩn dụ HẠNH PHÚC
LÀ ÁNH SÁNG, và NỖI BUỒN LÀ TỐI. Các nƣớc phƣơng Tây và phƣơng
Đông, mặt trời chiếu sáng rực rỡ vào mùa xuân và mùa hạ, tuy nhiên vào mùa
thu và mùa đông, ánh nắng rất ít, nghĩa là trời thƣờng xám xịt và tối tăm. Đó
có thể là lý do tại sao mọi ngƣời liên kết cảm xúc tích cực với mùa xuân và
mùa hè, và cảm xúc tiêu cực với mùa thu và mùa đơng. Do đó, các ẩn dụ
20
g
an
aN
cD
ho
ai
D
HẠNH PHÚC LÀ XUÂN, và MÙA ĐÔNG LÀ NỖI BUỒN đƣợc phổ biến
trong cả hai ngữ liệu. Tóm lại, từ những diễn giải và giải thích cho một số ví
dụ trên, có thể rút ra một kết luận rằng những ngƣời có cùng mơi trƣờng vật
chất và văn hóa xã hội có thể có chung cách thức ý niệm hóa sự vật xung
quanh mình, đó là một trong những lý do dẫn đến sự phổ biến, phổ quát của
các ẩn dụ đƣợc đề cập trong các phần trƣớc.
6.2.3.2. Sự khác biệt
Sự khác biệt về môi trƣờng vật lý dẫn đến sự khác nhau ý niệm về
MÙA trong hai ngôn ngữ ở đây đƣợc hiểu là sự khác biệt về vị trí địa lý và khí
hậu. Có vẻ nhƣ điều kiện sống tự nhiên ảnh hƣởng đến cách con ngƣời tri nhận
về thế giới xung quanh họ. Ví dụ, MÙA HÈ LÀ ÁNH NẮNG có trong tiếng
Việt. Nguyên nhân có thể do ngƣời Việt Nam thuộc vùng có kiểu thời tiết khí
hậu nhiệt đới nên mùa này nắng gay gắt. Vì vậy, cách ngƣời Việt Nam trải
nghiệm mùa hè cũng giống nhƣ cách họ trải nghiệm cái nắng của mùa hè. Một
ẩn dụ khác nhƣ một minh chứng cho thấy môi trƣờng vật chất liên quan đến ẩn
dụ của con ngƣời, là MÙA ĐƠNG LÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TUYẾT, chỉ có thể
áp dụng trong tiếng Anh. Việc ý niệm hóa mùa đơng này có thể dựa trên đặc
điểm địa lý, một phần hình thành nên kiểu thời tiết. Cụ thể, nhiều nƣớc
phƣơng Tây, đặc biệt là các nƣớc Đông Âu, nằm trong khu vực có khí hậu lục
địa. Ngồi ra, có nhièu nơi có độ cao lớn so với mục nƣớc biển. Do đó, trời rất
lạnh và có rất nhiều tuyết rơi vào mùa đông ở các nƣớc này. Tuyết trở thành
một hình ảnh tƣơng đối quen thuộc trong tƣơng quan với thời điểm lạnh nhất
trong năm - mùa đông - đối với ngƣời phƣơng Tây. Ngƣợc lại, Việt Nam thuộc
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ ít khi dƣới 1 độ C nên tuyết hầu nhƣ
không xuất hiện ở quốc gia Đông Nam Á này, ngoại trừ một vài nơi vùng núi
cao ở các tỉnh phía Bắc nhƣ Lào Cai, Hà Giang có tuyết rồi vài lần. Có nghĩa
là ngƣời Việt Nam hầu nhƣ khơng nhìn thấy tuyết ngồi đời. Đó là lý do tại
sao ý niệm hóa tuyết này tồn tại trong dữ liệu tiếng Anh, nhƣng khơng tồn tại
trong dữ liệu tiếng Việt.
Bên cạnh đó, mơi trƣờng văn hóa xã hội là một yếu tố quan trọng ảnh
hƣởng đến nhận thức của con ngƣời. Những phân tích trƣớc về ẩn dụ trong
tiếng Anh và tiếng Việt chứng minh nhận định này. Cụ thể, MÙA LÀ TIỀN và
MÙA LÀ VẬT SỞ HỮU có trong tiếng Anh, nhƣng hồn tồn khơng có trong
dữ liệu tiếng Việt. Trên thực tế, các nƣớc phƣơng Tây có cơng nghiệp hóa với
nền kinh tế phát triển, vì vậy THỜI GIAN đối với họ là thứ có giá trị và đƣợc
coi là TIỀN và VẬT SỞ HỮU, đồng nhất với tuyên bố của Lakoff và Johnson
(1980a):
21
Thời gian trong nền văn hóa của chúng ta là một thứ hàng hóa có giá trị. Đó
là một nguồn tài nguyên hữu hạn mà chúng ta sử dụng để hồn thành mục tiêu của
mình. Bởi vì cách mà khái niệm cơng việc đã phát triển trong nền văn hóa phƣơng Tây
hiện đại, nơi mà công việc thƣờng gắn liền với thời gian và thời gian đƣợc định lƣợng
một cách chính xác.
g
an
aN
cD
ho
ai
D
Đồng thời, có thể giải thích tại sao những ẩn dụ này không đƣợc áp
dụng trong tiếng Việt. Mặc dù Việt Nam đang phát triển về kinh tế với sự xuất
hiện của các ngành công nghiệp, nhƣng không thể phủ nhận rằng Việt Nam là
một nƣớc đang phát triển, một nƣớc nơng nghiệp, thậm chí đầu thế kỷ 20 cịn
đƣợc gọi là nƣớc chậm phát triển. Do đó, khái niệm hàng hóa chƣa quen thuộc
với ngƣời Việt Nam, và họ không coi thời gian là thứ quý giá. Theo đó, họ
khơng liên tƣởng MÙA với TIỀN hoặc VẬT SỞ HỮU. Ẩn dụ XUÂN LÀ TỰ
DO / ĐỘC LẬP chỉ có trong ngữ liệu tiếng Việt. Bối cảnh xã hội tác động đến
việc ngƣời Việt tri nhận về MÙA. Trên thực tế, Việt Nam bị đô hộ trong một
thời gian dài. Nói cách khác, họ phải chịu sự thống trị của các nƣớc phƣơng
Tây. Vì vậy, ngƣời dân Việt Nam mong muốn có đƣợc tự do thốt khỏi sự
kiểm sốt của quốc gia khác. Theo đó, họ sử dụng mùa xuân biểu thị những
điều tích cực để thể hiện sự tự do mà họ mong muốn có đƣợc. Hình ảnh ẩn dụ
đƣợc tạo ra thông qua các biểu đạt trong các ca từ bài hát đƣợc viết trong thời
chiến tranh. Một trƣờng hợp khác cho thấy văn hóa đóng vai trị quan trọng
đối với nhận thức của con ngƣời. Đó là sự lựa chọn từ ngữ để ẩn dụ hóa MÙA
LÀCHUYỂN ĐỘNG. Cụ thể, về động từ chuyển động, đƣợc khai thác rất
thƣờng xuyên trong ngữ liệu tiếng Việt nhƣ đã thảo luận ở trên khi động từ VỀ
đƣợc định nghĩa là “chuyển trở lại chỗ của mình, nơi ở, nơi quê hƣơng của
mình”. Việc lựa chọn trở nên phổ biến đối với ngƣời Việt Nam có thể do Việt
Nam có nền kinh tế nơng nghiệp, làm nơng nghiệp là phƣơng thức sinh tồn
chính nên an cƣ lạc nghiệp là một suy nghĩ quen thuộc đối với ngƣời Việt
Nam. Do đó, động từ đƣợc sử dụng rộng rãi trong việc ý niệm hóa, bao gồm cả
ứng dụng cho ẩn dụ MÙA LÀ CHUYỂN ĐỘNG. Việc áp dụng phép ẩn dụ
này phản ánh tính cách hƣớng nội hơn của ngƣời Đơng Á, (Kövecses, 2005),
bao gồm cả Việt Nam, so với những ngƣời phƣơng Tây có vẻ hƣớng ngoại
hơn.
Kết luận, từ kết quả nghiên cứu có thể rút ra kết luận rằng MÙA là
một miền khá năng động trong ẩn dụ ý niệm khi nó có thể vừa là miền nguồn
vừa là miền đích. Ngồi ra, mơi trƣờng vật chất và văn hóa xã hội tham gia
vào việc cấu thành các ẩn dụ về mùa nhƣ đã phân tích ở trên.
22
an
aN
cD
ho
ai
D
6.3. Ứng dụng của luận án
Về cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp luận, nghiên cứu thực hiện theo
CMT do Lakoff và Johnson (1980a) đề xuất, đƣợc phát triển bởi Kövecses
(2005, 2010, 2020), kết hợp với lý thuyết mở rộng liên quan đến ẩn dụ ý niệm,
chẳng hạn nhƣ ý niệm hóa, phân loại, kết hợp v.v. Bên cạnh đó, nghiên cứu
xây dựng một phƣơng pháp nhận diện ẩn dụ và quy trình phân tích ẩn dụ bằng
cách kết hợp các phƣơng pháp khác nhau, cụ thể là MIP, MIPVU, CMA, FSM.
Do đó, những khung này dƣờng nhƣ có ý nghĩa cho các nghiên cứu ẩn dụ tiếp
theo áp dụng.
Về thực hành, kết quả của nghiên cứu này có thể hỗ trợ cho việc giảng
dạy, học tập và dịch thuật
Với sự hỗ trợ của phƣơng pháp nhận thức ẩn dụ ý niệm, giáo viên có
thể giúp ngƣời học nắm bắt đƣợc ẩn dụ. Đặc biệt hơn, giáo viên có thể sử dụng
phƣơng pháp giảng dạy ẩn dụ nhƣ một phƣơng pháp hữu ích cho học sinh, đặc
biệt là trong việc dạy thành ngữ, cụm động từ và cụm từ, một trong những khía
cạnh phức tạp trong ngơn ngữ nói chung và tiếng Anh và tiếng Việt nói riêng.
Đặc biệt, ngƣời Việt Nam học tiếng Anh hiểu đƣợc các phép ẩn dụ ý niệm
đồng nghĩa với việc họ nắm vững các thành ngữ và cụm từ trong tiếng Anh sẽ
dễ dàng hơn. Đồng thời, giúp ngƣời nƣớc ngoài học tiếng Anh học tiếng Việt
tốt hơn. Danesi từng tuyên bố rằng thông thạo về mặt ý niệm trong một ngôn
ngữ là biết ngơn ngữ đó phản ánh hoặc mã hóa các khái niệm của nó nhƣ thế
nào trên cơ sở cấu trúc ẩn dụ (1992b, tr.490).
Đối với các dịch giả, việc thông hiểu ẩn dụ là tƣơng đối quan trọng đối
với công việc của họ. Wallerstein từng tuyên bố:
g
Nếu một ngƣời đọc hiểu sai, ngƣời đó phải gánh chịu hậu quả. Nếu một
ngƣời dịch đọc sai, anh ta sẽ dẫn vô số ngƣời khác đi lạc hƣớng, tất cả đều phải gánh
chịu hậu quả (nhƣ trích dẫn trong Schaffner, 1997, tr.130).
Trên thực tế, ngƣời ta biết rằng ở đây ngƣời dịch không đƣợc yêu cầu
'tái tạo' các ánh xạ ẩn dụ của văn bản nguồn. Có nghĩa là vấn đề là việc của
chính ngƣời dịch (Polley, 2012). Do đó, ngƣời ta ngụ ý rằng ngƣời dịch khơng
nên bỏ qua cách giải thích ẩn dụ vì việc bỏ qua này có thể dẫn đến những kết
quả nghiêm trọng mà bản thân ngƣời dịch có thể phải chịu trách nhiệm nhƣ
tuyên bố của Schaffner ở trên.
Bên cạnh đó, những phát hiện của nghiên cứu có thể có ý nghĩa đáng
kể đối với ngƣời nghe và nhạc sĩ sáng tác. Cụ thể, nhờ sự thú vị của các ẩn dụ
trong lời bài hát, ngƣời nghe có thể thƣởng thức bài hát của họ tốt hơn; các
nhạc sĩ trẻ có thể viết lời bài hát hấp dẫn và sâu sắc hơn.
23