ĐẠI HỌC QUÔC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MAI TUYÊN
THỰC HIỆN VIỆC RA QUYẼT ĐỊNH MỚ THÚ TỤC PHÁ SÀN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP
Chuyên ngành: Luật kinh tê
Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC sĩ LUẬT HỌC
•
•
•
•
(Định hướng ứng dụng)
Người hu óng dẫn khoa học: TS. TRẦN ANH TỦ
HÀ NỘI - 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Trần Anh Tú.
Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu đó. Luận văn này chưa được ai cơng bổ
trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các sổ liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Trong q trình thực hiện, Luận vãn có tham khảo một sổ chuyên đề,
các bài viết liên quan và được trỉch dẫn đầy đủ, nguồn tài liệu trích dần được
liệt kê tại danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối của Luận văn.
•
•
•
•
l
•
Tác giả luận văn
Mai Tuyên
MỤC LỤC
•
•
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VÁN ĐÈ LÝ LUẬN cơ BẢN VÈ VIỆC RA
QUYẾT ĐỊNH MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN........................................ 8
1.1.
Khái quát về pháp luật phá sản và bản chất của thủ tục phá săn..... 8
1.1.1. Khái quát về pháp luật phá sản và thủ tục phá sản................................ 8
1.1.2. Bản chất của thù tục phá sản................................................................ 13
1.2.
Một số vấn đề lý luận về việc ra quyết định mỏ’ thủ tục phá sản....... 18
1.2.1. Khái niệm mở thủ tục phá sản và việc ra quyết định mở thủ tục
phá sản................................................................................................... 18
1.2.2.
Ý nghĩa của việc ra quyết định mở thủ tục phá sản............................ 19
1.3.
Nội dung pháp luật về việc ra quyết định mở thủ tục phá sản .... 24
1.3.1. Quyền yêu cầu ra quyết định mở thủ tục phá sản............................... 24
1.3.2.
Thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản.......................... 27
1.3.3. Căn cứ pháp lý của việc ra quyết định mở thủ tục phá sản................ 27
1.3.4.
Công bố thông tin về việc ra quyết định mở thủ tục phá sản............. 30
1.4.
Hệ quả pháp lý của quyết định mỏ’ thủ tục phá sản...................... 31
1.4.1.
Doanh nghiệp/Thương nhân mất khả năng thanh tốn có thế mất
quyền quản trị doanh nghiệp và sản nghiệp phá sản...........................31
1.4.2.
Hình thành thiết chế chuyên nghiệp quản trị sản nghiệp con nợ...........32
1.4.3. Các hành vi của con nợ bị kiếm soát.................................................. 33
1.4.4. Thiết lập Hội nghị chủ nợ để quyết định số phận con nợ.................. 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................. 35
Chương 2: THựC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÈ
VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN VÀ THựC
TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐÒNG THÁP.............36
2.1.
Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về việc ra quyết
định mở thủ tục phá sản.................................................................... 36
2.1.1. Căn cứ của việc ra quyết định mờ thù tục phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán.................................................... 37
2.1.2.
Thấm quyền của tòa án trong việc ra quyết định mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán..................... 41
2.1.3. Yêu cầu mở thủ tục phá sản và việc thụ lý yêu cầu mở thủ tục
phá sản:................................................................................................. 42
2.1.4. Hệ quà pháp lý của quyết định mở thủ tục phá sàn đối với Doanh
nghiệp, Hợp tác xã mất khả năng thanh toán...................................... 43
2.1.5. Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về
việc ra quyết định mở thủ tục phá sản.................................................45
2.2.
Thực trạng áp dụng pháp luật trong việc ra quyết định mở
thủ tục phá săn trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hiện nay................ 54
2.2.1. Khái quát về tỉnh Đồng Tháp.............................................................. 54
2.2.2. Thực trạng việc ra quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.... 56
2.2.3. Những hạn chê, vướng măc trong việc ra quyêt định mở thủ tục
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp....................................................................... 69
KÉT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 74
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC RA
QUYẾT ĐỊNH MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY NÓI CHUNG VÀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỊNG
•
•
THÁP NĨI RIÊNG............................................................................ 75
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật vê việc ra quyêt định mơ'
thủ tục phá sản....................................................................................75
3.2.
Một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về việc ra quyết
định mở thủ tục phá sản.................................................................. 76
3.2.1. về tên gọi của luật phá sản................................................................... 77
3.2.2. về tiêu chí xác định doanh nghiệp mất khả năngthanh toán.............. 77
3.2.3. về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản..................................78
3.2.4.
về nội dung đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và tài liệukèm theo
đơn yêu cầu........................................................................................... 78
3.2.5. về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tồ án nhân dân.................... 79
3.2.6. về tạm ứng chi phí phá sản.................................................................. 80
3.2.7. về một số nội dung khác trong q trình giải quyết vụ việc phá sân.... 80
3.3.
Một sơ giải pháp nhăm tăng cường hiệu quả việc ra quyêt
định
mở thủ tục
•
•>phá sản tại
• Việt
• Nam hiện
• nay
<7 nói chungo và
trên địa bàn tỉnh Đơng Tháp nói riêng............................................82
3.3.1. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật phá sản........................82
3.3.2.
Tăng cường năng lực và trình độ đội ngũ cán bộ tham gia giải
quyết phá sản........................................................................................ 83
3.3.3. Giải toả yểu tố tâm lý về phá sản......................................................... 85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................. 86
KẾT LUẬN....................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 89
PHỤ LỤC.......................................................................................................... 93
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN
: Doanh nghiệp
HTX
: Hợp tác xã
LPS
: Luật phá sản
PLPS
: Pháp luật phá sản
SXKD
: Sản xuất kinh doanh
TAND
: Tòa án nhân dân
TTPS
: Thủ tục phá sản
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Nen kinh tế thị trường ngày càng năng động, song song đó nhiều hiệp
định thương mại giữa các quốc gia trên thế giới đã được ký kết, thúc đẩy môi
trường kinh doanh ngày càng nhộn nhịp hơn. Sự cởi mở của nền kinh tế, sức
hút đổi với thị trường mở cửa với đa dạng ngành nghề, hàng hóa, dịch vụ ...
dẫn đến số lượng DN ngày càng nhiều, qua đó DN phải thể hiện được năng lực
cạnh tranh của mình cực kì tốt mới có khả năng tồn tại được trong thị trường.
Khi DN khơng cịn đáp ứng được những địi hởi khắt khe, nghiệt ngã
đó của thương trường, khơng đem lại hiệu quả kinh doanh... thì DN đó sẽ bị
đào thài.
Hoạt động đầu tư kinh doanh của DN luôn tiềm ẩn rủi ro, nhiều trường
hợp đầu tư thua lồ, DN mất khả năng trả nợ, không thể tiếp tục hoạt động,
buộc phải rút lui khỏi thị trường theo các hình thức giải thể hoặc phá sản. Ớ
các nước phát triển, các DN sử dụng giải pháp phá sản đế rút lui khởi thị
trường một cách có trật tự, đồng thời cũng là cơ hội đế làm lại từ đầu.
Đe loại bò những DN làm ăn thua lồ kéo dài, mất khả năng thanh tốn
các khoản nợ đến hạn, đồng thời phịng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi
ro mà những DN này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều phải
xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Phá sản là hiện tượng
kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu quả của nó khơng chỉ
ảnh hưởng đến bản thân DN và những người lao động trong DN mà còn tác
động lớn đến các chù thể khác là chù nợ, đổi tác và các thành phần khác
trong nền kinh tế tùy vào quy mô của DN phá sản. Nhà nước, thơng qua
PLPS để can thiệp vào q trình giải quyết TTPS, nhằm giãi quyết xung đột
lơi ích của các chủ thể đó.
1
Đại hội đại biêu tồn qc lân thứ VI của Đảng thành công tôt đẹp đã
mở ra trang sử mới của dân tộc, từ nền kinh tế tập trung, bao cấp chuyển sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đội ngũ doanh nhân phát
triển và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước, đời sống người
dân được nâng cao.
Hiện nay, tình hình dịch bệnh do vi rut SARS - CoV2 gây ra không chỉ
làm ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người dân, mà nó cịn có khả năng
gây ra cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính tồn cầu. Trong đó, các DN, HTX
của Việt Nam bắt đầu gặp những khó khăn và nguy cơ mất khả năng thanh toán.
Đồng thời, với yêu cầu hội nhập với nền kinh tế thế giới và tăng khả
năng cạnh tranh của Việt Nam trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam cần phải xây
dựng một hệ thống pháp lý để có thể điều chỉnh các mâu thuẫn hay giài quyết
các nhu cầu phát sinh từ các Doanh nghiệp trong nền kinh tế một cách khả thi,
hiệu quả nhất, đồng thời phải phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế.
Tại kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa IX đã thơng qua LPSDN ngày
30/12/1993 và có hiệu lực ngày 1/7/1994. Tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khố
XI thơng qua LPS 2004, có hiệu lực từ ngày 15/10/2004 thay thế LPSDN
1993. Tuy nhiên, trong hơn mười năm thực hiện, LPS năm 2004 đã bộc lộ
nhiều khiếm khuyết. Tại kỳ họp thứ bảy Quốc hội khoá XIII đã thông qua
LPS năm 2014. Mục tiêu của LPS năm 2014 là hạn chế thấp nhất hậu quả do
phá sản gây ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần ốn
định trật tự kinh tế xã hội. LPS còn tạo cơ hội cho DN phục hồi hoạt động
•
•
•
•
•
•
JL
•
•
•
kinh doanh, nhằm trở lại trạng thái hoạt động ban đầu. Đây là sự tiến bộ
không chỉ về mặt pháp luật mà cịn dưới góc độ kinh tế - xã hội của pháp luật
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói, LPS 2014 đã có bước phát
triển và đạt được những kết quả quan trọng, góp phần khắc phục những bất
cập, hạn chế về thủ tục giải quyết các vụ việc phá sản theo quy định của LPS
2
2004, tạo hành lang pháp lý đê Tòa án giải quyêt nhanh việc phá sản của
các DN, HTX lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành thời gian qua cho thấy, bên cạnh những
mặt tích cực thì LPS 2014 cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định.
Nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và hoàn thiện về
PLPS đặc biệt là thực hiện việc ra quyết định mở TTPS ở Việt Nam hiện nay,
tác giả đã chọn đề tài “Thực hiện việc ra quyết định mở thủ tục phá sản trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp ” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
pháp luật về phá sản và thực hiện ra quyết định mở TTPS trên địa bàn tỉnh
Đồng Tháp. Tiến hành thu thập tài liệu, nghiên cứu từ thực tiễn giải quyết phá
sản trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, tìm ra những vướng mắc, tồn tại, bất cập,
nguyên nhân tồn tại của việc tố chức thi hành pháp luật về giải quyết việc ra
quyết định mở TTPS tại địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số kiến nghị hồn thiện PLPS và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về việc
ra quyết định mở thủ tục phá sản trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
2.2. Mục tiêu cụ thể
•
•
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về ở TTPS như: khái niệm mở TTPS;
nội dung, căn cứ và hệ quả pháp lý của việc mớ TTPS, khái niệm ra quyết
định mở TTPS; và các vấn đề pháp lý có liên quan khác;
- Tìm hiếu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về mở
TTPS ở Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói riêng trong
thời gian qua:
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về việc ra quyết định mở TTPS ở Việt
Nam nói chung cũng như trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
3
3. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định pháp luật hiện
hành về việc ra quyết định mở TTPS ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp
dụng các quy định này tại TAND tỉnh Đồng Tháp.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu của luận văn này là các vấn đề lý luận,
thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về việc ra quyết định mở
TTPS ở tỉnh Đồng Tháp. Bên cạnh đó, để việc tiếp cận vấn đề được tồn diện,
có hệ thống, đề tài cũng nghiên cứu, liên hệ, so sánh với pháp luật về mở
TTPS của một số quốc gia trên thế giới.
về thời gian, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong giai đoạn từ năm
1993 (khi LPSDN đầu tiên cùa Việt Nam được ban hành) cho đến nay.
4. Tình hình nghiên cứu
So với lịch sử lâu đời của PLPS thế giới thì PLPS của Việt Nam cịn rất
non trẻ. Vì vậy từ hơn một thập kỷ trở lại đây, các nghiên cứu về PLPS nói
chung và vấn đề mở TTPS nói riêng chưa thật sự mạnh mẽ và sâu rộng như
nhiều lĩnh vực nghiên cứu truyền thống khác. Tuy nhiên, do những áp lực đặt
ra trong việc xây dựng và hoàn thiện PLPS trong một nền kinh tế chuyển đổi,
đặc biệt là trong xu thế hội nhập quốc tế, các hoạt động nghiên cửu về PLPS
nói chung và vấn đề mở TTPS nói riêng đã có những bước tiến quan trọng, và
vấn đề phá sản đang thực sự là một chủ đề có vị trí nhất định trong nghiên
cứu khoa học pháp lý hiện nay.
Qua khảo sát các cơng trình nghiên cứu, tác giả có thế đi đến nhận định
về tình hình và các xu hướng nghiên cứu pháp luật về mở TTPS như sau:
Một là, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về PLPS nói chung, trong đó
có vấn đề mờ TTPS. Thuộc về loại này có các cơng trình tiêu biểu như: Đề tài
cấp Bộ năm 2008 “Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hồn thiện mơi
trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam ” của PGS.TS Dương Đăng Huệ và
thạc sĩ Nguyễn Thanh Tịnh làm chủ biên; Đặc san tuyên truyền pháp luật Việt
4
Nam sô 9/2014 với chủ đê “Pháp luật phá sản tại Việt Nam, một sô vân đê lỷ
luận và thực tiễn” do Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung
ương biên soạn; Luận án tiến sỹ luật học của Dương Kim Thế Nguyên, 2015,
“Thủ tục phá sản các tồ chức tín dụng theo pháp luật Việt Nam”; Luận văn
thạc sĩ “Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ theo pháp luật phá sản Việt Nam” của tác giả Trần Thị
Thu Hà, bảo vệ năm 2019 tại Học viện khoa học xã hội; Luận văn thạc sĩ “
Thủ tục phá sản theo pháp luật Việt Nam, thực tiễn tại Quảng Trị” cúa tác giả
Trần Văn Phương, bảo vệ năm 2019 tại Trường Đại học Luật, Đại học Huế ...
Nội dung chủ yếu của các cơng trình này chủ yếu phân tích đánh giá về
PLPS của Việt Nam trên các phương diện: vị trí, vai trị; nội dung cơ bản của
PLPS của Việt Nam... và qua đó cũng đã đề cập ở mức khái quát các vấn đề
liên quan đến mở TTPS ở Việt Nam.
Hai là, do là lĩnh vực pháp luật cịn non trẻ nên đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về PLPS của nước ngoài, so sánh giữa PLPS của Việt Nam với
PLPS của một số quốc gia trên thế giới. Thuộc về loại này có các cơng trình
tiêu biểu như: Viện Nghiên cứu khoa học Thị trường giá cả (1990), "Luật phả
sản của Trung Quốc và một sổ nước Tây Ầu", Hà Nội; "LPS của Hoa Kỳ" của
TS. Bùi Nguyên Khánh trong cuốn Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật
(2002), Bước đầu tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội; “Pháp luật phả sản Việt Nam và Pháp luật phả sản ức: những nét
tương đồng và khác biệt” của TS. Dương Đăng Huệ, Tạp Chí Luật Học,
Trường Đại Học Luật Hà Nội, số 03/1995; “Luật phá sán doanh nghiệp Việt
Nam dưới góc độ luật so sảnh và phương hướng hoàn thiện”, Luận án tiến sỹ
luật học của Trương Hồng Hải, 2004; “Luật phả sản của Việt Nam và Luật
phá sản của cộng hòa Pháp - những nét tương đồng và khác hiệt”, ...
Đến nay, các hoạt động nghiên cứu về PLPS nói chung và vấn đề mở
TTPS nói riêng đã có những bước tiến quan trọng song chưa đáp ứng yêu
5
câu, thúc đây sự phát triên kinh tê thị trường ở Việt Nam. Có thê khăng định
rằng, quy định pháp luật về mờ TTPS theo PLPS ờ Việt Nam vẫn tiếp tục là
vấn đề gây tranh luận và cần được hoàn thiện trong những lần sửa đổi, xây
dựng LPS tiếp theo.
5. Cơ sở lý thuyết, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong quá
trình nghiên cứu đề tài bao gồm: Phương pháp luật học so sánh, phương pháp
phân tích, tổng hợp, phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp dự
báo qua những tài liệu thứ cấp, phương pháp phân tích kinh tế - luật .... sẽ
được tác giả tìm hiểu, tiếp cận và vận dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
Đe giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra trong từng chương của Luận
văn, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng như sau:
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thơng qua phân tích, tổng hợp tư
liệu, phương pháp luật học so sánh, phương pháp tiếp cận hệ thống được sử
dụng chủ yếu trong Chương 1 nhằm làm sáng tỏ tổng quan các vấn đề nghiên
cứu có liên quan đến đề tài luận văn, những vấn đề lý luận chung về ra quyết
định mở TTPS và định hình cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu trực tiếp thông qua khảo sát thực tế, được sử
dụng nhằm đánh giá thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật ra quyết định
mở TTPS tỉnh Đồng Tháp trong thời gian qua. Phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá những vấn đề nảy sinh trong thực
tiễn áp dụng pháp luật về ra quyết định mở TTPS tại Chương 2.
- Phương pháp phân tích và dự báo khoa học, phương pháp tiếp cận hệ
thống được sử dụng chủ yếu trong việc xác định quan điểm, mục tiêu, đề xuất
giải pháp hoàn thiện pháp luật về ra quyết định mở TTPS tại Chương 3.
Bên cạnh đó phương pháp luật học so sánh, phương pháp phân tích
kinh tế - luật được sữ dụng rộng rãi trong các cơng trình nghiên cứu này cũng
6
những kêt quả nghiên cứu thu được cũng được tác giả kê thừa, phát triên
trong quá trình giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu cùa đề tài, đặc biệt trong việc
khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về ra quyết định mở TTPS.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đây là cơng trình nghiên cứu pháp luật về ra quyết định mở TTPS ở
Việt Nam, dưới góc độ lý luận và góc độ thực tiễn. Thơng qua Luận văn, tác
giả đưa ra những nhận định, đánh giá pháp luật về ra quyết định mở TTPS ở
Việt Nam hiện nay, đề xuất các kiến nghị trước hết là để hoàn thiện pháp luật
về ra quyết định mở TTPS và sau đó là nâng cao hiệu quá áp dụng trong thực
tiễn hoạt động của các toà án, các DN ở Việt Nam.
về mặt khoa học và thực tiễn, khố luận có những đóng góp:
(1) Luận văn phân tích, đánh giá tồn bộ quy định pháp luật về ra quyết
định mở TTPS ở Việt Nam.
(2) Quá trình nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng, Luận văn đã
đưa ra những giải pháp nham hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật ra quyết định mở TTPS ở Việt Nam nói chung và trên
địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
7. Kết cấu của Khố luận
Ngồi phàn Mở đầu, Ket luận chung, Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn bao gồm 03 chương với nội dung:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về việc ra quyết dịnh mở thủ
tục phá sản.
Chương 2\ Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về việc ra quyết
định mở thủ tục phá sản và thực tiễn thi hành trên địa bàn Tỉnh Đồng Tháp.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về việc ra quyết định mở thủ tục phá sản
ở Việt nam hiện nay nói chung và trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói riêng.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN cơ BẢN VỀ VIỆC RA QUYẾT ĐỊNH
MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Khái quát về pháp luật phá săn và bản chất của thủ tục phá săn
1.1.1. Khái quát về pháp luật phá sản và thủ tục phá sản
ỉ. 1.1. ỉ. Khái niệm phá sản
DN theo định nghĩa tại LDN thì nó là một tổ chức kinh tế, có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh để tìm
kiếm lợi nhuận. Theo các nhà kinh tể, thì DN có chu kỳ vịng đời bao gồm các
giai đoạn như sau: Khởi nghiệp, xây dựng, tăng trưởng, trưởng thành và sau
trưởng thành. Giai đoạn cuối cùng của chu kỳ vòng đời DN bao gồm 03 khả
năng có thể xảy ra: Làm mới lại'. Những lĩnh vực tăng trưởng mới làm tăng
doanh thu và lợi nhuận; Trạng thái ổn định: Duy trì trì trạng thái trưởng thành
liên tục; Suy thoái: Lợi nhuận bắt đầu giảm do quản lý kém; thường báo hiệu
bằng dấu hiệu của doanh thu giảm, chi phí tăng.
Một nhà quản trị DN thành cơng là phải có bước chuẩn bị đế đối phó
với giai đoạn sau trưởng thành. Neu nhà quản trị khơng đảm đương được thì
tất yếu DN phải đi đến hồi suy thối. Với chu kỳ vịng đời này thì có thể việc
suy thối dẫn đến phá sản có thể xảy ra với bất kỳ DN nào khơng có bước
chuẩn bị đầy đủ để vượt qua giai đoạn sau trưởng thành.
Với đích đến là suy thối thì phá sản ln là một hiện tượng tất yếu
trong nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình
cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kế đó
là nền kinh tế thị trường phát triển ờ các nước trên thế giới hay nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
8
Phá sản là một hiện tượng phát sinh từ rất sớm thực tiễn hoạt động
thương mại. về mặt học thuật, phá sản là một thuật ngữ gây khá nhiều tranh
luận về xuất xứ của nó.
Nhiều học giả cho rằng, thuật ngữ phá sản bắt nguồn từ chữ “Ruin”
trong tiếng Latin có nghĩa là sự “khánh tận” [14, tr. 337],
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng, Thuật ngữ phá sản được diễn
đạt bang từ "bankruptcy" hoặc "banqueroute" mà nhiều người cho rằng từ
này bắt nguồn từ chữ "Banca Rotta" trong tiếng La Mã cổ, trong đó banca có
nghĩa là chiếc ghế dài, cịn rotta có nghĩa là bị gãy. Banca rotta có nghĩa là
"băng ghế bị gãy" [13],
Điều này có cơ sở là một tập quán thương mại, từ xa xưa, các thương
nhân La Mã thường họp với nhau đe xem xét các khía cạnh kinh doanh của
từng cá nhân, trong một diễn đàn gọi là “đại hội thương gia”', người nào
không trả được nợ thường bị bắt làm nô lệ, đồng thời mất luôn quyền tham
gia đại hội. Chiếc ghế của người “vỡ nợ”, theo đó, sẽ bị đem ra khỏi hội
trường. Vì vậy, người La Mã khi xưa mới dùng thuật ngữ bóng bẩy “chiếc
ghế bị gãy” đế ám chi người “phá sản” và khơng cịn quyền lợi gì, hay người
mất vị thế trong các đại hội thương gia [10, tr. 4],
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa từ “phá sản” là lâm vào tình trạng
tài sản khơng cịn gì và thường là vỡ nợ do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại; “vỡ
nợ” là lâm vào tình trạng bị thua lồ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải
bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả nợ [19, tr. 1437], Do đó, có thể hiểu,
khái niệm phá sản là để chỉ cho một sự việc đã xảy ra rồi, sự việc bị thua lồ
•
X
•
•
•
J
7
•
•
•
phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ trả nợ.
Theo Từ điển Luật học định nghĩa phá sản là tình trạng một chủ thể (cá
nhân, pháp nhân) mất khả năng thanh toán nợ đến hạn [33]. Theo cách hiểu
này, khái niệm phá sản là xác định một chủ thể bị lâm vào tình trạng mất khả
9
năng thanh tốn. Nói cách khác, “phá sản” được hiêu tương đương với “mât
khả năng thanh toán”.
Theo Điều 864 của Bộ luật Thương mại năm 1972 của Việt Nam Cộng
hòa “Thương gia ngưng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái
chủ, bị toà tuyên án khánh tận". Điều 1008 Bộ luật Thương mại năm 1972
quy định “Những thương gia ở trong tình trạng khánh tận hay thanh toán tư
pháp sẽ bị truy tổ về tội phả sản đơn thường hay phá sản gian trả tùy theo các
trường họp được dự liệu tại các điều kế tiếp". Theo quy định này có thể hiểu
“khánh tận là tình trạng một thương gia đã ngưng trả nợ” và được hiểu tương
đương như khái niệm “mất khả năng thanh toán”. Trong khi đó, khái niệm
“phá sản” được hiểu rằng đây là một loại tội phạm [38].
Trong tiếng Anh, khái niệm phá sản và mất khả năng thanh toán được
diễn đạt dưới những thuật ngữ bankruptcy, insolvency. Hai thuật ngừ này có
khi được sử dụng như là những từ đồng nghĩa. Có tác giả cho rang, insolvency
là khái niệm liên quan đến tình trạng tài chính, trong khi đó bankruptcy lại là
khái niệm thuần tuý pháp lý [38],
Ớ Hoa Kỳ, thuật ngữ bankruptcy được sử dụng cho cả TTPS áp dụng
cho cá nhân hoặc DN. Ttrong pháp luật cùa Anh, bankruptcy là để chì cho
TTPS cá nhân cịn đối với phá sản các Cơng ty thì thuật ngữ được sử dụng là
insolvency [38],
Trong pháp luật Việt Nam, cả LPS DN năm 1993 và LPS năm 2004
đều không đưa ra định nghĩa về phá sản mà sử dụng khái niệm "lâm vào tình
trạng phá sản", "DN đang lãm vào tình trạng phá sản là DN gặp khó khăn
hoặc bị thua lồ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp
tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn ” [20]; [21].
LPS năm 2014 đã đưa ra một định nghĩa pháp lý về phá sàn, theo đó,
“Phả sản là tình trạng của DN, HTX mất khá năng thanh toán và bị TAND ra
10
quyêt định tuyên bô phá sản” [22], Khái niệm này đã tiêp cận phá sản dưới
góc độ là một quyết định của tịa án chứ khơng phải là q trình (thù tục) ban
hành ra quyết định đó.
Như vậy, từ các phân tích trên đây có thế thấy về mặt pháp lý, khái
niệm “phá sản” có thể được hiểu theo hai khía cạnh sau đây:
Một là, phá sản là tình trạng một tổ chức kinh doanh bị mất khả năng
thanh toán và bị cơ quan nhà nước (thơng thường là tịa án) ra quyết định tuyên
bố phá sản. Hậu quả của quyết định này là sự chấm dứt hoạt động của DN [38],
Hai là, phá sản là thủ tục pháp lý liên quan đến một tổ chức kinh doanh
để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh tốn của tổ chức đó [38], Thủ tục
pháp lý này được quy định bởi pháp luật, được tiến hành từ khi có dấu hiệu tố
chức kinh doanh đó lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn và q trình
giải quyết tình trạng mất khả năng thanh tốn mà có thể đưa đến những hệ
quả khác nhau là phục hồi tổ chức kinh doanh hoặc thanh lý tài sản và chấm
dứt hoạt động của tổ chức kinh doanh.
1.1.1.2. Khái niệm TTPS
Theo tự điển tiếng Việt, thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật
tự quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức [19, tr. 1234],
Theo Nguyễn Văn Thâm và Võ Kim Sơn, thủ tục có nghĩa là phương thức hay
cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định [30, tr. 11], Do đó có
thể hiểu, TTPS là trình tự, cách thức để tiến hành giải quyết việc phá sản theo
quy định pháp luật.
Phá sản là một hiện tượng có tính khách quan, mang tính quy luật trong
nền kinh tế thị trường. Khi xảy ra tình trạng phá sản, Nhà nước phái tham gia
giải quyết việc phá sản, cơ quan nào đứng ra giải quyết việc phá săn này thì
do Nhà nước quy định.
Hầu hết các nước có LPS, TTPS đổi với các DN mất khả năng thanh
11
tốn được tiên hành bởi tịa án, Việt Nam cũng quy định do Tòa án tiên hành.
Trong các tài liệu khoa học pháp lý hiện nay của Việt Nam đều cho ràng,
TTPS là thủ tục tư pháp bởi vì nó được tiến hành bởi tòa án [9, tr. 142],
Theo giáo trình Luật Kinh tế của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản
năm 2000 thì TTPS là “một thủ tục thuần túy tư pháp, do tịa án có thẩm
quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của PLPS” [14, tr. 342], Quan
niệm TTPS là thủ tục thuần túy tư pháp là khơng hồn tồn chính xác, bởi lẽ
thủ tục tư pháp chính là thủ tục thực hiện quyền tư pháp, một trong ba nhánh
quyền lực. Quyền tư pháp là quyền xét xử và vì vậy, thủ tục tư pháp thuần
túy là thù tục xét xử các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Có lẽ vì lý do
này mà trong giáo trình Luật Thương mại cũng của chính Trường Đại học
Luật Hà Nội xuất bản sáu năm sau chi giữ lại quan điểm là TTPS là thủ tục tư
pháp mà khơng cịn cụm từ thuần túy nữa và hướng lý giải cho quan điểm
TTPS là thủ tục tư pháp của các tác giả giáo trình này “là hoạt động do cơ
quan nhà nước duy nhất là tòa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy
định chặt chẽ của PLPS” [32, tr. 350], Cũng theo cách lý giải tương tự,
sách Luật Kinh tế Việt Nam do Lê Minh Toàn chủ biên cũng cho rằng “TTPS
do cơ quan có thẩm quyền duy nhất là tịa án và vì vậy về cơ bản TTPS là một
thủ tục được diễn ra theo một trinh tự tư pháp”. Tác giả này nhấn mạnh rằng
“đáng lưu ý là TTPS là thủ tục tư pháp đặc biệt vì phá sản DN về bản chất
khơng phải là một vụ án và do đó nó không được thụ lý đế xét xử như một vụ
án thông thường” [36, tr. 542],
Trong trường hợp phá sản một số tổ chức đặc biệt, trong đó có tổ chức
tín dụng, thì tại một số nước, Tịa án khơng được giao để giải quyết vụ việc phá
sản. Vậy liệu rằng TTPS có cịn là thủ tục tư pháp hay khơng? Chúng tôi cho
rằng, không thể xem TTPS là thủ tục tư pháp nếu cơ quan tiến hành thù tục này
không phải là tịa án. Điển hình cho quốc gia khơng thực hiện việc phá sản
12
ngân hàng thương mại theo thủ tục tư pháp là Hoa Kỳ và Canada [38]. Tại các
quốc gia này, TTPS ngân hàng thương mại được tiến hành bởi cơ quan bào
hiểm tiền gửi và là thủ tục hành chính.
Một quốc gia điển hình cho việc hành chính hóa TTPS ngân hàng
thương mại là Anh. Cho đến trước năm 2009, việc giải quyết phá sản các
ngân hàng ở Anh đều chỉ tuân thủ theo LPS năm 1986 vì người Anh quan
niệm rằng phá sản là thủ tục tư pháp nhằm xét xử hành vi của người bị phá
sản. Tuy vậy, sau cuộc khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ và châu Âu năm
2008, nước Anh đã bổ sung chế độ giải quyết đặc biệt đối với các ngân hàng
mất khă năng thanh toán. Chế độ này được thực hiện với vai trò quan trọng
của cơ quan quản lý ngành ngân hàng và thực hiện theo thủ tục hành chính.
Chỉ khi thủ tục áp dụng chế độ đặc biệt (SRR) không thành cơng thì mới
chuyển sang thủ tục thanh lý tại tịa án [38],
Theo phân tích trên, thì thủ tục phá sản, theo pháp luật một số quốc gia
bắt đầu từ thủ tục hành chính (xem xét tình trạng mất khả năng thanh tốn)
trước rồi sau đó mới đến Tịa án thụ lý giải quyết, có quốc gia thì do Tịa án
thụ lý giải quyết từ khi mất khả năng thanh toán. Do đó, theo tác giả thì đây
chính là một thủ tục tư pháp đặc biệt.
Tóm lại, TTPS có thể được định nghĩa khái quát là thú tục tư pháp đặc
biệt quy định trình tự, cách thức, phương thức để giãi quyết việc phá săn theo
quy định pháp luật.
1.1.2. Bản chất của thủ tục phá sản
ỉ. ỉ.2.1. TTPS là một thủ tục địi nợ tập thể
•
*
•
* ỉ.
Hoạt động SXKD của các DN diễn ra hàng ngày, hoạt động đó yêu cầu
phải đăm bảo được bảng cân đối tài sản - nguồn vốn, để đăm bảo được bảng
cân đối này, các DN đã thực hiện các nghiệp vụ đầu tư, huy động vốn, mua
bán hàng hóa, dịch vụ ... . Các hoạt động này diễn ra liên tục, phát sinh nhiều
13
hình thức thanh tốn, trong đó có thanh tốn ngay, thanh toán trả chậm ...
Việc huy động vốn, chậm thanh tốn có thể được bảo đảm bằng tài săn hoặc
khơng có bảo đảm bằng tài sản của DN này. Khi rủi ro trong kinh doanh xảy
ra có thể dẫn đến việc khơng kịp thời thanh tốn các khoản nợ và có thể dẫn
đến khơng thể thanh tốn được các khoản nợ. Chủ nợ tiến hành ngay các biện
pháp cần thiết theo quy định pháp luật để đòi nợ:
+ Đối với các khoản nợ có bảo đảm thì chủ nợ có quyền yêu cầu xử lý
tài sản bảo đảm đế thu hồi nợ.
+ Đối với khoản nợ khơng có bảo đảm thì chủ nợ khởi kiện để yêu cầu
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tịa án, Thi hành án dân sự) tiến hành
cưỡng chế bán tài sản của DN đế thu hồi nợ.
Khi phải giải quyết mối quan hệ nợ nần giữa một con nợ với nhiều chủ
nợ, ở trạng thái mà sản nghiệp còn lại của con nợ khơng cịn đủ để thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ với tất cả các chủ nợ, thì thủ tục dân sự đã thể hiện một số
những khiếm khuyết như [31]:
Th ứ nhất, nếu sử dụng thủ tục lấy nợ dân sự trong trường hợp một con
nợ• có nhiều chủ nợ• thì sẽ có sự• xuất hiện
• đồng thời của nhiều vụ• kiện
• dân sự•
trên thực tế và điều này dẫn đến hệ quả là sự quá tải của hệ thống tòa án, cũng
như chi phí địi nợ lớn cũng sẽ làm mất đi một phần sản nghiệp vốn đã hạn
hẹp của con nợ [31 ], trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ;
Thứ hai, thủ tục dân sự chỉ cho phép chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của
mình khi khoản nợ đã đáo hạn. Vì vậy khi các khoản nợ không đáo hạn cùng
một lúc sẽ dẫn đến tình trạng “lo âu” của các chủ nợ có các khoản nợ đáo hạn
sau khi mà họ nhìn thấy sản nghiệp của con nợ đã khơng cịn hoặc cịn rất ít
và chắc chắn sẽ khơng đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh tốn đổi với mình.
Ngay cả khi các khoản nợ đáo hạn cùng một lúc thì theo thù tục dân sự, cơ
quan tài phán cũng chỉ có thế ra phán quyết buộc con nợ có nghĩa vụ phải
14
thanh tốn, khơng thê giải qut thỏa đáng vân đê con nợ khơng cịn khả năng
thực hiện đồng thời tất cà các nghĩa vụ tài sán của mình [31],
Trong trường hợp, DN mất khả năng thanh tốn có nhiều chủ nợ và tài
sản còn lại của DN mất khả năng thanh tốn khơng đủ thanh tốn cho tất cả
các chủ nợ này thì việc địi nợ một cách trực tiếp theo cách thức vừa nêu trên
không được đảm bào hết các quyền lợi của tất cả các chủ nợ, không đem lại
trật tự nhất định trong việc đảm bảo công bằng cho các chủ nợ, khơng tối đa
hóa giá trị tài sản còn lại của DN mắc nợ. Bởi các lý do:
Thứ nhất, chỉ những chủ nợ nào thực hiện địi nợ thơng qua con đường
con đường Tịa án, Thi hành án trước thì được ưu tiên thanh tốn trả nợ trước,
cịn những chủ nợ khơng thực hiện việc khởi kiện kịp thời sẽ khơng được
thanh tốn trước đối với những tài sản còn lại của DN mắc nợ. Do đó, dẫn đến
việc tranh đua giữa các chủ nợ trong q trình thu hồi nợ dẫn đến chi phí thu
hồi nợ cao trong q trình địi nợ (Chi phí theo dõi việc đòi nợ của các chủ nợ
khác với con nợ, chi phí mua những thơng tin cần thiết phục vụ cho việc địi
nợ thành cơng...) [38].
Thứ hai, việc địi nợ riêng lẻ dẫn đến các chủ nợ cùng xâu xé DN nham
mục đích lấy được nợ hoặc được một phần tài sản nào đó, ảnh hưởng lớn đến
việc tái cơ cấu lại DN do DN mất khả năng thanh tốn tự mình thực hiện để kịp
thời khắc phục nhằm hồi phục DN. Trong điều kiện sản nghiệp của con nợ
khơng cịn đủ đế đồng thời thanh tốn hết tổng số nợ, dù con nợ có trao tồn bộ
sàn nghiệp của mình cho các chủ nợ thì rủi ro vẫn là quá lớn đối với các chủ
nợ. Neu có thể, bằng một giải pháp nào đó và với sự trợ giúp của các chủ nợ,
mà con nợ cịn có thể tiếp tục tồn tại thì cơ hội đế thu hồi đủ số nợ cho các chủ
•
J
•
•
•
•
nợ lại trớ lên khả quan hơn. Như vậy, việc tối đa hóa trong thu hồi nợ khơng
thề tách rời khởi vai trị và sự thiện chí của chính con nợ. Bên cạnh đó, con nợ,
khi khơng cịn khả năng phục hồi nhưng đã thiện chí trả nợ, đáng được pháp
15
luật bảo vệ đê có thê rút lui một cách an tồn khỏi thị trường, được giải phóng
nợ để có thể tạo lập cho mình một sản nghiệp mới. Tính chất này của TTPS cho
thấy, trọng tâm của việc giải quyết một vụ việc phá sản chính là việc giải quyết
mối quan hệ giữa một bên là các chủ nợ với một bên là con nợ. Như vậy,
PLPS, như chức năng tự thân của nó, có nghĩa vụ đảm bảo việc thu hồi nợ một
cách tối đa và công bằng cùng lúc cho nhiều chủ nợ nhưng đồng thời cũng phải
đảm bảo tính nhân văn trong mối quan hệ với con nợ [31].
Thứ ba, việc tranh đua đòi nợ giữa các chủ nợ có thể dần đến phá hủy
tài sản của DN, làm giảm sút giá trị tài sản của DN mất khả năng thanh tốn
và từ đó ănh hưởng xấu đến khă năng thu hồi nợ cùa các chủ nợ.
Thứ tư, việc tranh đua đòi nợ giữa các chủ nợ dẫn đến ảnh hưởng đến
trật tự xã hội.
Như vậy, việc hình thành LPS như là một phương thức để đảm bảo
được các áp lực vừa phân tích trên, cụ thể nó đảm bảo các mục tiêu như sau:
+ Tối đa hóa giá trị tài sản cịn lại của DN mất khả năng thanh toán để
việc thu hồi nợ được đảm bão cao nhất;
+ Đưa ra những cơ hội thực tiễn cho việc tổ chức lại DN khi mà quyền
lợi của chủ nợ và nhu cầu xã hội có thể được đáp ứng tốt hơn bằng cách duy
trì hoạt động cùa DN con nợ chứ khơng phải là thanh tốn DN đó;
+ Quy định cách thức đối xử đối với các chủ nợ cơng bằng;
LPS được hình thành nhằm mục đích giúp cho các chủ nợ địi nợ từ DN
mắc nợ, thơng qua vai trị của một thiết chế nhà nước có thẩm quyền (có thể
là tịa án hoặc một cơ quan nhà nước đặc biệt) để đòi nợ tập thể.
Tóm lại, có thể hiểu rằng, TTPS chính là một thủ tục đòi nợ đặc biệt,
bởi đây là thủ tục dành riêng cho việc đòi nợ tập thể của các chủ nợ, là thủ tục
giúp các chủ nợ có thể đòi nợ theo một trật tự được quy định trước, được thực
hiện thơng qua một thiết chế có thấm quyền (thường là Tồ án) với chi phí
16
thâp nhât, hiệu quả đòi nợ cao nhât và việc tuân theo thủ tục đòi nợ này còn
giúp cân bàng, hài hồ lợi ích giữa các chú nợ.
ỉ. 1.2.2. TTPS là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh tốn
Nếu đứng ở góc độ các chủ nợ thì TTPS là thủ tục địi nợ đặc biệt, thủ
tục địi nợ tập thể. Nếu đứng ở góc độ DN mất khả năng thanh tốn thì TTPS
có thể được xem là thủ tục thanh tốn nợ đặc biệt.
Trong q tìm kiếm giải pháp tối đa hóa giá trị tài sản phá sản và tối
ưu hóa khả năng thu hồi nợ cho các chủ nợ, các cuộc họp giữa chủ nợ và DN
mất khả năng thanh tốn diễn ra. Chính DN mất khá năng thanh toán muốn
thanh toán nhiều cho chủ nợ, chủ nợ thì cũng muốn được trả nhiều hơn. Do
vậy, các bên tìm mọi cách đế tối đa hóa giá trị tài sản còn lại của DN mất
khá năng thanh toán và đây cũng là mục tiêu quan trọng nhất trong mọi cuộc
họp muốn đạt được.
Việc định giá và tiến hành bán các tài sản còn lại của DN mất khả năng
thanh tốn trong hồn cảnh đang trong q trình tiến hành TTPS sẽ khơng đạt
theo u cầu của các bên, giá bán luôn thấp hơn giá trị thực của giá trị tài sản
còn lại, bởi tâm lý người mua tài sản thường e ngại khi mua và cho rằng sẽ
gặp xui xẻo khi mua tài sản này [38]. Đồng thời, việc thanh lý hàng loạt các
tài sản phá sản cùng lúc dẫn đến giá bán thấp hơn so với giá mà những người
mua thơng thường có nhu cầu mua đưa ra. Việc tìm được người mua thật sự
gặp rất nhiều khó khăn, bởi bản thân DN mất khả năng thanh toán, chù nợ và
người mua cũng chưa thật sự định hết được giá trị của tài sản còn lại mà DN
đang nắm giữ. Tài sản của DN đang là tài sản được đồng bộ hóa, khi định giá
bán thì lại khơng định giá được sự đồng bộ hóa đó, tài sản vơ hình cùa DN khi
phá sản thì bị định giá là khơng cịn giá trị, ...
Như vậy, thanh lý tài sản phá sản không mang lại hiệu quà thu hồi nợ cho
các chủ nợ, thì việc tổ chức, phục hồi lại DN mất khả năng thanh toán thay vì
17
thanh lý DN mât khả năng thanh toán là cân thiêt đê giúp các chủ nợ thu được
giá trị cao nhất từ các tài sản phá sản. Đối với các chủ nợ, mở TTPS vẫn giữ
nguyên giá trị là một thủ tục địi nợ đặc biệt [38], Chỉ có điều để địi được nợ,
người ta khơng nhất thiết phải thanh lý tài sản của DN mất khả năng thanh toán,
mà trong rất nhiều trường họp, việc tái phục hồi DN mất khả năng thanh tốn mà
thành cơng sẽ đạt được hiệu quả đòi nợ tối ưu hơn cho các chủ nợ [38],
Chính vì thế, LPS, đứng ở góc độ của DN mất khả năng thanh toán đã
phát triển theo hướng là Luật về giải quyết tình trạng mất khá năng thanh
toán cho DN mất khả năng thanh toán [38J.
Nền kinh tế thị trường hiện đại, các DN phụ thuộc lẫn nhau rất lớn, sự
chấm dứt hoạt động của các DN này gây ra những hậu quả lớn cho DN khác
và cho xã hội. LPS hiện đại hướng có xu thế vượt trội là hướng đến việc tái tô
chức, tái cẩu trúc lại các DN bị mất khả năng thanh toán hơn là tuyên bố phá
sản [38]. Việc tuyên bố phá sản đối với các DN chỉ đặt ra khi DN mất khả
năng thanh tốn thuộc vào trường họp khơng thể thực hiện phục hồi hoặc đã
tiến hành thủ tục phục hồi nhưng khơng thành cơng. Vì lý do này mà ngày
nay, ở một số nước, LPS đã được đổi tên gọi thành Luật về giải quyết tình
trạng mất khả năng thanh toán [16, tr. 713],
1.2. Một số vấn đề lý luận về việc ra quyết định mở thủ tục phá sản
1.2.1. Khái niệm mở thủ tục phá sản và việc ra quyết định mở thủ tục
phá sản
PLPS một số nước trên thế giới và LPS năm 2014 của Việt Nam không
đưa ra khái niệm mở TTPS. Tuy nhiên theo thông lệ chung trên thế giới, kết
hợp với nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều học giả có tên tuối, tác giả xin
tham khảo và đưa ra khái niệm mớ TTPS như sau:
Mở TTPS có thể khái niệm là làm cho TTPS được bắt đầu tiến hành. Việc
làm cho TTPS được bất đầu là việc một cơ quan có thấm quyền tiến hành ban
18
hành một qut định mở TTPS (thơng thường là Tồ án) khi có chủ thê yêu câu
mở TTPS đối với các DN lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn.
Có thể hiểu rằng mở TTPS là một khởi đầu cho một chuỗi các bước tiếp
theo được pháp luật quy định đế giải quyết việc DN mất khả năng thanh tốn.
Với khái niệm như trên có thể khái qt rằng: Ra quyết định mở thủ tục
phá sản là hành vi ban hành Quyết định của cơ quan nhà nước có thấm quyền
nham đáp ứng yêu cầu của một hoặc một số chủ thể nhất định (Chủ thể có thẩm
quyền) trong quá trình phá sản doanh nghiệp, hành vi này được thực hiện với
một số căn cứ, điều kiên, thủ tục nhất định được pháp luật quy định.
Căn cứ và điều kiện ra quyết định mở thủ tục phá sản được thực hiện theo
quy định pháp luật hiện hành, bao gồm các quy định pháp luật về tình trạng mất
khả năng thanh toán cùa Doanh nghiệp, Họp tác xã.
Thủ tục để đảm bảo việc ra quyết định mở thủ tục phá sản
+ Đơn yêu càu mở thủ tục phá sản;
+ Thực hiện quá trình thương lượng của các chủ nợ với con nợ trong một
thời hạn nhất định;
+ Lệ phí và chi phí phá sản.
1.2.2. Ỷ nghĩa của việc ra quyết định mở thủ tục phá sản
1.2.2.1. Nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ
Một “con nợ chết” sẽ kéo theo hàng loạt chủ nợ có thể đứng trước nguy
cơ mất trắng tài sản và lâm vào tình trạng bi đát về tài chính, và hơn hết, các
chủ nợ khi cho vay đều khơng mong muốn con nợ của mình “chết” hoặc
“sổng” nhưng khơng có khả năng trả nợ. Vì vậy, việc bảo vệ quyền và lợi ích
cho chủ thể (con nợ) bị ánh hưởng lớn nhất trước nguy cơ một DN bị mất khả
năng thanh tốn là điều vơ cùng cần thiết.
Khi DN, HTX bị phá sản thì chủ nợ nào cũng muốn lấy được càng
nhiều càng tốt tài sản còn lại của DN, HTX bị phá sản. Như vậy, nếu không
19