Đặt vấn đề
Pháp luật được ban hành với mục đích là điều khiển các mối quan hệ xã hội
phát sinh trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện qua các
hành vi xử sự cụ thể của con người,nghĩa là pháp luật muốn phát huy được hiểu
quả cần phải tổ chức thực hiện nó như thế nào để được cuộc sống chấp nhận. Thực
hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích,làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống,trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ
thể pháp luật. Quá trình thực hiện pháp luật bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội
khác nhau. Với mong muốn hiểu rõ hơn về vấn đề này nên em đã chọn đề tài :
“Phân tích các yếu tố xã hội tác động đến hoạt động thực hiện pháp luật? Liên
hệ với tình hình thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay?” để nghiên
cứu. Do còn hạn chế về kiến thức nên bài làm của em không tránh khỏi những
thiếu sót, mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy, cô để bài làm của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
1
Giải quyết vấn đề
I.Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật
1. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều kiện, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, hệ thống các chính sách kinh tế, chính sách xã hội và việc triển
khai thực hiện, áp dụng chúng trong thực tế xã hội. Nền kinh tế - xã hội phát triển
năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực hiện pháp luật,
tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của các
tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế xã hội chậm phát triển, kém năng động và
hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của các chủ thể
pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức,hiểu biết pháp luật và thực
hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật của các
chủ thể pháp luật.
Điều kiện kinh tế - xã hội có ảnh hưởng rất quan trọng đến lợi ích và do đó, tác
động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với
pháp luật. Khi nền kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp
nhân dân được cải thiện, lợi ích kinh tế được đảm bảo thì nhân dân sẽ phấn khởi,
tin tưởng vào đường lối kinh tế, chính sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và
hoạt động điều hành, quản lí của Nhà nước. Khi đó, niềm tin của các chủ thể đối
với pháp luật được củng cố, hoạt động thực hiện pháp luật sẽ mang tính tích cực,
thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực của pháp luật hiện hành.
Khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện, các cán bộ,
công chức nhà nước, các tầng lớp nhân dân có điều kiện mua sắm các phương tiện
nghe nhìn, có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu thông tin pháp luật đa dạng và cập
2
nhật. Các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật sẽ dễ dàng đến được với đông
đảo cán bộ và nhân dân; nhu cầu tìm hiểu, trang bị thông tin, kiến thức pháp luật
trở thành nhu cầu tự giác, thường trực trong suy nghĩ và hành động của họ. Điều
đó giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể mang tính tích cực, tự
giác. Còn khi kinh tế chậm phát triển, thu nhập thấp, tình trạng thất nghiệp gia
tăng, lợi ích kinh tế không được đảm bảo, đời sống của cán bộ, nhân dân gặp nhiều
khó khăn thì tư tưởng sẽ diễn biến phức tạp, cái xấu có cơ hội nảy sinh, tác động
tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật. Đây chính là mảnh đất lí tưởng cho sự xuất
hiện các loại hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại các giá trị, chuẩn mực pháp
luật, như tệ quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu, tham nhũng trong cán bộ, viên
chức nhà nước;buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế từ phía các doanh nghiệp;
trộm cắp, cướp giật, buôn bán ma túy… trong các thành phần xã hội bất hảo…
Cơ chế kinh tế cũng có ảnh hưởng tới hoạt động thực hiện pháp luật. Cơ chế
kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trước đây đã tạo ra tâm lí chủ động, ỷ lại; do
đó, nhận thức pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật thường mang tính phiến
diện, một chiều theo kiểu mệnh lệnh – chấp hành mệnh lệnh. Cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay với những mặt tích cực của nó sẽ tạo ra tư
duy năng động, sáng tạo, coi trọng uy tín, chất lượng, hiệu quả của hoạt động kinh
tế; từ đó, sẽ tác động tích cực hơn tới ý thức pháp luật và hành vi thực hiện pháp
luật của các chủ thể trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và tiêu
dùng. Nhưng mặt trái của kinh tế thị trường cũng sẽ tạo ra tâm lí sùng bái đồng
tiền, coi tiền là tất cả, bất chấp các giá trị đạo đức, pháp luật; đồng thời sẽ tạo ra
những quan niệm, hành vi sai lệch trong thực hiện pháp luật, lấy đồng tiền làm
thước đo để đánh giá các quan hệ giữa người với người. Đây là nguyên nhân phát
sinh các hành vi trái pháp luật, là môi trường cho các loại tội phạm nảy sinh và
phát triển.
3
Việc thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo các nguyên tắc của công bằng xã
hội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Nó là điều
kiện cho sự ổn định chính trị, tăng cường pháp chế và đoàn kết mọi tầng lớp nhân
dân trong xã hội; củng cố ý thức của con người về cái chung trong các lợi ích, lí
tưởng của họ, khơi dậy thái độ tích cực của quần chúng đối với việc tham gia quản
lí nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhờ đó, ý thức tôn trọng, hành pháp luật
cũng được nâng lên một bước và việc thực hiện pháp luật của các chủ thể trở nên
tự giác và chủ động hơn.
2. Yếu tố chính trị
Yếu tố chính trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chính trị của xã hội ở
từng gia đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chính trị, hệ thống các chuẩn
mực chính trị, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và quá trình tổ chức
thực hiện chúng; các quan hệ chính trị và ý thức chính trị; hoạt động của hệ thống
chính trị; cùng với đó là nên dân chủ xã hội và bầu không khí chính trị - xã hội.
Yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hiệu quả của hoạt động thực hiện pháp
luật của các chủ thể pháp luật, đặc biệt là các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng pháp luật.
Môi trường chính trị - xã hội của đất nước ta trong những năm qua luôn ổn
định, phát triển bền vững chính là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động thực hiện
pháp luật, vì nó củng cố ý thức và niềm tin chính trị của cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, gia tăng lập trường chính trị - tư
tưởng của các cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Thực tiễn lịch sử chứng
minh rằng, trong thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX, khi mà Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu suy thoái, tan rã, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, nhân dân có sự hoang mang, dao động về tư tưởng, tâm lí; nhưng nhờ môi
4
trường chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nên chúng
ta đã vượt qua thử thách một cách thành công
Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Đảng có ảnh hưởng rất quan
trọng tới hoạt động thực hiện pháp luật. Ở nước ta, sự vận hành của hệ thống pháp
luật trên các phương diện xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật luôn được đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng,
muốn xây dựng được một bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh vận hành trên
cơ sở các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì vấn đề thực hiện pháp luật một
cách nhất quán,nghiêm minh từ phía cán bộ, đảng viên và nhân dân phải luôn được
đặt lên vị trí hàng đầu. Muốn cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm túc
thì cán bộ, đảng viên phải là những người đi trước, gương mẫu thực hiện và có “
năng lực và tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân”. Chính
vì vậy, Đảng ta luôn quan tâm và chỉ đạo sâu sát đối với các hoạt động pháp luật,
trong đó có thực hiện pháp luật.
Ý thức chính trị cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thực hiện pháp
luật. Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân
tộc và các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực của nhà
nước, thể hiện trực tiếp và tập trung nhất lợi ích giai cấp ( hệ tư tưởng chính trị). Ở
nước ta, hệ tư tưởng chính trị thể hiện trong cương lĩnh, đường lối chính trị của
Đảng cũng như trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước dựa trên nền tảng
của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vai trò chủ đạo trong
đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện và vì lợi ích của đông đảo các giai cấp, tầng
lớp nhân dân lao động. Trong hoạt động thực hiện pháp luật, ý thức chính trị thể
hiện, trước hết, ở việc các chủ thể có chức năng áp dụng pháp luật quán triệt, thấm
nhuần nhiệm vụ chính trị của mình, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu xát quá
5
trình thực hiện, áp dụng pháp luật, giữ nghiêm kỉ cương phép nước. Điều đó sẽ
giúp cho hoạt động thực hiện pháp luật thực sự đạt được chất lượng, hiệu quả cao,
khơi dậy ý thức, trách nhiệm chính trị của các chủ thể khác trong thực hiện pháp
luật.
Tính chất, mức độ của nền dân chủ xã hội cũng có ảnh hưởng quan trọng tới
hoạt động thực hiện pháp luật. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng rãi,
thông tin đa dạng, phong phú, nhiều chiều, các tầng lớp xã hội có thể thẳng thắn,
công khai, cởi mở bày tỏ chính kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình đối với các
vấn đề pháp luật và các cơ quan pháp luật, sẵn sàng sử dụng quyền chủ thể của
mình trong thực hiện pháp luật hoặc yêu cầu các cơ quan pháp luật trợ giúp, bảo vệ
lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. Ngược lại, trong điều kiện xã hội thiếu dân
chủ, thông tin nghèo nàn, thậm chí bị bưng bít thì bầu không khí chính trị - xã hội
bị ngột ngạt, gò bó, các công dân không dám nói ra sự thật suy nghĩ của lòng mình,
không dám đòi hỏi công lí vì e ngại ý kiến, yêu cầu mà họ đưa ra có thể “ phạm
húy” hoặc “ không hợp khẩu vị” của ai đó.
3. Yếu tố văn hóa – lối sống
Các yếu tố văn hóa – lối sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn hóa –
xã hội nhất định và gắn liền với một phạm vi không gian – xã hội nhất định, nơi
các cá nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt,
cùng nhau tạo dựng, thừa nhận và chia xẻ các giá trị văn hóa, lối sống, phong tục,
tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng…Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của
mình, các yếu tố văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp
luật, thể hiện ở các điểm sau:
Các phong tục tập quán trong cộng đồng xã hội có ảnh hưởng nhất định tới
hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân, thể hiện đặc biệt rõ nét ở
6
khu vực nông thôn. Bên cạnh những ưu điểm rất căn bản, các phong tục, tập quán
ở nông thôn cũng đang bộc lộ những nhược điểm nhất định như việc tổ chức hội
hè, đình đám, ma chay, giỗ chạp nhiều lúc, nhiều nơi còn cồng kềnh, tốn kém là
lãng phí; những hủ tục lạc hậu, lỗi thời còn tồn tại; trình độ dân trí còn thấp; thói
hư tật xấu và tệ nạn xã hội phát sinh; tính tích cực chính trị - xã hội của mỗi người
dân còn hạn chế… Tại một số làng xã, chính quyền và người dân đứng ra tổ chức
lễ hội ồn ào, kéo dài, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt, bán vé và thu phí sai
nguyên tắc tài chính, sự chỉ đạo thiếu sâu sát, để cho một số người lợi dụng lễ hội
để hành nghề mê tín dị đoan. Trong khi một số thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội như
nạn cờ bạc, số đề, mê tín dị đoan, mại dâm…đang xâm nhập vào nông thôn, thì có
những người, thay vì tích cực đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa lại tiếp tay hoặc
trực tiếp tham gia vào những thói hư đó. Những hiện tượng trên đây gây khó khăn
cho việc thực hiện đúng đắn pháp luật, đồng thời là những hành vi vi phạm pháp
luật, coi thường kỉ cương, phép nước, cần phải có biện pháp xử lí nghiêm minh
thích đáng.
Lối sống đô thị và lối sống nông thôn có ảnh hưởng khác nhau tới hoạt động
thực hiện pháp luật. Đặc trưng nổi bật của lối sống đô thị là tính tích cực chính trị xã hội ở đô thị tương đối cao. Cư dân đô thị có nhiều điều kiện tiếp xúc với các
thông tin chính trị - xã hội và tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội lớn mà
phần nhiều được tổ chức ở các đô thị. Các phong trào có sức huy động quần chúng
ở các đô thị thường diễn ra nhanh hơn so với ở nông thôn. Đây cũng là điều dễ
hiểu, vì đô thị thường là nơi tập trung nhiều thành phần xã hội có trình độ học vấn
tương đối cao như tầng lớp trí thức, cán bộ, viên chức nhà nước. Tại các thành phố,
phạm vi giao tiếp xã hội, về cơ bản, tương đối rộng, cường độ giao tiếp cao và
mang tính ẩn danh trong giao tiếp. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và
phát triển ý thức pháp luật. Mặt khác, đô thị là nơi tập trung phần lớn bộ phận
7
không thể thiếu trong dân cư đô thị thường được gọi dưới cái tên những “ phần tử
ngoài lề xã hội”, bao gồm trẻ lang thang, bụi đời, người tàn tật, vô gia cư, những kẻ
phạm tội đang trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, các đối tượng thuộc tệ nạn xã
hội…Về phương diện xã hội, đây là môi trường phát sinh nhiều thể loại tệ nạn xã
hội và tội phạm nhiều khi ở mức báo động, gây khó khăn cho công tác quản lý xã
hội và hoạt động thực thi, bảo vệ pháp luật.
Lối sống nông thôn là lối sống mang tính cộng đồng rất cao và chặt chẽ, liên
kết các thành viên trong làng xã lại với nhau, mỗi người đều hướng tới những
người khác. Điều đó thể hiện ở mối quan hệ gắn bó, sự quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau
giữa các thành viên trong gia đình, trong dòng họ, trong lối xóm ở nông thôn.
Người dân nông thôn thường sống đoàn kết, gắn bó với quê hương làng xóm, rất
coi trọng tình làng nghĩa xóm. Họ luôn sẵn sàng giúp đỡ, che chở, đùm bọc, chia sẻ
với nhau niềm vui, nỗi buồn theo tinh thần “ lá lành đùm lá rách”, “ bán anh em xa
mua láng giềng gần” hoặc “ hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau”. Con
người nông thôn Việt Nam luôn đề cao tính tập thể, biết đặt lợi ích chung của cộng
đồng lên trên lợi ích cá nhân. Có thể nói, đây là môt biểu hiện rất riêng, rất đặc thù
của lối sống nông thôn Việt Nam.
Tính cộng đồng, trước hết, được coi là điều kiện thuận lợi đối với hoạt động
thực hiện pháp luật. Bằng ý thức cộng đồng, nó giúp cho các cán bộ pháp luật dễ
dàng hơn trong việc phổ biến, tuyên truyền và thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đông đảo người dân nông
thôn. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết giúp cho các cơ quan hành chính, tư pháp
hoàn thành tốt các nhiệm vụ thực thi và bảo vệ pháp luật, vì “ dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi truyền thống dân chủ làng xã
được phát huy, người dân cởi mở, thẳng thắn tham gia ý kiến về những cái được và
chưa được trong hoạt động thực hiện pháp luật.
8
Mặt khác, sự đề cao tính cộng đồng và chủ nghĩa tập thể dễ dẫn cán bộ làm
công tác thực thi và bảo vệ pháp luật đến việc đánh mất ý thức về con người cá
nhân, “ cái tôi” bị triệt tiêu. Khi “ cái tôi” bị nhạt nhòa trong các quan hệ cộng
đồng làng xã thì ý thức cá nhân và các hành vi cá nhân cũng bị đặt vào lối xử thể
“hòa cả làng”. Tình trạng này khiễn cho cán bộ nhà nước, khi phải đối mặt với
những việc làm sai trái, khuyết điểm, thậm chí vi phạm pháp luật, thì họ thường
tím cách né tránh trách nhiệm cá nhân và muốn đó là “ trách nhiệm tập thể”. Bên
cạnh đó, tính cộng đồng thường là cái cớ được cán bộ làm công tác thực thi và bảo
vệ pháp luật dùng để biện minh cho thói quen ỷ lại vào tập thể và tâm lý “ an phận
thủ thường”. Chính điều đó làm hạn chế năng lực sáng tạo, sự chủ động và quyết
đoán của họ trong điểu hành, giải quyết các công việc chung, từ đó ảnh hưởng đến
hoạt động thực hiện pháp luật.
Quan hệ dòng họ, thân tộc trong điều kiện xã hội hiện nay, nhất là ở nông thôn,
cũng đang bộc lộ những tác động tích cực và tiêu cực của nó đối với công tác thực
hiện pháp luật. Những mặt tích cực là quan hệ họ hành tạo nên sự đoàn kết, nhất trí
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, động viên nhau những lúc khó khăn; quan hệ họ hàng
là cơ sở hình thành nên tình cảm quê hương, cội nguồn, có giá trị trong đời sống
tình thần của người dân. Niềm tự hào về truyền thống của dòng họ có thể là nhân
tố tích cực thúc đẩy các chủ thể thực hiện pháp luật tích cực, nhiệt tình hơn. Những
tác động tiêu cực là là quan hệ thân tộc dễ làm nảy sinh tính cục bộ, hẹp hòi trong
sự đánh giá, nhìn nhận các dòng họ khác, sự ganh ghét, kìm hãm lẫn nhau hoặc có
thể bị lợi dụng, lôi kéo vào sự tranh chấp quyền lực của cá nhân hay của dòng họ
nào đó trong làng xã. Hiện tượng ganh đua giữa các dòng họ trong việc xây mồ
mả, xây nhà thờ họ khang trang; trong việc ma chay, cưởi hỏi còn ăn uống linh
đình, lãng phí và tốn kém là những hiện tượng tiêu cực cần được phê phán, ngăn
9
chặn. Bởi lẽ, những hiện tượng đó đã và đang gây cản trở đối với hoạt động thực
hiện pháp luật.
Các phương tiện thông tin đại chúng, như báo viết, báo hình và báo điện tử
thường xuyên đăng tải thông tin về các sự kiện, hiện tượng pháp luật xảy ra trong
xã hội, hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp xã hội và của các cơ quan
chức năng, nêu lên những tấm gương điển hình “ người tốt, việc tốt” trong việc
thực hiện pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật… Những thông tin
đó ở chừng mực khác nhau tác động đến suy nghĩ, nhận thức và hành vi của mỗi
người, khiến cho họ thực hiện pháp luật tốt hơn.
Dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới hoạt động thực hiện pháp luật. Dư
luận xã hội gắn liền với ý chí của cộng đồng, của các nhóm xã hội nên nó có tác
động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của các cá nhân. Trong một chừng mực
nhất định, người ta có thể không chịu sợ sự chừng phạt của pháp luật khi thực hiện
những hành vi sai trái, phạm pháp, nhưng lại rất sợ sự phê phán, lên án của dư luận
xã hội – một thứ “luật bất thành văn”. Trong điều kiện xã hội có nền dân chủ rộng
rãi, dư luận xã hội được coi là phương tiện kiểm tra xã hội đối với ý thức pháp luật
và hành vi pháp luật của mỗi người. Dưới áp lực của dư luận xã hội, mỗi người
luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm định trước khi thực hiện một hành vi pháp luật
nào đó. Những câu hỏi luôn phải được mỗi người đặt ra, như hành vi đó đúng hay
sai? Có phù hợp với chuẩn mực pháp luật hiện hành không? Nếu thực hiện thì có
được dư luận xã hội ủng hộ, đồng tình hay sẽ bị dư luận xã hội lên án? Nhờ đó, ý
thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật trong mỗi chủ thể cũng được nâng lên một bước.
4.Yếu tố pháp luật
Yếu tố pháp luật, theo nghĩa rộng, là tổng thể các yếu tố tạo nên đời sống pháp
luật của xã hội ở từng giai đoạn phát triển nhất định, bao gồm hệ thống pháp luật,
10
các quan hệ pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa pháp luật, pháp chế và hiệu quả
của pháp luật…Bản thân pháp luật được sinh ra là để điều chỉnh các quan hệ xã
hội, là cơ sở để các chủ thể thực hiện pháp luật. Song, chính các mặt, các khía cạnh
khác nhau của các chuẩn mực pháp luật cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động thực hiện pháp luật.
Văn hóa pháp luật có ảnh hưởng sâu rộng tới các hình thức thực hiện pháp luật,
từ tuân thủ, chấp hành, sử dụng cho tới áp dụng pháp luật. Được hình thành từ tổng
thể các hoạt động xã hội – pháp luật trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, văn
hóa pháp luật là hệ thống các giá trị, chuẩn mực pháp luật được kết tinh từ tri thức
pháp luật, tình cảm, niềm tin đối với pháp luật và hành vi pháp luật. Văn hóa pháp
luật được cấu thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết
chế pháp luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật, phản ánh trình độ, kỹ
năng và nghệ thuật của các chủ thể pháp luật trong quá trình đấu tranh chống lại
cái ác, không ngừng hoàn thiện tính nhân văn của từng cá nhân và toàn xã hội. Văn
hóa pháp luật được thể hiện ra đời sống pháp luật thông qua quá trình thực hiện
pháp luật, mà biểu hiện cụ thể, trực tiếp là hành vi pháp luật và lối sống theo pháp
luật của các chủ thể. Giữa văn hóa pháp luật và hoạt động thực hiện pháp luật có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Văn hóa pháp luật là cơ sở, nền tảng, là “khuôn
mẫu tư duy” và “chuẩn mực hành vi” của hoạt động thực hiện pháp luật, định
hướng đúng đắn cho quá trình thực hiện pháp luật của cá nhân, cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thực thi và bảo vệ pháp luật cũng như của từng công dân. Ngược
lại, hoạt động thực hiện pháp luật có tác dụng bổ sung, làm phong phú và sâu sắc
thêm cho các giá trị, chuẩn mực của văn hóa pháp luật.
Các yếu tố truyền thống cũng ảnh hưởng không nhỏ đối với hoạt động thực
hiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay. Quá trình tổ chức và duy trì các hoạt động
sống, lao động và sinh hoạt của xã hội truyền thống đã làm nảy sinh một nét đặc
11
trưng của hoạt động quản lý – tính tự quản. Khi nghiên cứu về tổ chức xã hội nông
thôn, các nhà nghiên cứu đều phải thừa nhận rằng trong xã hội nông thôn truyền
thống luôn có sự tồn tại song song của hai hệ thống: hệ thống quản lý của nhà nước
dựa trên cơ sở pháp luật và hệ thống tự quản. Sự quản lý của nhà nước bằng pháp
luật là nhằm khắc phục tính thiển cận, cục bộ trong quá trình phát triển sản xuất,
xây dựng làng xã trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Đồng thời, thông qua hệ thống
pháp luật, qua các sắc lệnh, chỉ thị của nhà nước nhắc nhở, duy trì mọi nghĩa vụ
của người dân và làng xã đối với nhà nước và xã hội. Trong quá trình pháp triển,
pháp luật thừa nhận làng có lệ riêng của mình, miễn là lệ làng không trái với các
nguyên tắc, quy định của pháp luật. Nếu như bộ máy quản lý của Nhà nước được
đảm bảo nhờ vào sức mạnh cưỡng chế của pháp luật, thì hệ thống tự quản lại chủ
yếu dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội, uy tín của các vị chức sắc ( tôn giáo,
trưởng tộc, già làng…) và đặc biệt là vai trò của lệ làng ( hương ước).
Trong xã hội nông thôn hiện nay, sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật và
lệ làng đang là những yếu tố cơ bản tác động, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động
thực hiện pháp luật của các chủ thể. Vấn đề là ở chỗ, mỗi chủ thể (các cán bộ, công
chức các cơ quan hành chính, tư pháp và các công dân) nhìn nhận như thế nào về
vị trí, vai trò và sự ảnh hưởng của mỗi yếu tố. Chẳng hạn, do trình độ kiến thức,
hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, sự lạc hậu về thông tin pháp luật nên có
những cán bộ cấp xã, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, đề cao tính tự quản, đề cao vai
trò của lệ làng, coi sức mạnh của tính tự quản còn mạnh hơn cả sự quản lý, điều
hành bằng pháp luật của Nhà nước.Chính điều đó đã dẫn tới quan niệm sai lệch
“phép vua thua lệ làng”. Trên thực tế, cả sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật,
cả tính tự quản đều hết sức quan trọng và cần thiết, chúng có vai trò khác nhau
trong công tác quản lý xã hội ở nông thôn. Nhà nước ta, bên cạnh việc xây dựng,
ban hành pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở ( Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã
12
phường, thị trấn), vẫn cho phép xây dựng Quy ước làng văn hóa và thừa nhận
hương ước, miễn là chúng không trái với các quy định của pháp luật hiện hành. Vì
thế, cần kết hợp hài hòa cả hai hình thức quản lý này trong hoạt động thực hiện
pháp luật.
Sự tồn tại dai dẳng của pháp luật do các chế độ cũ để lại có ảnh hưởng nhất
định đến việc thực hiện pháp luật hiện hành. Cho đến nay, vẫn còn một bộ phận
người dân bị ảnh hưởng khá nặng nề bởi hệ thống pháp luật của chế độ phong kiến
và thực dân trước đây. Một số người còn quan niệm sai lầm khi cho rằng, pháp luật
chỉ chủ yếu là công cụ để trừng phạt, chứ không phải là phương tiện để bảo vệ lợi
ích của nhân dân; đồng thời, do thiếu kiến thức về pháp luật hiện hành của Nhà
nước ta, nên họ có tâm lý sợ hãi trước pháp luật. Có tình trạng trên đây là do tính
chất tàn khốc của các hình phạt được quy định trong pháp luật của chế độ phong
kiến, thực dân. Tâm lí sợ hãi pháp luật thường khiến cho hành vi của con người
thiếu ổn định, do đó, khó có thể dẫn đến hành vi xử sự tích cực trước pháp luật đối
với pháp luật.
Tình trạng thờ ơ đối với pháp luật hoặc coi thường pháp luật ở một số người
tác động tiêu cực tới việc thực hiện pháp luật của những người khác. Trong ý thức
pháp luật của một số người chưa có được tinh thần đấu tranh không khoan nhượng
với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Chính những sự việc, sự kiện pháp lí mà
người dân mắt thấy, tai nghe hằng ngày nhưng không có thái độ phản ứng tích cực
đã đưa tới sự ảnh hưởng tiêu cực đối với người khác. Chẳng hạn, tình trạng vi
phạm pháp luật xảy ra ở nơi công cộng nhưng không bị lên án gay gắt; thái độ né
tránh, không dám giúp đỡ người bị hại chống lại kẻ phạm tội, còn tâm lý “người
ngay sợ kẻ gian”; trong số các chủ thể thực hiện pháp luật có những người biết
những không tố cáo, tố giác tội phạm…Đó là những ví dụ nói lên rằng trong xã hội
hiện nay, một số người vẫn chưa sẵn sàng thực hiện pháp luật; thậm chí thờ ơ hoặc
13
coi thường pháp luật. Đến lượt mình, điều đó ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động
thực hiện pháp luật.
Ý thức, niềm tin đối với pháp luật của con người có ảnh hưởng rất quan trọng
tới việc thực hiện pháp luật. Ngay trong xã hội hiện đại,một số người chưa có niềm
tin vững chắc vào tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật hiện hành, còn
băn khoăn, nghi ngờ về tính trung thực, khách quan của những bản án do Tòa án
nhân dân các cấp phán quyết; thiếu tin tưởng vào các quyết định hành chính của
một số cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Sở dĩ như vậy, là vì trong thực tế, có
những bản án hình sự chưa đúng người, đúng tội, có những quyết định xử phạt
hành chính thiếu khách quan; cách giải quyết công việc của cơ quan chức năng
chưa thấu tình đạt lý. Câu nói lưu truyền trong xã hội rằng : “quan xử theo lễ, dân
xử theo luật” chính là biểu hiện của sự thiếu niềm tin vào tính công bằng, khách
quan, trung thực trong hoạt động của một số cơ quan thực hiện pháp luật, ảnh
hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể.
Sự hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện pháp luật có tác
động rất quan trọng đến hoạt động thực hiện pháp luật của các tầng lớp xã hội.
Trong các trường hợp cần thiết, khi các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật hoặc
không tự mình giải quyết được các tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật
nào đó thì sự can thiệp của các cơ quan chức năng là cần thiết nhằm đảm bảo cho
pháp luật được tôn trọng và thực hiện
II.Tình hình thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
1.Những thành tựu đạt được
Hiện nay, quá trình thực hiện pháp luật đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định
và hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở. Quy chế dân
14
chủ ở cơ sở ra đời đánh dấu một bước tiến bộ xã hội lớn ở nước ta, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân thực sự phát huy quyền làm chủ của mình, tham gia quản lý
các công việc ở địa phương, kiểm soát và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham
nhũng, mất dân chủ ở các cơ quan công quyền hay các biểu hiện lợi dụng dân chủ
để vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, việc tổ chức các kế hoạch triển khai công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cũng đem lại những hiệu quả đáng kể cho hoạt động
thực hiện pháp luật của người dân. Chúng ta có thể thấy rõ qua hoạt động “Ngày
pháp luật”. Nhìn chung, “Ngày pháp luật” đã góp phần đa dạng hóa các hình thức
phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo được thói quen học tập, nghiên cứu pháp luật
trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân. Thông qua đó, nhiều kiến thức
pháp luật đã được phổ biến đến cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân, nâng
cao hiểu biết của người dân về pháp luật, từng bước hình thành ý thức tự giác chấp
hành pháp luật của người dân, nhờ đó hoạt động thực hiện pháp luật đã có những
thay đổi tích cực đáng kể.
2.Những hạn chế trong hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
Bên cạnh những điểm tích cực đã nêu trên, hoạt động thực hiện pháp luật vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục. Ví dụ như nhiều trường hợp người
dân không thực hiện, thực hiện không nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ pháp lí của
họ một phần rất quan trọng là do họ không hiểu biết đầy đủ cơ sở, tư tưởng, ý
nghĩa của các quy định trong pháp luật. Ngược lại, có khá nhiều trường hợp, xét về
hình thức, hành vi thực tế là hợp pháp, tuy nhiên ý nghĩa của nó đã bị sai lệch bởi
vì chủ thể đã không nhận thức được mục đích, ý nghĩa của quy định mà Nhà nước
đã ban hành. Người ta đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông, không vượt đèn
đỏ, không vượt quá tốc độ…nhiều trường hợp không phải vì sự an toàn của chính
bản thân mình mà chỉ vì sợ cảnh sát giao thông xử phạt. Hoặc hiện tượng người
dân không đi bầu cử hoặc nhờ người khác đi bầu thay là ví dụ điển hình, người ta
15
chưa ý thức được một cách sâu sắc về quyền được bầu cử của mình, chưa thấy
được tầm quan trọng của lá phiếu của họ.
Quá trình thực hiện pháp luật dân chủ cơ sở vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như
trình độ năng lực, nhận thức cảu đội ngũ cán bộ, cơ sở chủ chốt của cấp xã,
phường, thị trấn còn chưa nắm bắt được mục đích, ý nghĩa, nội dung thực hiện
pháp luật dân chủ cơ sở cho nhân, vẫn còn một số đảng viên, cán bộ chủ chốt có
những ý kiến khác nhau về thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở. Hoặc việc dân trí ở
một số địa phương còn thấp, người dân không đủ nhận thức để phán xét các hành
vi quan liêu, sách nhiễu của quan chức công quyền khiến cho cuộc đấu tranh giành
quyền dân chủ thường không triệt để, thậm chí còn tạo kẽ hở cho việc hợp thức
hóa thủ tục chui gây khó khăn cho cơ quan điều tra… Người dân có trình độ nhận
thức không đúng đắn và dễ bị kích động có những hành động quá khích gây lộn
xộn…
16
Kết thúc vấn đề
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật trong đó những yếu tố
đã phân tích ở trên có ảnh hưởng lớn tới quá trình thực hiện pháp luật. Để thực
hiện pháp luật đạt được hiệu quả tốt cần phải sự phối hợp hài hòa, khoa học giữa
các yếu tố với nhau, như vậy mới phát huy được tối đa hiệu quả của pháp luật
trong cuộc sống.
17
Mục lục
Trang
Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề
I.Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động thực hiện pháp luật
1.Yếu tố kinh tế………………………………………………………..……….1
2.Yếu tố chính trị……………………………………………………..………...3
3.Yếu tố văn hóa – lối sống…………………………………………….………5
4.Yếu tố pháp luật………………………………………………………....……9
II.Tình hình thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay
1.Những thành tựu đạt được…………………………………………..………13
2.Những hạn chế trong hoạt động thực hiện pháp luật ở nước ta hiện
nay…………………………………………………………………………...……14
Kết thúc vấn đề
Hình ảnh minh họa
18