Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Giáo Trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.95 KB, 53 trang )


Mục lục

Bài mở đầu
Luật pháp là hiện tượng lịch sử có q trình hình thành, phát triển và triển vọng và
do đó, những nguyên nhân xuất hiện nhà nước cũng chính là nguyên nhân xuất
hiện pháp luật. Kinh tế phát triển đến một mức nào đó thì nảy sinh các giai cấp và
lúc đó, Nhà nước ra đời; luật pháp xuất hiện lúc Nhà nước ra đời và dựa trên cơ sở
chữ viết.
Có thời kỳ chưa có pháp luật và pháp luật ra đời là bước quá độ chuyển từ công xã
nguyên thủy sang trạng thái nhà nước. Pháp luật là chuẩn mực của xã hội lồi
người người, được hình thành từ các tập tục, tập quán pháp và án lệ. Tập quán
pháp là một nguyên tắc mang tính xã hội là chỉnh thể, xã hội có tồn tại, duy trì hợp
lý (chế độ Thái thượng hồng thời Trần => hợp lý, được các triều đại sau kế nghiệp
và bắt chước; tập tục kế vị ngơi vua).
Pháp luật chính là quy tắc xử sự, quy tắc hành xử của xã hội do Nhà nước ban
hành, có tính bắt buộc và tính quy phạm cao. Trước khi pháp luật ban hành, nhân
dân theo tập tục địa phương. Thời kỳ công xã nguyên thủy, luật pháp chưa có và
con người sống với nhau bình đẳng; ứng xử con người – con người mang tính đạo
đức và tơn giáo. Nhà nước ra đời đề ra quy tắc mới, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị, củng cố trật tự xã hội phù hợp với lợi ích, địa vị thống trị của nó. Nhà
nước và pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nó ra đời
2


cùng với Nhà nước và không tách rời khỏi Nhà nước; pháp luật là công cụ thể hiện
quyền lực của Nhà nước. Nhà nước cũng như pháp luật đó là sản phẩm, bộ phận
của thượng tầng kiến trúc do phương thức sản xuất quy định. Mỗi một hình thái
kinh tế - xã hội đều có một kiều nhà nước – pháp luật tương đương.
Định nghĩa: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành, có
tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về hình thức, có tính bắt buộc


chung thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được Nhà nước đảm bảo thực hiện
để điều chỉnh các mối quan hệ có trật tự và ổn định.
Các thuộc tính của pháp luật:
- Tính quy phạm phổ biến: Ta hiểu quy phạm chính là kiểu mẫu, mực thước và
ngun tắc cho mơ hình sử dụng chung. Đạo đức, tập qn, tín điều tơn giáo và
điều lệ của tổ chức xã hội đó chính là những quy phạm. Đạo đức, tín điều tơn giáo
và pháp luật giống nhau ở chỗ: nó chính là kiễu mẫu, quy tắc xử sự chung. Ví dụ
đạo Phật khuyên răn con người không làm điều xấu, con người nên làm việc tốt);
các tổ chức đều có khn mẫu (điều lệ Đoàn Thanh niên: từ 16 – 30 tuổi là đoàn
viên) hay quy tắc xử sự chung (đạo Phật khuyên răn con người nên khiêm nhường,
đức độ và tu thành kính)…. Điểm khác: tính quy phạm của pháp luật mang tính
phổ biến để phân biệt với các tín điều, đạo đức vì pháp luật được dùng trong tất cả
các công dân; pháp luật là khuôn mẫu chung, áp dụng trong khoảng thời gian và
khơng gian rộng lớn.
- Tính xác định chặt chẽ về hình thức: đó là câu chữ, ngữ nghĩa. Lời văn của pháp
luật phải rõ ràng, chính xác và chặt chẽ để công dân tuân thủ và khơng xử sự tùy
tiện.
- Tính bắt buộc chung: pháp luật là văn bản được Nhà nước ban hành, Nhà nước
bảo đảm thực hiện thống nhất. Việc bắt buộc thực hiện là con người cần tuân thủ
các nguyên tắc của pháp luật (khác với tuân theo ý chí chủ quan của mình). Khơng
tự giác thực hiện pháp luật thì sẽ bị cơ quan hành pháp chế tài thực hiện; vi phạm
theo nguyên tắc đạo đức bị chế tài bằng lên án (dư luận xã hội), luật pháp không

3


bao kín các lĩnh vực mà chỉ bao một phần, còn lại phần lớn khác được chế tài bằng
đạo đức.
Chủ nghĩa Marx – Lenin cho rằng Nhà nước – pháp luật là thượng tầng kiến trúc,
có tính lịch sử. Thời cơng xã thị tộc, Nhà nước chưa có vì trình độ sản xuất kém,

việc lao động ra của cải và sản phẩm con người thừa hưởng là của chung (không có
nhiều). Engels có câu nói xác đáng: “Cái tốt đẹp chính là sự chật hẹp của thị tộc đó
là sự bình đẳng”. Người lãnh đạo trong thị tộc khơng có thù lao (có vị trí khơng
đáng kể trong thị tộc), nhưng họ dùng uy tín và sức mạnh cá nhân để điều khiển
hoạt động của thị tộc, bộ lạc. Quyền hành, chức năng của cơ quan thị tộc khơng
mang tính chính trị (duy trì sự thống trị); chưa có pháp luật thành văn, hầu hết thị
tộc xử lý bằng các tập tục. Những người phạm trọng tội (giết người) thì hình phạt
cao nhất của họ là đuổi ra khỏi thị tộc, trở về với tự nhiên và hình phạt đó đồng
nghĩa với cái chết. Không phải lúc nào cũng tồn tại Nhà nước – pháp luật: chỉ tới
giai đoạn phát triển nhất định, phân hóa tài sản và xã hội chia thành các giai cấp,
lúc đó Nhà nước được hình thành. Nhà nước trở thành tất yếu của sự phân kỳ đó
(Marx – Engels), khơng có Nhà nước là xã hội sẽ rối loạn. Lenin nhận định: Nhà
nước là sản phẩm, biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được nữa.
Nhà nước ra đời khi kinh tế - xã hội phát triển lên một trình độ nhất định. Cùng với
sự phát triển đó là sự hình thành tư hữu, phân chia xã hội thành giai cấp và mâu
thuẫn xã hội là khơng thể điều hịa được. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước để
khống chế sự đối kháng giai cấp, làm dịu đi các xung đột giai cấp và giữ cho các
giai cấp tồn tại trong một trật tự (cần thiết để duy trì chế độ kinh tế).
Dấu hiệu của Nhà nước:
- Phân chia cư dân theo các địa vực cư trú để phân biệt với thị tộc (dựa vào quan hệ
kinh tế - xã hội, có hiệu lực với từng thành viên).
- Thành lập bộ máy nhà nước, cơ quan quyền lực để thống trị xã hội. Bộ máy thực
chất là cơ quan quản lý nhà nước, nhà tù, trại lính (quân đội). Quyền lực nhà nước
dựa vào pháp luật, sức mạnh cưỡng bức.

4


- Nhà nước là tổ chức có chủ quyền quốc gia, có quyền lực tối cao giải quyết các
vấn đề đối nội – đối ngoại.

- Nhà nước là cơ quan duy nhất có quyền ban hành luật pháp. Pháp luật mang tính
bắt buộc chung với mọi trường hợp, mọi thành viên, quản lý xã hội với nhiều bộ
phận khác nhau, quy định việc thu tơ thuế. Điều đó cho thấy pháp luật khác với các
tổ chức xã hội, nghiệp đoàn, đồn thể tơn giáo, cho thấy được vai trị và bản chất
của Nhà nước.
Bản chất của Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt, tổ chứ bạo lực giai cấp để
đàn áp các giai cấp khác, đại biểu cho lợi ích giai cấp thống trị; điều đó cho thấy
Nhà nước là đại diện của giai cấp thống trị để thống trị xã hội, đàn áp và bóc lột
các giai cấp, các tầng lớp khác; là thống trị của thiểu số với đa số.
Chức năng của Nhà nước là đối nội, đối ngoại. Đối nội là những mặt hoạt động
diễn ra trong nội bộ quốc gia như: duy trì trật tự xã hội, trấn áp sự chống đối của
các giai cấp, bảo vệ chế độ kinh tế - xã hội, quản lý công dân. Đối ngoại là hoạt
động thể hiện trong quan hệ với nhà nước, tổ chức quốc tế khác: phòng thủ đất
nước, chống sự xâm lăng từ bên ngồi, bang giao quốc tế. Đối nội có quan hệ mật
thiết với đối ngoại: đối ngoại tạo ra sự bảo vệ quyền lợi của dân tộc, cụ thể hóa đối
nội ra bên ngồi. Trong nghiên cứu ngoại giao thì Mỹ là quốc gia ngoại giao thực
dụng nhất, ngoại giao của Mỹ hoạt động theo quan điểm của Clement von
Metternich (1773 – 1859), bộ trưởng Ngoại giao kiêm Thủ tướng Áo từ 1809 –
1848: “khơng có đồng minh vĩnh viễn, chỉ có quyền lợi vĩnh viễn”1, và quan điểm
này trở thành phương châm đối ngoại của Mỹ, thể hiện mối quan hệ sâu rộng.
Chức năng, vai trị của Nhà nước có 2 chức năng: trấn áp và xã hội. Trấn áp là đặc
trưng nhất bản chất của Nhà nước (công cụ thống trị, vì lợi ích giai cấp thống trị).
Chức năng xã hội quy định công việc chung (thủy lợi, sản xuất nơng nghiệp, tơ
thuế). Chức năng điều hịa mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng; chức năng đảm
bảo sự tồn tại của các giai cấp. Nhà nước tính đến lợi ích nơng nghiệp (chính sách
1 Có nguồn ghi là của Winston Leonard Spencer-Churchill (1874 - 1965) là một nhà chính trị người Anh, nổi tiếng
nhất với cương vị Thủ tướng Anh trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai.

5



an dân – cho nhân dân không nổi loạn chống chính quyền), quản lý nhân dân trong
xã hội.
Các hình thức Nhà nước:
- Nhà nước chủ nơ: có 2 giai cấp là chủ nô và nô lệ, quan hệ là chủ nô (nắm tư liệu
sản xuất) – nô lệ (mất tư liệu sản xuất). Đối nội và đối ngoại để củng cố sở hữu của
chủ nô về tư liệu sản xuất, tư hữu với nô lệ. Nhà nước chủ nô là công cụ bạo lực,
đàn áp và chiến tranh xâm lược.
- Nhà nước phong kiến: là nhà nước bóc lột tiến bộ hơn nhà nước chủ nơ (bóc lột
theo quan hệ kinh tế). Nhà nước này có 2 giai cấp là địa chủ và nông dân; địa chủ
sở hữu ruộng đất, tư liệu sản xuất và 1 phần sức lao động của nơng dân. Bản chất
nhà nước là cơng cụ chính của phong kiến với nông dân, nông nô. Đối nội bảo vệ
quyền chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, duy trì bóc lột nơng dân, đàn áp khởi
nghĩa nơng dân, cấu kết và lợi dụng tôn giáo làm công cụ mê hoặc quần chúng
nhân dân (khống chế, đàn áp trong từng giai cấp). Đối ngoại là thực hiện chiến
tranh xâm lược, mở rộng lãnh thổ.
- Nhà nước tư sản: là kiểu nhà nước hoàn thiện nhất, phát triển nhất trong xã hội
người bóc lột người; có nhiều hình thức tổ chức: cộng hòa Tổng thống, cộng hòa
đại nghị, quân chủ lập hiến, cộng hịa Nghị viện…, đó là cơng cụ bạo lực thực hiện
chuyên chính của giai cấp tư sản. Về lịch sử ra đời nhà nước tư sản với thiết chế tự
do – dân chủ rộng rãi, là tiến bộ lớn của lịch sử, hơn hẳn nhà nước phong kiến.
Nhà nước tư sản là công cụ trấn áp của giai cấp tư sản đối với đại đa số giai cấp bị
bóc lột. Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi để thích ứng hồn cảnh hiện đại. Tư
bản hiện đại điều chỉnh tốt về sở hữu làm dịu đi mâu thuẫn xã hội, phù hợp quy
luật phát triển của xã hội nên nó phát huy được các thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học – kỹ thuật lần thứ 2 (kinh tế mở, tồn cầu hóa). Chủ nghĩa xã hội khơng
kịp thích ứng; kinh tế đóng kín, nó chỉ phù hợp thời chiến tranh, thời hịa bình và
tồn cầu hóa thì nó khơng thích ứng kịp; sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là
tất yếu vì mơ hình thực hiện chưa khoa học. Bắc Triều Tiên, Campuchia thời
Polpot – Ieng Sary là chủ nghĩa xã hội; Trung Quốc là chủ nghĩa xã hội theo kiểu

quân sự (chính xác, cưỡng bức lao động, chia theo sản phẩm). Việt Nam có tư bản
6


chủ nghĩa là do có cổ phần (cổ phần này do tư bản trong nước, nước ngoài hùn hạp
vào làm ăn); Tư bản nắm cổ phần, thuê công nhân vào làm => công nhân sở hữu tư
liệu sản xuất; Nhật bản thuê người làm việc, làm theo cấu trúc rất khoa học, vì thể
dẫn tới là xây dựng nhiều cơng trình có khơng giao rộng lớn, đủ chỗ cho nhiều
người cùng đến làm việc. Năm 1973 khủng hoảng, tư bản tự điều chỉnh trong khi
chủ nghĩa xã hội không điều chỉnh => sụp đổ chủ nghĩa xã hội là tất yếu. Thời kỳ
chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Quốc tháng 2/1979, một vị lãnh đạo thời
đó nhận định: Chiến tranh không là độc quyền của chủ nghĩa đế quốc. Đế quốc
dùng chiến tranh xâm lược các nước xã hội chủ nghĩa, nay thì các xã hội chủ nghĩa
đánh lẫn nhau (chúng ta hiểu chiến tranh xã hội chủ nghĩa là sự đan xen nhiều loại
hình chiến tranh với nhau). Trung Quốc đánh xong trận tháng 3/1979 liền làm lễ
truy điệu quân lính tử trận ở biên giới; Việt Nam thì vài tháng sau mới làm lễ truy
điệu; Nam Bộ là bão hòa các mối quan hệ xung quanh mình. Việt Nam thời Tây
Sơn, khi bị quân Tây Sơn truy đuổi thì Nguyễn Ánh trốn chạy khắp nơi, nương náu
ở Gia Định và 1 số tỉnh phía Nam, được nhân dân giúp đỡ (họ nhớ ơn Chúa
Nguyễn khai phá, mở cõi đất đai Nam Bộ). Khơng có sự giúp đỡ của nhân dân,
Nguyễn Ánh không thắng được Tây Sơn; nhân dân Gia Định thương – ghét rạch
rịi lắm, khơng nhầm lẫn được: kẻ nào giúp mình thì mình thương, kẻ nào xâm lược
thì ghét tìm cách đuổi đi (giúp Nguyễn Huệ đánh đuổi quân xâm lược Xiêm).

7


Chương 1: Nhà nước và pháp luật Việt Nam (thế kỷ VII TCN – thế kỷ X)
1.1.


Tiền đề ra đời và phát triển của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc

Văn Lang là nhà nước đầu tiên của Việt Nam, ra đời và thế kỷ VII TCN. Trải qua 3
giai đoạn (Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun), người Việt tiến vào thời kỳ đồ sắt
trong thời văn hóa Đơng Sơn; thời kỳ này bắt đầu có phân hóa xã hội, dẫn tới nhà
nước hình thành.
Tên gọi “Văn Lang” có nhiều nghĩa; thường có 2 nghĩa: (1) chỉ cư dân sống ở vùng
đất đầm lầy, (2) chàng trai có văn hóa. Người dân từ vùng núi cao Sơn Vi trải qua
thời kỳ phát triển đã di chuyển xuống trung du, đồng bằng để định cư, cải tạo vùng
trũng, đầm lầy; lấy Phong Châu là kinh đô. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ
chứng minh điều này: là sự hình thành các cộng đồng dân tộc (người sống ở núi,
người thì về đồng bằng và ven biển để sống); theo quy luật phát triển là dân từ
miền núi sẽ xuống đồng bằng định cư sinh sống.
Vật tổ của người Việt là chim Lạc (thuộc họ Diệc, Cò) chuyên sống ở vùng sơng
nước và đầm lầy. Họ có xu hướng xê dịch mối quan hệ ra cộng đồng nên nhận
chim Lạc là vật tổ. “Hùng Vương” xuất phát từ chữ Indonesiens cổ là Krung, nghĩa
là: thủ lĩnh; sau người Hán dịch “Krung” thành chữ “Hùng” rồi thêm chữ “Vương”
8


thành từ “Hùng Vương” (Vua Hùng), vậy nhà nước Văn Lang hình thành đó là liên
minh bộ lạc cổ đại.
+ Những tiến bộ kỹ thuật tạo đà cho sự phân hóa xã hội:
Cư dân từ thời Phùng Nguyên đến thời Đông Sơn đã làm chủ nghệ thuật luyện kim
và phát triển đến một trình độ cao thâm. Trong khi đó phía Nam Trường Giang có
hai bộ tộc Tây Âu và Lạc Việt sống gần gũi và liên kết với nhau thành liên minh
thống nhất, điều đó phù hợp với nhu cầu thống nhất cư dân, lãnh thổ thành một
mối. Người Việt, người Mường trước kia có cùng chung tiếng nói, nhưng tới thế kỷ
X thì mới tách ra thành 2 dân tộc riêng, dùng ngơn ngữ riêng.
Sự phân hóa về xã hội diễn ra vào thế kỷ VII TCN, chế độ phụ hệ ra đời tạo ra sự

liên kết giữa các làng với nhau.
Văn minh cổ ở Đông Nam Á là văn minh Nam Á; đơn vị cư trú là chiềng chạ (làng
bây giờ), dần dần các chiềng chạ gắn kết nhau thành bộ lạc, về sau là liên minh bộ
lạc. Sự hình thành liên minh bộ lạc đã tạo nên văn hóa của cư dân ứng xử với mơi
trường, đặc biệt là cư dân Phù Nam với văn hóa phồn thực (nghi lệ cầu mong sinh
sôi nảy nở).
Việc xuất hiện vũ khí chiến tranh nói lên mức độ phân hóa xã hội thời bấy giờ:
chiến tranh là hiện tượng làm giàu nhanh nhất. Việc xây thành Cổ Loa là tiến bộ,
thể hiện hiện tượng nhà nước huy động nhân dân xây thành trên đất trũng lún.
Văn minh Đông Sơn hồn tồn mang tính chất bản địa, xuất hiện từ thế kỷ VII
TCN và kéo dài đến thế kỷ III (khởi nghĩa Bà Triệu) thì chấm dứt. Đơng Sơn có cơ
sở kinh tế ổn định nên ra đời nhà nước Văn Lang thời đại vua Hùng.
+ Tổ chức nhà nước:
Đứng đầu là vua Hùng, bên dưới ông là thủ lĩnh bộ lạc (Lạc Hầu, Lạc Tướng) mà
tiếng Indonesien cổ gọi là Pot’ring, dưới nữa là Bồ chính (già làng, tù trưởng); thực
chất đây là liên minh bộ lạc nhà nước. Vua Hùng là vị vua đứng đầu nhà nước
mạnh; liên minh bộ lạc là cơ sở thống nhất quốc gia.

9


Cương vực nhà nước: có 15 bộ: Vũ Định, Lục Hải, Ninh Hải, Tân Định, Vũ Ninh,
Dương Tuyền, Phúc Lộc, Văn Lang, Phong Châu, Chu Diên, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Hoài Hoan, Cửu Đức, Việt Thường. Nhà nước đơn sơ, quan hệ giữa các bộ lạc
chưa vững mạnh
+ Kinh tế Văn Lang là trồng lúa nước. Trung Quốc trồng lúa khô (lúa mỳ, cao
lương), người Việt là văn minh lúa nước, văn minh rau xanh; làm lúa rất khó (đào
mương, đắp đập và tưới nước), xuất hiện các hiện vật khảo cổ như lưỡi cày, rìu,
lưỡi xẻng chứng tỏ nhà nước có trình độ phát triển cao.
Chữ Việt: cái rìu vừa là vũ khí chống thú dữ phá hoại, đồng thời nó cịn là phương

tiện chặt đốn cây gỗ, đốn cây. Chữ Việt được viết sau này có 2 bộ: Việt (hay Rìu)
và Mễ.
Vũ trụ quan cua cư dân trồng lúa nước là cầu mưa trên mặt trống, mặt trống có 4
con cóc tượng trưng cho cầu mưa.
Trống đồng phân bố phía Nam sơng Trường Giang đến Malaysia. Cư dân Việt chưa
biết luyện kim nhưng phân công lao động cao.
Những hiện vật khảo cố cho thấy, bên cạnh nghề luyện kim, dân Văn Lang còn biết
làm nghề tơ tằm và vải.
Ở Trung Quốc dưới triều đại Tần thì bành trướng xuống phía Nam; năm 214 TCN
lập ra 4 quận mới: Quế Lâm, Mãn Trung, Tượng Quận, Nam Hải. Khi tràn xuống
phía Nam, quân Tần bị người Việt chống lại quyết liệt. Họ trốn vào rừng, đặt Thục
Phán làm thủ lĩnh và tiếp tục chống quân Tần. Thắng trận, Phán lên ngôi vua gọi là
An Dương Vương.
Vào cuối thế kỷ III TCN đời vua Hùng thứ XVIII, Văn lang bị khủng hoảng và suy
yếu. Âu Lạc phát triển cao hơn Văn Lang (208 – 179 TCN) cũng đủ để định hình
văn hóa dân tộc và giúp nền văn hóa này cộng với phong tục tập quán tồn tại suốt
1.000 năm Bắc thuộc: 1 nền văn hóa chung, có ngơn ngữ chung; khơng có Văn
lang – Âu lạc, người Việt bị đồng hóa từ lâu rồi. Người Việt có tục nhuộm răng
đen, ăn trầu cau, xăm mình.

10


Năm 218 TCN, nhà Tần đem quân đánh xuống phương Nam. Trước tình thế đó, 2
bộ tộc Tây Âu – Lạc Việt liên kết với nhau đánh quân Tần (214 – 208 TCN), với
chiến thuật: ngày ẩn, đem tấn công, cuối cùng đã đánh bại quân Tần, lập ra nước
Âu Lạc.
Thời Bắc thuộc, người Trung Hoa uống bằng miệng nhưng người Việt ăn uống đa
dạng, nổi bật là uống rượu bằng mũi; tục làm đầu ăn đất, ăn muối trong đám cưới.
Thời Âu lạc, trình độ chế tác vũ khí chiến tranh cao. Cao Lỗ chế tạo nỏ bắn 1 phát

10 mũi tên đồng; Triệu Đà về sau nhiều lần tấn công nhưng không được. Việc chế
tạo mũi tên đồng thể hiện lúc này, trình độ luyện kim đã phát triển. Luyện kim phát
triển mạnh => kinh tế phát triển, nhân dân chuyển dần về đồng bằng rồi làm chủ
vùng này. Khi có ngoại xâm thì nhân dân kháng chiến chống lại, cử tuấn kiệt là
Thục Phán chỉ huy đánh giặc => sức mạnh dân tộc. An Dương Vương lên ngơi,
ơng đóng đơ ở Phong Khê và xây thành Cổ Loa (còn gọi là Cổ Lũy). Thành Cổ
Loa được xem là tịa thành cổ với quy mơ bậc nhất của người Việt cổ. Thành được
xây thời An Dương Vương vào năm 205 TCN.
+ Vị trí: vùng Phong Khê (Đơng Anh, Hà Nội). Thành nằm giữa đồng bằng thể
hiện sự tự tin khai phá, giao lưu kinh tế giữa các vùng. Vùng đồng bằng ở thế trung
tâm đất nước. Đường bộ là đường thẳng giao thương tạo nên sự phát triển. Thành
Cổ Loa 3 lớp thành, nằm giữa đồng bằng, thể hiện sự tự tin bằng sức mạnh phòng
ngự 3 lớp: bên ngồi làm việc, có cư dân cư trú; đan xen các vòng thành là hào
nước liên kết hệ thống các sông (giống Trung Quốc: đào hào nước liên kết các
sơng Hồng Hà, Trường Giang, sơng Chảy…)
Phương pháp xây thành: lợi dụng điều kiện tự nhiên, tận dụng chiều cao đồi gò để
xây tường thành. Thành được xây theo phương pháp: đào đất đến đâu đắp hào đến
đó.
+ Thành Nội: chu vi 1.650 m, cao 5 m.
+ Thành Trung: chu vi 6,5 km, tường thành cao 12 – 16 m, chân rộng 30 m có 5
cửa.
+ Thành Ngoại: chu vi 81 m, cao 4 – 8 m, chân rộng 20 m có 3 cửa
11


Mỗi vịng thành đều có hào nước bao quanh. Bên ngồi liên hồn với sơng Hồng,
sơng Hồng.
Thời An Dương Vương, hệ thống ruộng Lạc còn nhiều (sinh vật phong phú, lúa tốt
và năng suất cao) thể hiện sự trưởng thành vượt bậc trong nhận thức của người dân
(mở rộng cư trú ra đồng bằng, ven biển là tiến bộ lớn của thời kỳ này, thể hiện sự

phát triển vượt bậc của dân tộc. Ngồi ra, văn hóa Nam Á là các xóm làng cịn bảo
tồn nhiều thành tựu của văn minh Việt cổ: lời nói, ngơn ngữ, phong tục tập quán
thể hiện tính dân tộc cao và tồn tại được hơn 1.000 năm Bắc thuộc => nếu khơng
có thì nhân dân ta bị Hán hóa mất rồi.

1.2.

Tập tục và pháp luật thời Văn Lang – Âu Lạc

Luật pháp thời Văn Lang – Âu Lạc là luật không thành văn, nhưng bước đầu
chuyển sang luật pháp sơ khai. Luật không thành văn đó là lệ làng, luật tục và tập
qn chính trị; luật thành văn gồm: văn bản đơn nhất, hội điển và pháp điển.
Luật pháp Văn Lang – Âu Lạc là khơng thành văn, đó là:
- Tập qn chính trị: là những quy tắc về điều hành công việc trong triều đình,
được hình thành trong q trình điều hành chính trị và một số nguyên tắc Nho giáo.
Ví dụ: Vua đầu tiên nhường ngôi cho con (tập tục truyền ngôi, về sau được các vua
bắt chước và coi như là tục lệ truyền thống của mình)
- Lệ làng: là nguồn luật cổ bổ sung cho luật pháp. Nó chính là quy tắc xử sự giữa
các thành viên trong cộng đồng do làng xã đặt ra, dần dần một số quy tắc trên biến
thành phong tục – tập quán (hương ước) là nguồn luật bổ sung. Lệ làng mang tính
chất tự quản và luật nhà nước có mối quan hệ với nó theo hình thức nhị ngun:
vừa thống nhất vừa độc lập.
Theo Mã Viện, luật Hùng Vương hơn luật Hán 10 điều chứng tỏ nước ta đã có luật
pháp và luật đó có từ trước khi Triệu Đà thơn tính Âu Lạc. Tuy nhiên, luật Văn
Lang – Âu Lạc là luật tục (luật không thành văn) tức là tập quán pháp, điều chỉnh
nhiều mối quan hệ xã hội, quan hệ hôn nhân – gia đình, quyền sở hữu và sử dụng
12


ruộng đất; người ta gọi khác là luật truyền miệng (luật do vua trực tiếp ban ra

không ghi thành văn bản; nhà Vua chỉ: gọi, sai, phán, triệu (những danh từ này là
luật)
Chính sự dùng chữ viết thắt nút là ở thời Văn Lang – Âu Lạc (ghi nhớ 1 sự kiện
đơn giản bằng cách thắt nút), nhìn chung nhà nước đã tạo ra 1 sự hình thành văn
minh Việt cổ bằng những tộc người gần gũi nhau về ngữ hệ, chủng tộc; gắn liền
với nông nghiệp trồng lúa nước và phong tục tập quán để tạo nên sự liên kết phong
tục bộ lạc, liên kết chính trị.
Kinh tế thời Âu lạc đa dạng: trồng và chăn nuôi gia súc; dùng cơng cụ sắt để cày
cấy; biết đắp đê phịng lụt; áp dụng phong phú các phương pháp canh tác để tạo ra
văn minh; thuật luyện kim phát triển và tiến từ vùng trung du xuống đồng bằng,
định cư và hình thành kết cấu xóm làng.
Chính trị - xã hội:
- Thành lập nhà nước sớm: Văn Lang (thế kỷ VII TCN) và Âu lạc (thế kỷ III TCN)
- 15 bộ, thiết lập bộ máy nhà nước truyền được 18 đời vua.
- Đóng đơ ở Phong Châu, Phong Khê và xây thành Cổ Loa

1.3.

Bộ máy chính quyền Trung Quốc đơ hộ nước ta

Chính quyền đơ hộ đặt ách thống trị của mình từ trung ương xuống tận địa phương
(quận, huyện). Năm 179 TCN, Triệu Đà đánh bại An Dương Vương, chiếm Âu Lạc
rồi chia thành 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân; đồng thời đưa người Hán sang ở lẫn
với người Việt, thực hiện chính sách đồng hóa tàn bạo nhằm biến người Việt thành
“người Hán” và xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Năm 111 TCN, sau khi đánh
bại nhà Triệu và chiếm lại Âu Lạc, nhà Hán lại chia nước ta thành 3 quận: Giao
Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam; hợp với 6 quận của Trung Quốc (Uất Lâm, Đạm Nhĩ,
Chu Nhai, Nam Hải, Hợp Phố…) thành châu Giao, với mục đích: xóa tên nước ta
trên bản đồ thế giới, biến nước ta thành vùng nội thuộc Trung Quốc.
13



Về thiết chế chính quyền đơ hộ, vua Hán Vũ đế cử các quan lại của mình sang cai
trị. Tuy nhiên, do sự phát triển của quy luật lịch sử cũng như để đối phó với cuộc
đấu tranh của nhân dân để ổn định tình hình Giao Chỉ, các triều đại của Trung
Quốc như Hán, Ngô, Tấn, Nam triều, Tùy, Đường đã nhiều lần thay đổi cách tổ
chức chính quyền sau cho phù hợp tình hình lúc đó. Cụ thể, thời lưỡng Hán (206
TCN – 220) tổ chức chính quyền ở Âu Lạc cũ bằng cách chia thành châu – quận –
huyện. Đứng đầu châu là Thứ sử (thành lập năm 106 TCN, đầu tiên là Thạch Đới),
đứng đầu quận là Thái thú; Đô úy (coi về quân sự), cuối cùng là huyện do Lạc
tướng đứng đầu. Thủ phủ của chính quyền đơ hộ đóng ở Mê Linh (Vĩnh Phúc).
Mãi đến sau khi đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, vua Quang Vũ đế nhà Đông Hán
cho bỏ chức Lạc tướng của người Việt và đặt lại chức Huyện lệnh, do người Hán
cai trị. Các triều đại sau bắt chước theo cách cai trị của nhà Hán, nhưng có thay đổi
nhiều (chia tách các châu, quận (thực chất theo xu hướng chia nhỏ các quận –
huyện để làm mất đi sự đồn kết, kiểm sốt chặt chẽ hơn); đặt lại tên các chức
quan cai trị, bổ sung nhiều thành phần nhân sự mới (sử ta ghi nhận có người Việt
tham gia chính quyền đơ hộ như Lý Tiến (Đơng Hán), Khương Công Phụ (thời
Đường)…). Mặc dù thực thi nhiều sự thay đổi chính quyền như vậy, nhưng chưa
bao giờ bộ máy chính quyền đơ hộ với tay tới được làng cổ người Việt (là nơi bảo
lưu văn hóa Việt).
Sau khi áp đặt ách thống trị lên nước ta, người Trung Quốc tiến hành chính sách
đồng hóa dân ta ra khắp quận, huyện, biến nước ta thành nội thuộc Trung Quốc.
Các chính quyền đơ hộ Trung Quốc ở Âu Lạc cai trị theo luật Hán kết hợp với lệ
làng người Việt, tuy nhiên việc cai trị theo luật này là không triệt để (nhiều người
chuyên quyền, cát cứ và thi hành chính sách tàn bạo mất lịng dân). Đồng thời với
với thực hiện chính sách thống trị tàn bạo, các quan lại đơ hộ đã thi hành chính
sách bóc lột triệt để: thời Hán là bóc lột dựa trên cống nạp hiện vật; thời Đường là
bóc lột dựa trên thuế khóa. Đặt mục tiêu xóa bỏ nước ta và biến nước ta thành vùng
nội thuộc Trung Quốc, chính quyền đơ hộ đã tìm cách xóa bỏ văn hóa làng Việt cổ,

trấn áp không tiếc tay phong trào đấu tranh của người Việt để thực hiện chính sách
đồng hóa cưỡng bức rất thâm độc.
14


Nhằm xóa bỏ ln văn hóa của người Việt cổ, các triều đại Trung Quốc đưa Nho
giáo (được Hán Vũ đế tơn làm quốc giáo năm 136 TCN) của mình áp đặt vào việc
cai trị đất nước ta. Bằng việc dạy chữ Hán (Tích Quang, Nhâm Diên), dạy phong
tục – tập quán của mình, Nho giáo từng bước đi sâu vào Âu Lạc. Về mặt khách
quan, Nho giáo góp phần tạo ra tầng lớp có học thức, truyền bá văn hóa Hán vào
sâu trong cộng đồng người Việt cổ vốn cịn giữ được tiếng nói thời xưa. Nó là điều
kiện để bọn thống trị cho rằng biến người Việt thành người Hán là cách duy nhất
để xóa bỏ truyền thống văn minh Việt cổ. Tuy vậy, Nho giáo truyền sang Việt Nam
không phát huy được ảnh hưởng nhiều và nhân dân ta vẫn có nhiều cách lưu giữ
nền văn hóa dân tộc. Về ngôn ngữ, do tiếng Hán một phần là chỉ được học ở trung
tâm lớn, ở làng xã thì vẫn dùng tiếng Việt (4000 năm vẫn cịn giữ lại tiếng Việt);
mất ngôn ngữ là mất luôn dân tộc. Các tập tục truyền thống (lễ nghi, tổ chức gia
đình…) được giữ nguyên trong các làng Việt cổ xưa, nơi mà giới thống trị chưa với
tới được từ trước và sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Ở Trung Quốc, do có truyền
thống làm ruộng cao và ý thức gia đình phụ hệ, gia trưởng nặng nề nhưng khi vào
Việt Nam, nó bị người Việt vốn sống rất dung hịa phản kháng mạnh mẽ vì họ
trọng nơng nghiệp (làm ở ruộng thấp), coi trọng tình nghĩa và vai trị của phụ nữ
trong gia đình. Quan niệm “phúc đức tại mẫu” đặc biệt trong cấu trúc nông nghiệp
lúa nước người Việt thể hiện sự cần mẫn của phụ nữ - người đem đến kinh tế gia
đình ổn định. Ngồi ra, theo triết lý vũ trụ (trời trịn – đất vng) thì người phương
Nam chú trong phồn thực (sinh nở) phù hợp với mơi trường nóng ẩm; phồn thực
trở thành truyền thống thể hiện cụ thể qua các lễ hội Việt Nam đối lập với văn hóa
trọng nam, khinh nữ của người phương Bắc.
Cha ông ta dùng chữ Nôm ghi tên nước. Đạo giáo thời Bắc thuộc có hai nhánh:
- Đạo giáo của Lão Tử được dùng như là tơn giáo chính thống, có từ thời Tấn (thế

kỷ III) chủ trương thuật trường sinh, ma quỷ.
- Đạo giáo bình dân: thờ ma quỷ, bùa phép => mê tín, cúng bái, bùa chú.
Sang Việt Nam, Nho, Đạo và Phật dung hòa với nhau. Đạo giáo được dùng để thờ
Thành hồng làng, ơng tổ nghề; Phật giáo truyền vào Việt Nam theo 2 con đường,
quy mơ nhất là con đường phía Nam đến. Phật giáo truyền bá mạnh mẽ, quy mô
15


lớn tập trung ở các trung tâm lớn, tiêu biểu là Luy Lâu (Bắc Ninh), sau này Phật
giáo Bắc tông truyền xuống giúp nhân dân có tập tục phong phú hơn: thờ Phật, thờ
cúng tổ tiên (phồn thực) và người có cơng, thành hồng làng… để lưu giữ lịng u
nước, phong tục tập quán ngàn xưa của dân tộc.
Pháp luật thời Bắc thuộc:
- Hình sự: quy định các tội hình sự sau có thể bị xử phạt nặng: phản loạn chống
chính quyền đơ hộ, tham nhũng, bn bán muối và sắt.
- Dân sự: liên quan đến sở hữu, chiếm hữu ruộng đất.
- Hơn nhân, gia đình: nó thuộc về luật dân sự trừ các trọng tội. Theo quy định hôn
nhân, trai kết hôn ở tuổi 20 – 50; gái từ 15 – 40; một số nơi trai 16, gái 13 đã kết
hôn.
Kinh tế thời Bắc thuộc: Thời kỳ này, địa chủ Trung Quốc tự do lấn chiếm, lập trang
ấp, bắt nhân dân cống nạp sản phẩm cho mình (và chính phủ đơ hộ, chính phủ
trung ương). Thời Đường bóc lột chủ yếu là tô, thuế (780; ruộng nộp tô, đinh nộp
dung, hộ nộp điệu). Tô là nghĩa vụ của người nhận ruộng, dung là nghĩa vụ của
người lao dịch quy ra sản phẩm, điệu là sản phẩm nông – công – thương buộc gia
đình phải nộp.
1.4.

Chính quyền tự chủ của Lý Bí, Khúc Thừa Dụ và Ngơ Quyền

Chính quyền tự chủ bắt đầu có mầm móng từ thời Hai Bà Trưng (40 – 42), phát

triển dưới thời Lý Bí với việc thành lập nhà nước Vạn Xuân. Ông là người đầu tiên
thành lập nhà nước tự chủ đầu tiên, định đô (cửa sông Tô Lịch), đặt niên hiệu là
Thiên Đức và quốc hiệu là Vạn Xuân; ông cũng là người đầu tiên xưng Đế (ngang
hàng với hoàng đế Trung Hoa). Ông cũng đã thành lập điện Vạn Thọ làm nơi bàn
việc nước của vua – quan, mở chùa Khai Quốc để kỷ niệm thành lập quốc gia đầu
tiên. Có thể nói, chính quyền Vạn Xn đã đặt nền móng vững chắc cho nền độc
lập dân tộc, cơ tầng văn hóa vững chắc, không thể phá vỡ.

16


Chính quyền họ Khúc: sau thời gian cực thịnh dưới thời Minh Hoàng nhà Đường
(712 – 756) kéo dài đến năm 823, nhà Đường suy yếu (vua Đường lên ngôi còn
nhỏ, ăn chơi hoang lạc và bị hoạn quan thao túng quyền lực; người ta gọi thời kỳ
này là Mạt Đường). Lợi dụng thời cơ đó, Khúc Thừa Dụ, người Hồng Châu – Hải
Dương nổi dậy và cướp được chính quyền về tay mình (905); độc lập của ơng lúc
này là hình thức vì ơng cịn phụ thuộc vào tấn phong của Trung Quốc. Khúc Thừa
Dụ được vua Đường phong làm Tiết độ sứ để cai trị nơi xa xôi, nhưng cũng là hình
thức vì thực chất, ơng đã xác lập chính quyền tự chủ. Hịa bình là hình thức, tự chủ
là thực chất và điều đó cũng cho phép ông và những người kế tục thực hiện đầy đủ
các chính sách tiến bộ của mình; tự chủ là chính xác (nhận phong tước của Trung
Quốc lúc ta còn yếu thế).
Cải cách của Khúc Hạo (907 – 917) là cải cách đầu tiên, đáp ứng được nhu cầu bức
thiết của xã hội thời đó là xóa bỏ cấu trúc xã hội cũ, dựng lên cấu trúc xã hội mới
cho nhà nước tự chủ, đặt nền móng cho thời kỳ tự chủ đầu tiên của dân tộc. Đầu
tiên, ông tiến hành cải cách hành chính để xóa bỏ cơ cấu đơn vị hành chính của
ngoại tộc và xác lập cấu trúc hành chính mới: lộ - phủ - châu – giáp – xã. Ơng chia
được cấu trúc hành chính như thế là vì ơng muốn xóa bỏ hố ngăn cách chính quyền
– nhân dân, chính quyền phải gần gũi, lắng nghe dân; chú trọng cải cách mạnh ở
chức năng của các đơn vị hành chính. Ở xã có hai chức quan quan trọng: chánh xã,

tá xã để quản lý công xã. Ngồi ra, ơng thực hiện chính sách bình qn thuế ruộng,
giảm nhẹ lực dịch, lập sổ hộ khẩu “chính sự cốt khoan dung, giảm đi cho dân yên
vui”; muốn độc lập thì phải khai thác các cơ sở quan trọng.
Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ (931 – 937) và Ngơ Quyền (938) đã cụ thể hóa sức
mạnh dân tộc, đập tan ách thống trị của Trung Quốc và thiết lập lại cơ tầng văn hóa
(khơi phục lại qua cải cách Khúc Hạo), sắp xếp lại mảnh vụn của văn minh Việt cổ.

Chương 2: Nhà nước phong kiến độc lập tự chủ và pháp luật Việt Nam (thế
kỷ X – thế kỷ XVII)

17


2.1.

Lược sử các nhà nước phong kiến Việt Nam

Nhà nước thời độc lập nó kế tiếp nhà nước tự chủ của họ Khúc, nhưng ở mức độ
cao hơn: thời Ngô đóng đơ ở Cổ Loa và xưng Vương, nhưng tới thời Đinh thì xưng
Đế (ngang hàng với Trung Hoa, trong xưng Đế, ngoài xưng Vương (làm phiên
thuộc Trung Hoa). Thời Lý, kinh đô được chuyển về Thăng Long thể hiện sự phát
triển cao của quốc gia, hướng tới sự trường tôn dân tộc. Vua Lý coi trọng Phật giáo
(Phật giáo ở phương Bắc được Việt hóa => được vua dùng để cai trị độc lập với
Trung Quốc). Về sau do nhu cầu tập trung cao quyền lực, vua Trần – Lê sơ bắt đầu
dùng Nho giáo vào cai trị => thành lập nền quân chủ quan liêu (cọi trọng thi cử, bỏ
tiến cử và nhiệm tử). Hình luật thời Lý là pháp luật thời độc lập, thấm nhuần tính
nhân văn của Phật giáo (dân tộc). Rồng thời Lý thân thể uyển chuyển chính là thể
hiện tinh thần đó. Rồng thời Trần thô kệt, mắt dữ dằn => 3 lần đánh thắng Mông –
Nguyên; luật thời Trần cũng phản ánh như thế (chuyên chế, phân biệt đẳng cấp
khắc nghiệt, khuyến khích nông nghiệp phát triển) => thể hiện sự thành lập vương

triều thống nhất. Nho giáo có vai trị lớn trong xây dựng luật pháp, tổ chức nhà
nước (nhất là nhà Lê sơ). Vụ Lê Văn Thịnh hóa hổ giết vua trong vụ án Hồ Dâm
Đàm phản ánh đấu tranh tăng quan – Nho quan, đồng thời phản ánh xu thế quan
liêu ngày càng tăng trong chính quyền.
Theo tập quán chính trị (do ảnh hưởng của Trung Hoa) nên ở chế độ phong kiến
Việt Nam, Vua có tước hiệu, niên hiệu…
+ Tên húy là tên vua trước khi lên ngôi; sau khi vua mất thì có Lệ kiêng húy (kiêng
tránh đặt tên theo tên Vua). Lệ này có từ năm 1232, lúc đầu người ta đặt tên để
tránh tên của Vua ví dụ Cảnh (Trần Thái tơng); Hoảng (Trần Thánh tơng), Khâm
(Trần Nhân tông), về sau lệ này lan sang cả tên bố vợ vua: Trần Liễu, Trần Thủ Độ
(kiêng húy không đặt), vợ vua, anh cả vua, ông bà nội…
+ Tên giả: tên của Vua khi xưng danh với Trung Quốc, mục đích là giữ được nền
độc lập. Nhiều Vua Việt Nam dùng tên giả khi xưng danh với Trung Quốc như Lê
Thái tông tên xưng danh với Trung Quốc là Lân; Lê Nhân tông xưng tên Vân với
18


Trung Quốc. Địa danh gắn với tên Vua bị đổi tên: Phù Dung đổi thành Phù Cừ
(Dung là tên húy vua Mạc Đăng Dung); Hoa đổi thành Huế (Hoa là bà Nguyễn Thị
Hoa, vợ vua Minh Mạng được Vua yêu nhất nhưng mất sớm); Phú Nguyên đổi
thành Phú Xuyên (Nguyên là tên vua Mạc (Mạc Phúc Nguyên); huyện Thanh
Giang (Nghệ An) đổi thành Thanh Chương (kỵ húy chúa Trịnh Giang); Cao Bình
đổi thành Cao Bằng (húy tên vua Quang Trung: Nguyễn Quang Bình). Thời
Nguyễn ban tên 22 lần, 47 chữ là húy khi sử dụng.
+ Đế hiệu: vua lên ngôi tự đặt (Vạn Thắng Vương, đế hiệu của Đinh Bộ Lĩnh); đế
hiệu lan sang quan lại: Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai (vua đặt)
+ Tên thụy: tên do con lên ngôi đặt cho vua trước (vua cha) khi ơng mất. Đinh
Tồn lên ngơi đặt tên thụy cho cha là Tiên hồng đế
+ Miếu hiệu: tên vua, nơi thờ vua (Miếu là Thái Miếu, nơi thờ Vua). Vua đầu là
Thái tổ, Thái tông. Sử sách gọi miếu hiệu để kiêng tên húy và có từ thời Lý.

+ Niên hiệu: tên do vua đặt, sử sách dựa vào đó định thời gian vua trị vì (Niên là
thời gian, hiệu là tên của vua dùng trong thời gian đó); qua đời làm vua thì đổi niên
hiệu mới và mỗi đời vua có thể đặt 1, 2 hay nhiều niên hiệu khác nhau trong thời
gian cai trị của mình. Niên hiệu có từ thời Đinh, căn cứ theo tên 12 con Giáp; ví dụ
Lê Thánh tơng có hai niên hiệu: Quang Thuận, Hồng Đức, về sau có vua đặt 1 niên
hiệu như Quang Trung – Nguyễn Huệ; Gia Long…
+ Quốc hiệu: tên quốc gia do vua đặt, đó là danh hiệu của vua. Ở Trung Quốc, tên
quốc gia là họ (hoặc nơi phát tích triều đại) như Tần Doanh Chính đặt tên nước là
Tần; Hán Cao tổ đặt tên nước là Hán (xuất phát từ nơi ông khởi nghiệp đầu tiên:
Hán Trung). Quốc hiệu Việt Nam – Trung quốc khác nhau (thể hiện tính độc lập); ở
Việt Nam quốc hiệu không đồng nhất với tên triều đại: triều đại gọi theo họ vua
(Trung Quốc gọi tên triều đại theo phẩm tước); quốc hiệu do vua đặt.
Quyền lực nhà vua: ở phương Đông, vua nắm trọn quyền lực: đặt pháp luật, quy
định xử phạt và thăng giáng quan lại, lương bổng. Vua nắm 3 quyền: hành pháp,
lập pháp và tư pháp. Vua nắm vương quyền đồng thời nắm luôn thần quyền (tế trời,
phong tước cho thần, điều động thần thánh), vua được thần thánh hóa. Đặc trưng:
19


quần áo vua mặc là long bào, vua ngủ là ngự; giường vua là long sàn; vua nhìn là
ngự lãm; thức ăn của vua là ngự thiện… Ở phương Đông, quyền lực của vua là vơ
biên, có bổn phận với trời, thần dân và khơng hại dân. Tạp qn chính trị luôn
đúng và các vua sau phải chấp hành, xử sự đúng.
Phương thức nghị đình: vua trước khi ra quyết định phải tham khảo ý kiến quần
thần; chức quan Ngự sử đài quan trọng vì có chức năng can gián vua, không cho
vua lộng quyền
Khoa cử: bổ nhiệm quan lại thông qua thi cử; chọn người đỗ đạt để làm quan (là
tập quán chính trị)
Hạn chế quyền của vua: là làng xã. Làng xã có tính tự quản cao, hạn chế quyền của
Vua xuống cơ sở “Phép vua thua lệ làng”. Quyền lực của quân chủ Việt Nam: vua

nắm trọn 3 quyền, các quan lại chỉ là phụ tá của vua, giúp vua thực thi quyền lực
Nguyên tắc truyền ngôi:
- Ngôi vua không thể phân chia
- Trọng nam (theo cùng họ, không khác họ)
- Trọng trưởng, trọng hiền
=> Không theo luật pháp thành văn,chỉ theo tập quán chính trị cơ bản.
Quốc tính: họ của vua ban tước cho quý tộc
Ngoại thích: người có quan hệ với vua thơng qua hơn nhân
Quan lại: người có chức vụ trong bộ máy nhà nước (quan: người có chức; lại:
người giúp việc quan ở công đường)
Quan liêu: liêu đọc chệch tiếng Hán là xiêu (tách khỏi xã hội), chỉ tầng lớp quan lại
có đặc quyền, đặc lợi riêng (tách rời khỏi bộ phận còn lại); Liêu là tách rời, xa rời.
Quan liêu là đội ngũ quan chức chuyên nghiệp, tinh thông công việc và giúp vua
mọi việc.
Quan lại có những hình thức tuyển dụng sau:
- Tiến cử: đề cử, khơng phân biệt dịng họ
20


- Nhiệm tử: tập ấm, thừa ấm (tiếng Nôm Tập ấm là ấm xung)

- Khoa cử: bản chất là thi cử để tuyển chọn quan lại có học thức, chuyên môn
nắm giữ chức vụ cao trong nhà nước.
Nho sĩ: tầng lớp có học thức, qua đỗ đạt mà làm quan; phương tây gọi là Hiệp sĩ
(knight)
Quan lại có 4 tước vị:
- Vương: là tước cao nhất ban cho anh chị em, con cháu, bác ruột… của vua,
không chia bậc. Nhiều triều đại chia thành Lục vương, Bát vương. Vương còn có
thân vương, tự thân vương.
- Cơng: có 2 bậc là quốc công và quận công, thường là tước này vua ban cho

hoàng tử để cai trị nơi biên ải (họ gần tước lớn, họ xa tước nhỏ).
- Phẩm: phẩm hàm, phẩm trật (trật tự phẩm hàm). Phẩm hàm có 9 phẩm nhỏ hơn
6 tước. Mỗi bậc phẩm chia thành các bậc nhỏ: chánh phẩm, tòng phẩm ra 18 bậc
phẩm hàm (9 là số thiên). Cửu phầm xuất hiện ở Trung Quốc thời Đường, Việt
Nam là thời Lý.
- Tư: tư cách đạo đức, là tước vị bảo trợ cho phẩm và tước. Theo Nho giáo, quý
tộc – quan lại là người có đạo đức (quân tử), đức độ nhiều phụ thuộc vào cấp bậc.
Tư có 24 bậc; tùy theo tước phẩm cao thấp mà tư ít hay nhiều (có phẩm tước là có
tư); số tư của từng bậc phẩm tước đứng sau hơn kém sau 1 tư. Thân vương là 24
tư; tước vương là không tư nào. Thứ dân là vô tư (để giáo hóa, răn dạy họ)
Nếu quan lại có lỗi sẽ bị xóa học hàm. Ở phong kiến Việt Nam, Trung Quốc,
phẩm tước (không phải chức vụ) là cơ sở để bổ nhiệm học hàm, cấp lương bổng.
Lương bổng: Lương là phát bằng tiền hàng năm (salary, paid monthly wage…),
Bổng là ban cấp ruộng công của làng xã cho quan lại để thu thuế (một phần mình
giữ lại, phần còn lại nộp cho nhà nước). Từ thời Lý về trước, quan lại được cấp
bổng, thời Lê sơ thì hồn thiện dần thông qua thi cử. Quan lại, quý tộc chỉ có chức
năng tư vấn, dự thảo các vấn đề để vua xem xét, tiến hành.
21


Phương thức chức vụ giữa vua – quan là Nghị định; họp giao ban gọi là phiên
triều; đại triều thường dùng trong các ngày lễ lớn: mừng thọ, đăng quang… mang
tính nghi lễ (khánh tiết); thường triều là thời tiết định kỳ theo tháng, ngày cho quan
lại về triều đình bàn việc nước; biệt triều là sự biến khẩn cấp. mang tính cơng vụ
Chức năng phụ tá, thực thi quyền lực của vua có 3 loại:
Quan lại giúp vua quản lý về việc trong các lĩnh vực, trong địa hạt được Vua
giao cho.
-

Quan lại nhân danh Vua áp dụng luật lệ của Vua cho tồn dân.


-

Quan lại tấu trình những kết quả của mình.

Phong kiến Việt Nam – Trung Quốc tồn tại 2 mối quan hệ chính trị cơ bản: vua –
tôi (tôi là quý tộc, quan lại); vua – thần dân (vua thay trời bảo vệ dân; thần dân
phải phục tùng vua). Hai quan hệ trên tương tác với nhau tạo ra trật tự quan liêu,
gia trưởng của phong kiến.

2.2.

Pháp luật nhà nước phong kiến Việt Nam

a.

Nguồn luật chủ yếu của pháp luật phong kiến Việt Nam

-

Luật không thành văn: lệ làng, luật tục, tập quán chính trị

-

Luật thành văn: gồm có văn bản đơn nhất, hội điển và pháp điển

+ Văn bản đơn nhất: có 5 loại là chiếu, lệnh, dụ, lệ, sắc. Vì mệnh lệnh của vua là
pháp luật nên vua nắm cả 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chiếu là văn
bản đầu tiên tập hợp những điều luật quan trọng, đặc biệt do vua ban cho quần thần
(tháng 8/1831, vua Minh Mạng ra chiếu cấm phụ nữ mặt váy); lệnh là công việc

vua giao quần thần thực hiện; dụ, lệ quy định những vấn đề cơ bản, lâu dài; sắc là
ban tước cho quan lại, quý tộc (chế độ quan liêu). Thời Lý – Trần, văn bản phổ

22


biến là lệnh và chiếu; thời Lê là lệnh, sắc và dụ; Nguyễn là sắc và chiếu… thể hiện
tính tập quyền ngày càng cao.

+ Hội điển: (luật hội tụ) là hình thức tập hợp các văn bản pháp luật để sử dụng kịp
thời, nhanh chóng và tiện lợi; nó bao quát các vấn đề của văn bản đơn nhất. Hội
điển là cách thức hình thành pháp luật theo 2 cách là thời gian, lĩnh vực. Hội điển
thời gian là hệ thống các văn bản pháp luật theo triều đại, đời vua; Hội điển lĩnh
vực là hệ thống các văn bản có liên quan đến các lĩnh vực; ví dụ hội điển quan chế,
tập hợp các quy định về chế độ quan liêu, hội điển ruộng đất là hệ thống các văn
bản về chiếm hữu, sử dụng và chuyển nhượng ruộng đất.
Nguồn gốc của Hội điển là từ cổ luật của Trung Hoa. Hội điển xuất hiện vào thời
Trần là bộ Quốc triều thông chế (1230, 20 tập). Nội dung của nó quy định về quan
chế hành chính, tổ chức quan lại. Quốc triều thường lễ nói về lễ nghi (tiếp sứ, đại
triều); Quân văn cách thức (1290) quy định mẫu, biểu, văn tự, công văn và quy
định cách thức viết văn tự; Hoàng triều đại điển (1241) quy định các vấn đề trọng
yếu trong nước… Về sau nhà Minh hủy diệt các loại văn tự trên hịng tiêu diệt trí
tuệ của người Việt.
Thời Lê sơ, hội điển phát triển rực rỡ: Thiên nam dư hạ tập (ban hành thời Lê
Thánh tông, 100 quyển) ghi chép chiến công đánh Chiêm Thành; niên hiệu của
Hoàng đế (Quang Thuận); phát triển nhất là Hội điển thiện chính thư (luật lệ ban
hành đầu tiên), Quốc triều thư khế (quy định thể thức: điểm chỉ, ban tước, chúc
thư, văn tự chiếu cố, sang nhượng; Quốc triều chiếu lệnh (ban hành thời Dụ tơng
gồm có sắc lệnh, chiếu, lệnh quy định công việc của 6 bộ); Lê triều hội điển (sắp
xếp các hoạt động không theo chức năng của Lục bộ). Thời Nguyễn về sau cũng

chú ý hội điển, thể hiện ý muốn duy trì chế độ phong kiến cao độ: Khâm định Đại
Nam hội điển sử lệ (Minh Mạng) quy mô lớn.
+ Pháp điển: là các bộ luật cụ thể; nguồn gốc của nó cũng từ cổ luật của Trung
Hoa, khái quát và tập hợp lại theo từng lĩnh vực cụ thể. Mỗi lĩnh vực sẽ có bộ luật
khác nhau: trọng tội, ăn cắp => luật hình sự; ruộng đất, hơn nhân => luật dân sự;
23


luật tố tụng… Hai cổ luật đầu tiên là Hình thư, Hình luật (hiện khơng cịn). Hai bộ
luật tiêu biểu là Quốc triều hình luật (1483) và Hồng Việt luật lệ (1815)
+ Cải cách Lê Thánh Tông (1460 - 1497):
1. Nhà nước:
Ở triều đình, vua bãi bỏ chức Tể tướng và chấp nhận chức Hành khiển (Nguyễn
Trãi là Nhập nội hành khiển, thay cho chức Đại hành khiển; Tam tư). Chức Tam
thái, Tam thiếu được giữ lại.
Để ngăn chặn sự chuyên quyền vào tay 1 người, Lê Thánh tông lập ra:
+ Lục bộ (6 bộ, đứng đầu là Thượng thư)
+ Lục tự:
- Đại lý tự: xét xử các vụ án
- Thái thường tự: lễ nghi, âm nhạc cung đình
- Quang lộc tự: phụ trách hậu cầu đồ dùng trong nghi lễ
- Thái bộc tự: xe ngựa cho vua
- Hồng lô tự: xướng danh Tiến sĩ, an táng quan lại qua đời và đón người ngoại
quốc.
- Thượng bảo tự: đóng ấn, triện vào quyển thi của thí sinh trong thi Hội.
+ Lục khoa: Lại khoa; Hộ khoa; Lễ khoa; Binh khoa; Hình khoa; Cơng khoa.
+ Hàn lâm viện, Ngự sử đài.
Ở địa phương, vua lập 12 đạo thừa tuyên, 1 phủ. Biên giới Đại Việt thời điểm 1471
kéo dài đến đèo Cù Mơng (Phú n); ở đạo thừa tun thì lập Tam ty (kiềm chế
nhau chống nạn cát cứ) gồm: Thừa ty (hành chính, dân sự, tài chính); Đơ ty (qn

sự, dành cho chức quan Tứ phẩm); Hiến ty (giám sát, xử lý, dành cho quan lục
phẩm). Dưới đạo là lộ, phủ, châu, xã nhưng xã là lĩnh vực ông lấn tới mạnh nhất
(1483). Ơng đặt ở xã có 3 cấp: Đại xã (600 hộ), Trung xã (500); Tiểu xã (300);
đứng đầu là Xã trưởng (Đại xã là 5 người; Trung – Tiểu xã là 3 – 4 người). Xã
trưởng được bầu theo tiêu chuẩn: người già, sinh đồ, thư viện; anh em thân thích
24


không làm Xã trưởng (tránh bè phái). Xã trưởng quản lý làng xã, lập Hương ước
chặt chẽ. Với việc cải cách ra tận làng xã, Lê Thánh tông đả hạn chế tối đá tính tự
trị của làng xã, tăng cường quyền lực cho trung ương. Lần đầu tiên, phong kiến
trung ương can thiệp sâu vào tận làng xã
Khoa cử: phát triển rực rỡ với Nho giáo là tư tưởng chính thống. Thi Hương trong
năm ở các đạo (cấm kẻ phạm tội, phường chèo khơng đi thi), đỗ thì làm cử nhân.
Thi Hội tổ chức 3 năm/lần; Thi Đình tổ chức trong triều đình, vua làm giám khảo
để xét đỗ Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa, Hoàng Giáp, đệ tam giáp.
2. Pháp luật:
Luật Hồng Đức (cịn gọi là Lê triều hình luật) là đỉnh cao nhất trong cải cách của
Lê Thánh tông và hệ thống cổ luật Việt Nam. Luật ra đời năm 1483, có 13 chương,
722 điều và là bộ luật quan trọng. Đây là thời kỳ ổn định quốc gia nên ban hành
luật pháp điều chỉnh quan hệ xã hội, chế độ ruộng đất. Các chương trong bộ luật
Hồng Đức (cịn gọi là Quốc triều hình luật):
- Chương Danh lệ: 49 điều, quy định trọng tội (thập ác, mưu phản bị giết; ngũ
hình). Bát nghị (8 hạng người được chiếu cố bằng cách phạt tiền, miễn trách nhiệm
hình sự). Luật của phong kiến Việt Nam là hình sự; luật hình sự là bộ luật quy định
những hình thức xử phạt đối với các tội danh: xâm phạm xã hội, gây rối an ninh
trật tự; trọng tội với công dân. Ngồi ra cũng có những quy định khơng phải hình
sự (Trung quốc khơng có điều này); việc thi hành án về hình sự, dân sự đều qua tố
tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, tuyên án)
- Chương Vệ cấm: 47 điều quy định các tội liên quan đến xâm phạm nơi ở của vua

và hoàng tộc.
- Chương Vi chế: 144 điều quy định hình phạt với tội lạm dụng chức vụ
- Chương Quân chính: 43 điều, quy định các tội về quân sự (bỏ ngũ, trốn lính, đầu
hàng giặc)
- Chương Hộ hơn: 58 điều, quy định về hình phạt liên quan tới hộ tịch, hộ khẩu,
hôn nhân – gia đình.
25


×