PHẦN THỨTƯ
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỈ CẬN ĐẠI
CHUÔNG V
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT T ư SẢN
Từ thế kỷ XV - XVII, ở phương Tây chế độ phong kiến
lâm vào thời kỳ khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Quan hệ
kinh tế tư bản chủ nghĩa hình thành và phát triển. Giai cấp tư
sản ra đời, là giai cấp tiến bộ, đại diện cho lực lượng sản xuất
mới. Giai cấp tư sản lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động,
tiến hành cách mạng tư sản, lật đổ chế độ phong kiến, thiết
lập nhả nước tư sản.
Cuối thế kỷ XVI, cách mạng tư sản nổ ra đầu tiên ở Nê
đéc lan.(l> Cuộc cách mạng thành cơng, nhưng ảnh hưởng của
nó khơng sâu rộng. Đến giữa thế kỷ XVII, cách mạng tư sản
ở Anh bùng nổ và giành thắng lợi. Cách mạng tư sản Anh có
ảnh hưởng lớn đến tiến trình của lịch sử thế giới. Nên nó
được coi là cái mốc mở đầu thời kì lịch sử thế giới cận đại.
(1). N ê đéc lan; nghĩa là "đất thấp", gồm lãnh thổ các nước Hà Lan, Bi, Lúc
xâm bua và một s ố vùng thuộc Đ òng Bắc nước Pháp ngày nay. V ới Ihắng lợi
của cuộc cách mạng tư sàn, các tỉnh miền Bắc N ê đéc lan thành lập một nước,
mang tên tình lớn nhâì: Hà Lan.
217
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
Tiếp đó, trong thế kỷ XVIII-XIX, cách mạng tư sản thắng lợi
ở Pháp, Mĩ, Nhật và nhiều nưốc khác ở Châu Au.
N hư vậy, Nhà nước tư sản ra đời là hệ quả tất yếu của quá
trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là
thành quả trực tiếp của cách mạng tư sản.
Từ sau cách mạng tư sản, đến cuối thế kỷ XIX là thời kỳ
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
A. NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ NGHỊ VIỆN ANH
Là sản phẩm của cuộc nội chiến cách mạng chống phong
kiến không triệt để, nhà nước tu sản Anh điển hình cho chính
thể qn chủ nghị viện.
Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, Anh là
nước tư bản lớn nhất thế giỗi, là trung tâm áp bức, bóc lặt
nhân dân lao động Anh và nhân dân lao động thế giới.
I.
CÁCH MẠNG TƯ SẢN VÀ S ự R A ĐỜI NHÀ NUỠC
TƯ SẢN ANH
Đến giữa thế kỷ XVII, nước Anh vẫn là một nước quân
chủ chuyên chế phong kiến. Mâu thuẫn giữa giai cấp phong
kiến với giai cấp tư sản và nhân dân lao động ngày càng gay
gắt. Trước khi cuộc nội chiến cách mạng bùng nổ, phong
trào đấu tranh chống phong kiến đã phát triển mạnh mẽ.
Trước hết, đó là những cuộc nổi dậy khởi nghĩa của quần
chúng. Đồng thời có cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhà vua vói
tư sản diễn ra ở nghị viện. Lúc này hầu hết nghị viện là tư
sản hoặc quý tộc mới (quý tộc tư sản hoá). Nên nghị viện là
dinh luỹ chính trị của giai cấp tư sản.
Quá trình cách mạng tư sản Anh diễn ra qua hai cuộc nội
218
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
chiến: cuộc nội chiến lần thứ nhất (1642-1646) và cuộc nội
chiến lần thứ hai (1648). Do cao trào đâu tranh cua quán
chúng và áp lực của nghị viện, trước ngưỡng cửa của cuộc
nội chiến, vua Sáclơ I cùng các quý tộc trung thành đã bỏ
Luân Đôn và chuyến sang thành phị' Oxpho. Như vậy, lúc
này có hai chính quyền song song: Chính quyền phong kiến
của nhà vua ở Oxpho, nghị viện ở Ln Đơn thực hiện chức
năng chính quyền của tư sản. Nghị viện tuyên bố giải tán
quân đội nhà vua và lập thành quân đội của nghị viện.
Ngày 22/8/1642, vua Sáclơ I chính thức tuyên chiến với
lực lượng cách mạng (lực lượng tư sản tiến bộ và toàn thể
quần chúng nhân dân). Lúc này, xuất phát từ quyền lợi khác
nhau, nội bộ nghị viện phân hoá thành hai phái: Phái trướng
lão chiếm đa số, đại diện cho tầng lớp đại tư sản, chủ trương
thoả hiệp với vua, coi chiến tranh là phương tiện để ép vua
phải chịu nhượng bộ một số quvền lợi. Phái độc lập chiếm
thiểu số trong nghị viện, đại biểu cho quyền lợi của tầng lớp
tư sản bậc trung, được sự ủng hộ của đông đảo quần chúna
nhân dân, có thái độ kiên quyết với nhà vua hơn. Thái độ đối
với chiến tranh và cuộc tranh giành quyền lãnh đạo trong nội
bộ giai cấp tư sản có ảnh hường trực tiếp đến q trình diễn
biến của nội chiến cách mạng.
Lúc đầu quân đội của nghị viện liên tiếp bị thất bại.
Nhưng sau đó quân đội của nghị viện, do được cải tổ lại mà
trong đó nịng cốt là đạo quân kị binh của Crôm Oen, dã
nhanh chóng phản cơng thắng lợi. Crỏm Oem là một trong
những lãnh tụ xuất sắc của phái độc lập, đồng thời trở thành
lãnh tụ cùa cách mạng tư sản. Bọn sĩ quan của phe trưởng lão
bị loại, quân đội nằm trong tay phái độc lập. Năm 1646, Sáclơ
I bị bắt. Sau cuộc nội chiến lần thứ I. phái đôc lâp khống chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
219
được nghị viện. Phái độc lập lại chủ trương thương lượng với
vua để hợp pháp hố chính quyền tư sản do họ nắm giữ và
không đáp ứng các yêu cầu của quần chúng nhân dân.
Trong lúc phái trưởng lão và sau đó là phái độc lập tìm cách
thương lượng vói nhà vua, thì Sáclơ I vẫn ngoan cơ' và tìm cách
phục hồi chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến. Sáclơ I trốn
khỏi nhà giam và tập hợp lực lượng phản kích lại quân cách
mạng. Cuộc nội chiến lần thứ hai bùng nổ. Quân đội cách
mạng do Crôm Oen chỉ huy đánh bại quân đội nhà vua. Đến
tháng 8/1648 cuộc nội chiến kết thúc. Sáclơ I lại bị bắt.
Trước áp lực của quần chúng nhân dân, ngày 23/12/1648,
nghị viện trong tay phái độc lập thông qua sắc lệnh xét xử nhà
vua. Ngày 4/1/1649 nghị viện thông qua nghị quyết, khẳng định
quyền tối cao của hạ nghị viện trong bộ máy nhà nước (kể cả
đối với thượng nghị viện, nhà vua). Nghị quyết viết:
"7. Nhân dân, dưới quyền lực của thượng đế, là gốc rễ
của mọi chính quyền chân chính.
2. Hạ viện do nhân dân bầu ra, có quyền lực tối cao
trong quốc gia.
3. Những gì hạ viện tun bơ'là pháp luật thì nó có hiệu
lực, dù cho các thượng nghị sĩ, nhà vua có phản bác".
Nghị viện cử ra tồ án tối cao gồm 135 ủy viên, phụ trách
xét xử nhà vua. Ngày 30/1/1649 Sác lơ I phải lên đoạn đầu đài.
Ngày 19/5/1649, trước sức mạnh đấu tranh của quần
chúng, nền cộng hồ được tun bố chính thức thành lập. Hạ
nghị viện nắm quyền lập pháp. Thượng nghị viện bị giải tán.
Quyền hành pháp được giao cho nội các do nghị viện bầu ra.
Những người của phái độc lập chiếm ưu thế trong chính
220
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
quyền nhà nước tư sản. Tầng lớp sĩ quan quân đội đứng đầu
là Crôm Oen. nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Như vậy, lúc đầu nhà nước tư sản Anh mang chính thể:
Cộng hồ nghị viện và chính thể này chỉ tồn tại trong một
thời gian ngắn.
II.
NHÀ NUỚC SAU CÁCH MẠNG TƯSẢN. SựTHIÊT
LẬP CHÍNH THỂ QUÂN CHỦ NGHỊ VIỆN VÀ T ổ CHỨC
CỦA Bộ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Sự thiết lập chính thể quân chủ nghị viện
Sau khi cuộc nội chiến cách mạng kết thúc, quần chúng
nhân dân tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ, địi chính quyền tư sản
phải thực hiện lời hứa với quần chúng cách mạng. Giai cấp tư
sản rất lo sợ phong trào của quần chúng nhân dân. Vì vậy,
giai cấp tư sản, một mặt thẳng tay đàn áp phong trào quần
chúng, mặt khác sẩn sàng thủ tiêu nền cộng hồ đổ xây dựng
một chính quyền có "bàn tay sắt" vừa có đủ sức mạnh trấn áp
phong trào trong nước, vừa có khả năng chiến thắng những
quốc gia cạnh tranh bên ngồi.
Năm 653, Crơmm Oen và Hội đồng sĩ quan của ơng ta đưa
ra một văn bản có tính lập hiến, nhưng với cái tên kỳ quặc là
"cơng cụ điều hành". Theo vãn bản này, những công dân phải
có thu nhập hàng năm từ 200 bảng mới có đủ tư cách cử tri bầu
hạ nghị viện. Quy định này loại phần đông dân chúng ra khỏi
chế độ bầu cử. Văn bản đó tước bỏ quyền lập pháp, quyền tha
thuế của nghị viện và-tập trung vào quan bảo hộ. "Cơng cụ (liều
hành " ghi đích danh Crơm Oen là quan bảo hộ.
Từ đó. nghị viện (tức hạ nghị viện) chỉ cịn là hình thức.
221
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
các nghị sĩ được chọn cẩn thận. Crôm Ocn mang danh "lìliù
h ọ ' nhưng đã trở thành kẻ độc tài, nắm mọi quyền hành,
tổng tư lệnh quân đội, kiểm tra tài chính và tồ án. quyết
định chính sách đối nội và đơi ngoại. Tồn quốc chia làm 11
khu đứng đầu là thông đốc - các tướng tay chân cùa Crôm
Oen. Trật tự quân sự, cảnh sát ngự trị trong cả nước. Như
vậy, nền cộng hoà đã bị thủ tiêu.
bảo
Tuy vậy, liều thuốc đó cũng khơng cứu được chính quyền
tư sản thốt khỏi những khó khăn ngày càng trầm trọng. Làn
sóng cãm phẫn của quần chúng nhân dân vẫn khơng ngừng
bùng lên và lan tràn trong tồn quốc, cơng thương nghiệp bị
đình trệ. Tinh hình trên làm cho bọn đại tư sản và q tộc mới
có khuynh hướng bảo hồng khơng tin tưởng ở sức mạnh của
chính quyền "bảo hộ" và muốn thay thế bằng một chính quyền
khác, một chính thể khác. Tướng Môncơ, tư lệnh quân đội
Anh ở Xcốt len, đại diện cho khuynh hướng đó, đưa quân về
Luân Đơn ủng hộ phái tư sản bảo hồng. Chế độ hai viện cùa
nghị viện được phục hồi và phần lớn nghị viện là các phần tử
cánh hữu. Đồng thời năm 1660, Sáclơ II đang lưu vong ở nước
ngoài, được mời về nước lên ngôi vua. Năm 1685 Sáclơ II
chết, em là Giêm II nối ngôi vua, nhưng chỉ được cai trị trong
3 năm. Các vị vua này đều không muốn nằm trong khn khổ
của chính thể qn chủ nghị viện, mà đã từng bước tìm cách
khơi phục chế độ qn chủ chuyên chế phong kiến, đe dọa địa
vị và quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì vậy những đại biểu của
tư sản và quý tộc mới trong Đảng Uých (tiền thân của đảng
Bảo thủ, gồm chủ ngân hàng, thương nhân, chủ đồn điền,...) và
đảng Tôry (tiền thân của đảng Tự do gồm các địa chủ) hợp tác
với nhau, để tìm cách lật đổ nền thống trị của Giêm II và tìm
một vị quân vương khác dễ sai khiến hơn. Người đó là Vin
2' ) ' )
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
hem Orãng giơ. về danh nghĩa dòng ho. Vin hem có đủ tư
cách thay thế ngơi vua, vì ơng ta là con rể cua Giêm II. về
ihưc tế Vin hem là nhà tư sản. Đầu tháng 11 năm 1688, được
sự chỉ đạo và ùng hộ của giai cấp tư sản, Vin hem dần quán vổ
Luân Đôn, lật đổ Giêm II và lên ngôi vua, lấy danh hiệu là Vin
hem III. Để đảm bảo chắc chắn địa vị, quyền lợi cùa giai cấp tư
sản và quý tộc mới, tháng 2/1689, nghị viện thòng qua "đạo luật
về quyền hành". Theo đạo luật này, quyền lực nhà nước tập
trung vào nghị viện, nhà vua khống có thực quyền. Đạo luật về
quyền hành quy định:
1. Mọi đạo luật và mọi thứ thuế chỉ đều do nghị viện quyết
định.
2. Khơng một ai, ngồi nghị viện, có thể chấm dứt hiệu lực
của đạo luật.
3. Bảo đảm sự tự do tranh luận tại nghị viện.
4. Hàng nãm, nghị viện xác định thành phần và số lượng
quân đội, xét duyệt kinh phí quốc phịng.
Đồng thời tư sản và phái quý tộc đã đi tới những thỏa hiệp
sau:
- Giai cấp tư sản chấp thuận để giới quý tộc tham gia vào bộ
máy nhà nước. Những quý tộc ruộng đất vẫn được giữ nguyên
quyền lợi ruộng đất, nhưng việc kinh doanh ruộng đất không
được đi ngược lại quyền lợi của giai cấp tư sản.
- Các nghị sĩ quý tộc phải bỏ phiếu đồng ý cho các đạo luật
phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản.
Đạo luật về quyền hành và nhũng thoả hiệp của liên minh
tư sàn với quý tộc trở thành cơ sở pháp lí và sự bền vững của
nền quân chủ lập hiến, là một trong những nguồn của hiến pháp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
2T3
khơng thành văn bản ở Anh.
Từ đây, chính thể qn chủ nghị viện đã được xác lập. Anh
là nước có nẻn quân chủ nghị viện sớm nhất. Sau cách mạng tu
sản, giai cấp tư sản Anh phải xố bỏ hình thức nhà nước cộng
hồ nghị viện và thay vào đó là chính thể qn chủ nghị viện vì:
- Hồng sợ trước lực lượng cách mạng quần chúng nhân
dân, giai cấp tu sản phải liên minh với thế lực phong kiến cũ để
bảo vệ địa vị, quyền lợi của mình, tức là phải thiết lập nhà nuớc
tư sản dưới hình thức quân chủ nghị viện.
- Cuộc cách mạng tu sản Anh chống phong kiến khơng triệt
để. Sau cách mạng, tuy chính thể quân chủ chuyên chế đã bị
xoá bỏ, nhưng thế lực phong kiến vẫn tồn tại và là lực lượng
chính trị trong xã hội. Sự cấu két giữa giãi cấp tư sản và thế lục
phong kiến được phản ánh ở thượng tầng kiến trúc, là bình thúc
nhà nước quân chủ nghị viện mà quyền lực nhà nước tập trung
vào nghị viện.
- Do tập quán và tâm lí chính trị truyền thống, chế độ quận
chủ phong kiến đã từng tồn tại hàng trăm năm. Sau cách mạng
tư sản, trong thành phần giai cấp tư sản có tầng lóp vốn xuất
thân từ quý tộc phong kiến, tức quý tộc tư sản hoá. Nên hình
ảnh một qn vương vẫn cịn sống động trong tâm lí chính trị
của họ. Việc thiết lập hình thức qn chủ lập hiến cịn nhằm hồ
hợp được với Châu Âu phong kiến lúc đó.
2.
Q trình hình thành ''hiến pháp không thành ván".
Tổ chức bộ máy nhà nước q u ân chủ nghị viện
Sau khi được xác lập và những năm tiếp theo (từ cuối thế
kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX), thể chế của
nền quân chủ lập hiến ở Anh được hoàn thiện và định hình
224
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
từng bước. Quá trình này được thê’ hiện bằng một số đạo luật
bổ sung và đặc biệt là theo tiền lệ (sự hình thành các tập
qn chính trị). Đó cũng là q trình hình thành hiến pháp
khơng thành văn của Anh. Cụ thể sau đây là một số minh
chứng tiêu biểu:
Luật về quyền hành 1689 dần dần được bổ sung:
- “Văn kiện ba năm" năm 1694 quy định nhiệm kì của hạ
viện là 3 năm. Từ những năm 1870, nhiệm kì của hạ viện là 7 năm.
- "Văn kiện" năm 1701 đặt cơ sở bước đầu hình thành hai
nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc "chữ ký thứ hai". Nguyên
tắc này là bất cứ văn kiện nào của nhà vua để có hiệu lực thì
cần phải có chữ ký thứ hai - chữ ký của thủ tướng hoặc cùa
một bộ trưởng bộ có liên quan tới vấn đề có ghi trong văn
bản đó. Nãm 1711, nguyên tắc "chữ ký thứ hai" được bổ
sung thêm nguyên tắc: không chịu trách nhiệm của nhà vua,
nhà vua không được làm điều ác, người phải chịu trách
nhiệm về văn bản của vua là bộ trưởng hoặc thủ tướng. Mục
đích thực tiễn của nguyên tắc chữ kí thứ hai là hạn chế quyền
lực của hồng đế. Ngun tắc thứ hai là "khơng thay thế
quan tồ". Mục đích ban đầu của nguyên tắc này là ngãn
ngừa sự chuyên quyền của nhà vua. Nguyên tắc này là nhà
vua bổ nhiệm các thẩm phán, nhưng việc thay đổi các quan
toà lại thuộc quyền của nghị viện.
Trong thế kỷ XVIII - XIX cũng là quá trình hình thành
tiền lộ pháp được gọi là nguyên tắc "chính phú trácli nhiệm".
Trong luật pháp thành văn, nội các chưa bao giờ tồn tại.
Nhưng trên thực tế dần dần nó được hình thành và nó khơng
chỉ hoạt động, mà ngày càng được củng cố. Nhờ vào nghị
viện, nội các hạn chế được quyền lực cùa nhà vua. Song cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
225
nảy sinh những mâu thuẫn giữa nghị viện và nội các vê
quyền hạn. Do nghị viện nắm quyền lập pháp, quyết định
ngân sách,... nên nội các muốn tồn tại được thì phải được sự
ủng hộ của đa số thành viên hạ viện. Và dần dần hình thành
tập qn chính trị: nghị viện giành cho mình quyén giám sát
nội các, hay nói cách khác, chính phủ phải có trách nhiệm
trước nghị viện (cụ thể là trước hạ viện).
Ngoài ra một loạt các nguyên tắc cơ bản khác cùa chính
thể quân chủ lập hiến cũng dần dần được định hình theo con
đường "tiền lệ pháp", như tập quán truyền ngôi vua, mổi
quan hệ giữa thượng viện và hạ viện V.V.. Tổng hợp những
vấn đề cơ bản mang tính ngun tắc đó, được người ta gọi là
"hiến pháp không thành văn" của nước Anh.
Vậy tại sao nước Anh tư sản chỉ có hiến pháp khổng
thành văn, mà khơng có hiến phấp thành văn nhu các nước tu
sản sau này.
Thứ nhất, nhà nuớc tư sản Anh là nhà nước tư sản đầu
tiên. Cuộc cách mạng tư sản Anh cũng là cuộc cách mạng
luật pháp lớn lao đầu tiên. Nó có nhiều sáng kiến pháp luật
nổi tiếng, nhưng không thể sáng tạo đầy đủ được. Trong đó
nó chưa nghĩ ra được hình thức hiến pháp.
Thứ hai, ở Anh các nguyên tắc và những quy chế mang
tính lập hiến tạo nên chính thể tư sản là kết quả của cả một
quá trình đấu tranh lâu dài giữa giai cấp tư sản và thế lực quý
tộc cũ. Nên ngay từ đầu khơng thể có một văn bản cơ bản
mang tính hiến pháp đầy đủ.
Cuối cùng, chính thể qn chủ nghị viện Anh được định
hình như sau: chính thể này gồm ba bộ phận cơ bản.
226
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
+ Hồng đế;
Hồng đế Anh truyền ngơi cho con trai, nếu khơng có
con trai thì được truyền ngơi cho con gái. Người muốn lên
ngơi hồng đế phải là người nghiêm túc. trong sạch, theo nếp
sông "khuôn vảng lliước ngọc" cúa lẻ giáo phong kiến, khỏng
được kết hôn hai lần trở lên, khơng ngoại tình, phải là người
theo quốc giáo nước Anh.
Hoàng đế là nguyên thủ quốc gia. Nhưng hoàng đế chi
nặng về vai trị tượng trưng. Mọi hoạt đơng của hồng đế chi
nhằm một mục đích chính thức hố về mật nhà nước các hoạt
động của nghị viện, của chính phủ. Mọi quyết định của hồng
đế chỉ có hiệu lực thực thi khi có chữ ký kèm theo cúa thú tướng.
Tóm lại: Hồng đế khịng có thực quyổn và đúiiíỉ như câu
ngạn ngữ: "nhà vua trị vì, nhưng khống Ctn Trị".
+ Nghị viện
Nước Anh là quê hương của nghị viện tư sản. Thịi kì chủ
nghĩa tư bàn tự do cạnh tranh là thời hồng kim cua Ìighi
viện. Nghị viện thật sự có ưu thế hơn hẳn các cơ quan nhà
nước khác. Lúc bấy giờ, người Anh có câu ngạn ngữ "nghị
viện có quyền được làm tất cả, chi trừ wệc biến đàn ỏng
tliành đàn bá".
Nghị viện có những quyền hạn:
- Quyền lập pháp.
- Quyền quyết định ngân sách và thuế.
- Quyền giám sát hoạt động của nội các, báu hoặc bãi
nhiệm các thành viên của nội các.
Vai trò và q u v ề n hạn c ủ a nehị Viện kí» n h ú vậy là d ể hạp
chế tới mức tối đa quyền hạn của nhà vua, làm chu ngai \ănjỊ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
2 77
trở thành hư vị.
Nước Anh cũng là nước có cơ cấu hai viện vào loại sớm
nhất. Sau khi xác lập chính thể qn chủ nghị viện, thượng
nghị viện được khơi phục. Dần dần cơ cấu tổ chức, chức
năng và quyẻn hạn của nó được định hình.
Thượng nghị viện hay cịn gọi là viện nguyên lão, đúng nhu
tên gọi, gồm: đại quý tộc mới, không phải qua bầu cử mà do
tầng lớp đại tư sản quý tộc cử ra. Lúc đẫu thượng nghị viện có
uy quyền hơn hạ nghị viện. Dần dần, do là đại diện của thế lục
bảo thủ, lỗi thời, đã hết vai trò lịch sử trong xã hội, nên thượng
nghị viện vừa hoạt động rất hình thức, mang tính chất danh
nghĩa, vừa là thế lực kiẻm chế và đối trọng của hạ viện. Vai trò
kiềm chế và đối trọng đó được thể hiện ở chỗ: khi có thuợng
viện, ít nhất trong công đoạn làm luật, làm cho việc thông qua
các quyết định phải được tiến hành dài hơn, vói nhũng thủ tục
rườm rà, để ngăn chặn sự quá tả, vội vàng của hạ nghị viộn.
Thượng nghị sĩ được hình thành từ bốn nguồn sau:
- Thượng nghị sĩ là những quý tộc có phẩm hàm (tước
vị). Trong đó từ bá tước trở lên thì được cha truyẻn con nối
chức thượng nghị sĩ.
- Các thủ lĩnh tôn giáo đương nhiệm
- Các thủ tướng Anh hết nhiệm kì.
- Một số khác do đích thân hồng đế bổ nhiệm.
Hạ nghị viện đại diện cho các tầng lớp trong cư dân và
do dân bầu ra, nên còn được gọi là viện dân biểu. Buổi ban
bầu, quyển hạn của hạ nghị viện và chế độ bầu cử còn bị hạn
chế rất nhiều. Lúc đầu, sau cuộc chính biến của Vin hem
năm 1688, trong số gần 7 triệu dân Anh, chi có 25 vạn người
có quyền tuyển cử. Gần một nửa số hạ nghị sĩ là những người
228
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
được bầu ra từ những "thị trấn hoang tàn"01 . Đó là những
vùng rất ít dân cư, thường bầu và cử theo ý muốn của chúa
đất. Khi mảnh đất được bán đi, thì người chủ mới thay thê
người chủ cũ làm hạ nghi sĩ. Ghế nghị viện được mua đi bán
lại. Phiếu bầu cử cũng được mua. Sau đó mặc dù đã trải qua
ba cuộc cải cách chế độ tuyển cử (từ 1832-1884) cũng chi có
4,5 triệu người trong tổng số 36 triệu người (chiếm 12,55%)
được bầu c ử (2>. Đại đa số công nhân lớp dưới, cô' nông, người
đi ở và toàn thê phụ nữ bị gạt ra ngoài đời sống sinh hoạt chính
trị - bầu cử. Sau này, hạ nghị viện ngày càng có nhiều quyền
lực, lấn át vai ưò, quyền hạn của thượng nghị viện. Chế độ đa
đảng ở Anh là chế độ hai đảng. Thông qua việc giói thiệu các
ứng cử viên của đảng để bầu vào hạ viện, hai đảng tư sản thay
nhau khống chế nghị viện. Trong khoảng những năm 50-60
của thế kỉ XIX, ưu thế thuộc về đảng Tự do. Từ những năm 70
trở đi, ưu thế đó chuyển sang đảng Bảo thủ.
+ Chính phủ.
ở Anh, tiền thân của nội các là viện cơ mật. Thế kỷ
XVII, trước cách mạng tư sản, viện cơ mật được vua lập ra và
giữ vai trò tư vấn cho nhà vua. Sau cách mạng tư sản, từ năm
1714 một vị vua Anh mang dòng máu Đức là George, không
biết rành rọt tiếng Anh, nên rất chểnh mảng dự các phiên họp
của viện cơ mật. Khơng có nhà vua chủ trì các phiên họp,
dần dần viộn cơ mật tách khỏi sự kiểm soát của nhà vua,
thành viên viện cơ mật được gọi là bộ trưởng, hội nghị viện
cơ mật thành nội các, vị chủ trì các phiên họp được gọi là thủ
(1). Vũ Dương M inh - N guyên Văn Hóng: Đại cương lịch sừ thế giới cận Đại,
Tập 1, N xb. G iáo d ục, Hà N ội. 1995, tr.32
(2). Vũ Dương M inh - N guyễn Văn Hổng. Sđd, tr. 279.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
229
tướng. Nội các độc lập với nhà vua.
Sau đó nội các trở thành cơ quan có thực quyền, nám
quyền hành pháp. Thủ tướng được hoàng đế bổ nhiệm là thủ
lĩnh đảng cầm quyền, đảng chiếm được đa số ghế trong hạ
nghị viện. Điều này sau trở thành tập quán hiến pháp khơng
thành vãn của Anh. Hay nói cách khác, thực chất hạ nghị
viẹn cử ra thủ tướng. Sau khi được hồng đế bổ nhiệm, thủ
tướng đứng ra thành lập chính phủ (các bộ trưỏng nhất thiết
phải là đại biểu của hạ viện hoặc thượng viện). Đó là chính
phủ của đảng chiếm đa số trong hạ viện. Ở Anh, lập pháp và
hành pháp đều nằm trong tay một đảng. Vì vậy, không mấy
khi hạ viện bị giải tán. Hạ nghị viện chỉ có thể bị giải tán,
nếu chính phủ thấy đảng của mình có đa số mỏng manh
trong hạ viện, muốn có đa số vững chắc hơn, thì u cầu
hồng đ ế giải tán hạ nghị viện để bầu ra hạ nghị viện mới,
với hy vọng sẽ có sự ủng hộ của đa số nhiều hơn, nhằm kéo
dài thời gian cầm quyền của đảng mình.
N h ư vậy, thực chất cơ chế chính trị ở Anh là hai đảng tư
sản thay nhau nắm chính quyền nhà nước.
Trong thời ki chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nước
Anh có nền kinh tế phát triển nhất, trở thành công xưởng của
thế giới. Anh cũng là đế quốc xâm chiếm nhiều thuộc địa
nhất. Đến năm 1900 đế quốc "Mặt trời không bao giờ lặn"
đó có đất đai thuộc địa rộng tới 33 triệu km2 với số dân 370
triệu người(,). Tư bản Anh là trung tâm áp bức, bóc lột nhân
dân Anh và nhân dân thế giới.
(1). V ũ D ư ơ n s M inh - Vũ V ãn H ồ n e. Sđd. tr.282.
230
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
B.
NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ TổNG THỐNG ở HỢP
CHỦNG QUỐC HOA KÌ
Cuộc cách mạng tư sản tại các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ
là cuộc chiến tranh giành độc lập và xố bỏ những tàn tích
phong kiến.
Nhà nước tư sản Mĩ điển hình về chính thể cộng hồ tổng
thống và hình thức nhà nước liên bang tư sản, điển hình về chế
độ hai đảng tư sản thay nhau nắm chính quyền, điển hình về
tổ chức nhà nước tu sản theo thuyết tam quyền phân lập.
I.
CUỘC CHIẾN TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP ở BẮC
MỸ. S ự THÀNH LẬP HỢP CHỨNG QUỐC HOA KÌ VÀ
NHÀ NUỚC TƯSẢN
Thổ dân Bắc Mĩ là người da đỏ, thường được gọi là người
Anh Điêng. Họ sống trong giai đoạn nguyên thủy. Quá trình
xâm thực tàn bạo của thực dân Châu Âu bắt đầu từ thê kỷ XIV
sau cuộc thám hiểm của Crixtốp Côlôngbô. Đến năm 1752
Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa ở Bắc Mĩ.
ír Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia các thuộc địa ra
làm hai loại, một số bang tự trị, còn ở những bang khác Anh
cử thống đốc tới cai trị. Cả 13 bang đều khơng có luật pháp
riêng, mà phải tuân theo luật pháp Anh. Đại diện của nhà vua
Anh nắm quyền chỉ huy quân đội và hải quân.
Về kinh tế, xã hội, công thương nghiệp tư bản thuộc địa
phát triển nhưng khơng khỏi mâu thuẫn với chính quốc.
Chính phủ Anh tìm mọi cách ngãn chặn sự phát triển cơng
thương nghiệp Bắc Mĩ, muốn các thuộc địa chí là thị trường
tiêu thụ hàng hố của chính quốc, cung cấp ngun liệu, thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
231
phẩm cho Anh quốc. Trong nông nghiệp, tuy kinh tế tư bản
cũng phát triển nhưng trong các đồn điền còn phổ biến bóc
lột kiểu nơng nơ và nơ lệ. Kinh tế nơng nghiệp cũng khơng
thốt khỏi sự lệ thuộc vào chính quốc. Đại đa sơ' nhân dân
khơng có quyền chính trị.
Bên cạnh các mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các
thuộc địa với chính quốc lúc này nổi lên thành mâu thuẫn
hàng đầu.
Bởi vậy, nhân dân các thuộc địa, dưới sự lãnh đạo của
giai cấp tư sản đã nổi dậy tiến hành cuộc chiến tranh để dành
độc lập. Đó cũng chính là cuộc cách mạng tư sản, vì nó
khơng chỉ dành độc lập cho các thuộc địa mà cịn xố bỏ tàn
tích phong kiến, dọn đường cho chủ nghĩa tư bản Bắc lyp
phát triển mạnh mẽ.
Tháng 12 năm 1773, ba chiếc tầu chở chè của Anh đến
Bôxtơn bị người M ĩ tẩy chay và vất chè xuống biển. Từ sự
kiện này chiến tranh hầu như khó tránh khỏi. Những người
lãnh đạo phong trào cách mạng thấy cần có một hội nghị của
các thuộc địa để biểu lộ ý chí chung.
Hội nghị lục địa lần thứ nhất họp từ ngày 5 tháng 9 đến
ngày 25 tháng 10 năm 1774 gồm 56 đại biểu của 12 bang
(trừ bang Gioóc gia). Hội nghị đã ra bản "Tuyên ngôn về
quyền hạn và khiếu nại". Tun ngơn địi quyền đánh thuế
do thuộc địa quyết định, xố bỏ những luật cấm vơ lí của chính
quyền Anh đối với thuộc địa. Nhưng các yêu sách này bị chính
phủ Anh bác bỏ. Hội nghị lục địa lần thứ I biểu tượng cho xu
hướng thế độc lập và thống nhất của các thuộc địa.
Cuối năm 1774 đầu 1775, cả hai bên đều đẩy mạnh
chuẩn bị chiến tranh. Ngày 19 tháng 4 năm 1775 quân Anh
232
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
tiến hành đánh chiếm kho vũ khí ở Cơn Cc và bị giết hơn
200 tên. Chiến tranh bùng nổ. Hội nghị lục địa lần thứ II,
gồm đại biểu của 13 bung, khai mạc ngày 10 tháng 5 năm
1775. Hội nghị quyết định thành lập "quân đội lục địa" và bổ
nhiệm Oasinhtơn làm tổng chỉ huy.
Từ năm 1776, các bang đã thành lập chính quyển của
mình. Hội nghi lục địa lần thứ II hoạt động như một chính phủ
lầm thời liên bang, nhưng quyền hạn khơng có là bao. Ngày 4
tháng 7 năm 1776 Hội nghị long trọng công bố bản Tuyên
ngôn độc lập, khẳng định nền độc lập của các thuộc địa và
tuyèá bố thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kì. Bản tun ngơn
nêu rõ: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.
Tạo hố đã ban cho họ những quyền khơng thể tước bỏ, trong
đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.
Tuyên ngôn khẳng định chỉ nhân dân mới có quyền thiết
lập chính quyền và huỷ bỏ chính quyền khi nó đi ngược lại
quyền lợi cùa quần chúng. Tuyên ngôn là văn kiện có tính
chất dân chủ, tự do tư sản và nêu cao chủ quyền của nhân
dân. Tuy nhiên, Tuyên ngôn không có điều khoản thủ tiêu
bóc lột và bn bán nơ lệ. Mặc dù vậy, Tuyên ngôn độc lập
của Mĩ là một tiến bộ lớn lao lúc bấy giờ. Đó là một văn kiện
chính trị - pháp lí nổi tiếng trong lịch sử thế giới.
Tiếp đó, ngày 7 tháng 10 năm 1776, Hội nghị lục địa
thông qua bản "Các điều khoản của liêng bang". Do sự tranh
cãi và yêu sách về biên giới, lãnh thổ giữa các bang, nên mãi
đến năm 1781 Các điều khoản của liên bang mới được chính
quyền của các bang phê chuẩn. Văn kiện này bước đầu thiết
lập chính quyền tư sản liên bang. Chính quyền đó chưa có
nghị viện, tồ án, tổng thống. Chính phủ liên bang mang tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
233
Hội đồng lục địa, được thành lập gồm đại diện của 13 bang.
Muốn giải quyết vấn đẻ gì, Hội đồng lục địa phải có 9/13
bang đổng ý, muốn thay đổi điểu nào trong các điều khoản
của liên bang phải được cả 13 bang chấp thuận. Những người
kí kết vãn kiện này chủ trương xây dựng một chính quyền
liên bang "yếu", vì sợ sự lạm dụng quyển hành nhu trong chế
độ quân chủ nghị viện ở Anh. Ngược lại, các bang cịn giữ
nhiều quyền hạn lớn, có quyền tự trị hồn tồn về chính sách
đối nội của bang, đặc biệt là quyền thu thuế và buôn bán.
Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ đã được nhiều
nước Châu Âu ủng hộ như: Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan.
Cuối cùng trước thất bại nặng nề vé quân sự, thực dân Anh
phải kí với Bắc Mỹ Hiệp ước Véc xay ngày 3/9/1783. Theo
Hiệp ước này, nước Anh phải thừa nhận nền độc lập của các
thuộc địa ở Bãc M ĩ và giao cho Hoa Kì cả miền Tây
Mítxixipi rộng lón.
Hiệp ước Véc xay đánh dấu sự thắng lợi của cuộc đáii
tranh giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ, m ở đường cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển.
II.
NHÀ NUÖC TƯ SẢN SAU c u ộ c CHIÊN TRANH
GIÀNH ĐỘC LẬP. TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NUỚC
1. Hiến pháp 1787 và tổ chức bộ máy nhà nước
Sau khi thành lập nước Hoa kì vẫn chưa có hiến pháp.
Hơn nữa, qua thực tiễn của thời gian này, người MI nhận
thấy hậu quả của một chính phủ liên bang yếu là rất nhiều
vấn đề quan trọng của liên bang không được giải quyết. Vì
vậy, tháng 5/1787 Hội nghị liên bang được triệu tập để xố
234
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
bỏ các điều khoản của Liẽn bang và xây dựng hiến pháp liên
bang. Sau 4 tháng rưỡi tranh luận và thảo luận, 55 đại biểu
mới thông qua được bản hiến pháp. Song phải đến năm 1789,
hiến pháp mới được chính quyền các bang phê chuẩn.
Lúc mới ra đời, Hiến pháp Hoa Kì có 7 điều, chỉ quy
định về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Sau đó đến năm
1791, mười điều bổ sung đầu tiồn được thông qua và có hiệu
lực, quy định về các quyền của cơng dân và quyền của con
người. Chẳng hạn, điều bổ sung thứ nhất cấm quốc hội Mĩ đưa
ra các đạo luật hạn chế tự do ngơn luận, báo chí, hội họp, thỉnh
cầu,tơn giáo. Điểu bổ sung thứ hai cho phép các công dân Mĩ
được mang súng. Các điều bổ sung 3,4,5 khẳng định tính bất
khả xâm phạm vẻ nhà ở, thư tín, cấm các cuộc khám xét vô
cớ, cho phép các công dân khước từ việc cung khai mà có thể
làm hại cho họ. Năm 1798, Quốc hội Mĩ thông qua điều bổ
sung thứ 11 về quyền của mỗi công dân trong khi liên quan
đến tư pháp ở tiểu bang. Điều bổ sung thứ 12 được thông qua
năm 1804. Các điều bổ sung 13,14,15 được thực hiện ngay sau
cuộc nội chiến Nam - Bắc. Trong đó, điều bổ sung thứ 13
tuyên bố xố bỏ chế độ nơ lệ ở Mĩ.
Sau này, Hiến pháp đó được bổ sung và sửa đổi một sơ'
điều khoản. Ngày nay bản hiến pháp này vẫn có hiệu lực.
Hiến pháp 1787 thiết lập nhà nước cộng hoà tổng thống.
Hình thức chính thể cộng hồ tổng thống là hình thức nhà
nước mà ở đó tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia, vừa là
người đứng đầu bộ máy hành pháp. Mọi thành viên của chính
phủ đều đo tổng thống bổ nhiệm, chịu trách nhiệm trước tổng
thống, không chịu trách nhiệm trước nghị viện, khơng có chức
danh thủ tuớng. Vậy tại sao ở Mĩ lại xây dựng nhà nước tư sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
235
theo chính thể cộng hồ tổng thống. Có ba quan điểm lí giải
khác nhau. Một sơ' người cho rằng vì nước Mĩ ở xa xôi cách
biệt, đường biển đi lại khó khăn, nên các nhà lập hiến Hoa Kì
khơng thể tiếp thu một cách kịp thời những gì gọi là tiến bộ
của Châu Âu ỉục địa và của Anh quổc. Quan điểm thú hai
cho rằng chính thể cộng hồ tổng thống cho phép áp dụng
được triệt để thuyết tam quyền phân lập, và thể hiện đúng
quan điểm thỏa hiệp của các tầng lớp trong giai cấp tu sản.
Những ngưòi khác lại cho rằng, nhằm ngăn chặn làn sóng
đấu tranh của nhân dân và nhằm điều hành nhanh ahạy công
việc nhà nước, nên Mĩ thiết lập chính thể cộng hồ tổqg thống.
Hiến pháp MI thể hiện sự áp dụng đầy đủ và triệt để thuyết
tam quyền phân lập. Nguyện tắc tổ chức nhà nuớe đuợc chia
ra ba quyẻn: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba cơ quan giữ
ba quyền này tạo ra sự cân bằng và dối trọng quyển lục, để
phòng ngừa sự lạm dụng quyền lực. Nếu xét vế bản chất, viộc
tổ chức nhà nước theo thuyết tam quyền phân lập khơng chỉ
nhằm chống lại sự độc đốn, chun quyền và dàn xếp mâu
thuẫn trong nội bộ giai cấp tư sản, mà còn nhằm che đậy bản
chất của nhà nước tư sản, lừa bịp quần chúng nhân dân. Trên
cơ sở của thuyết tam quyén phân lập, nhà nuóe tư sản Mĩ
được tổ chức theo ba nguyên tắc sau:
- Ba bộ phận của nhà nước có nguồn gốc hình thành
khác nhau.
- Ba bộ phận đó có nhiệm kì khác nhau.
- Ba bộ phận đó có sự độc lập và kiềm chế lẫn nhau, bảo
đảm cho chúng không loại trừ hoặc tiếm quyền nhau.
Nghị viện:
Nghị viện là cơ quan lập pháp, gồm hai viện:
236
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
Hạ nghị viện là cơ quan dân biểu, do dân chúng các tiểu
bang bầu lên. Sô' đại biểu tỉ lệ với số dân của tiểu bang.
Nhiệm kì của hạ viện là hai năm.
Thượng nghị viện là cơ quan đại diện của các bang.
Nhiệm kì của thượng nghị viện là sáu năm và cứ hai nãm bầu
lại 1/3 số thượng nghị sĩ. Mỗi tiểu bang có hai thượng nghị
sĩ, khơng kể bang lớn hay nhỏ, dân số nhiều hay ít. Theo
khoản 3 điều 1, thượng nghị sĩ (ở liên bang) do quốc hội tiểu
bang bầu lên. Sau đó, theo điều bổ sung và sửa đổi sau này
(điều 17), thượng nghị sĩ cũng như hạ nghị sĩ, đều do dân
chúng trực tiếp bầu ra.
Khi là nghị sĩ của một viện, thì khơng được bầu là nghị
sĩ của viện kia và cũng không được làm thành viên của cơ
quan hành pháp hay cơ quan tư pháp. Các nghị sĩ được hưởng
lưcmg, có văn phịng và người giúp việc.
Nghị viộn có quyền lớn, như quyền thông qua các đạo
luật, quyền sửa đổi bổ sung dự án luật và dự án ngân sách
của tổng thống, quyền tán thành hoặc không tán thành các
quan chức cao cấp do tổng thống bổ nhiộm, quyền phê chuẩn
hoặc bác bỏ các điều ước quốc tế do tổng thống đã ký. Xuất
phát từ nguyên tắc đối trọng và cân bằng quyền lực nên hai
viện có chức năng, quyền hạn khác nhau. Ví dụ: hạ nghị viện
có quyền luận tội các quan chức cao cấp nhất của nhà nước,
kể cả tổng thống, nhưng lại khơng có quyền kết tội, quyền
này thuộc về thượng viện. Bởi vậy khơng thể nói rằng viện
nào nhiều quyền hơn viện nào.
Có những người cho rằng, cơ cấu hai viện như vậy của
Mĩ nhằm cân bằng với bộ máy hành pháp, nghị viện không
thể lấn át các cơ quan nhà nước khác. Nhưng lại có quan
237
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
điểm khác cho rằng, trong quá trình xây dựng hiến pháp đã
hình thành hai phe. Đại diện các bang lớn, với sô dân đông
muốn sô' lượng nghị sĩ theo số dân từng bang. Đại diện của
các bang nhỏ, với sô' dân ít lại muốn số nghị sĩ của từng bang
bằng nhạu, Và để dung hoà giữa hai phe này, Quỏc hội Mĩ
được cơ cấu hai viện như ưên.
Tổng thổng.
Theo Hiến pháp 1787, tổng thống vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp: "Quyền
hành pháp Hợp chúng quốc Hoa Kì được trao cho tổng
thống". Nắm quyền hành pháp, tổng thống là người duy nhất
quản lí đất nước. Tổng thống có những quyền hạn rất lớn.
- Tổng thống bổ nhiệm các bộ trưởng. Chính phũ chỉ là
cơ quan tư vấn cho tổng thống.
- Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang.
- Trình dự án luật và dự án ngân sách lên nghị viện.
- Kí các điều ước quốc tế và cử các đại diện ngoại giao.
- Bổ nhiệm thẩm phán của pháp viện tối cao
- Ban bố hoặc phủ quyết các đạo luật của nghị viện. Quy
trình phủ quyết một đạo luật như sau: nếu một dự án luật
(quyền trình dự án luật là quyẻn của nghị sĩ) được hạ nghị
viện và thượng nghị viện thông qua với đa số phiếu tương đối
(quá nửa nghị sĩ của từng viện đồng ý) thì đưa sang tổng
thống. Nếu tổng thống phủ quyết, thì đạo luật đó được
chuvển lại hai viện. Và lần này đạo luật đó phải được từng
viện thông qua với đa số tuyệt đối (2/3 tổng số nghị sĩ) thì
tổng thống phải kí ban bố. Nếu đạo luật không được nghị
viện thông qua với đa số tuyệt đối, đạo luật phải bị hủy bỏ.
238
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
Nhiệm kì của tổng thống là 4 năm. Người muốn ứng cử
tổng thống phải là cơng dân Hoa Kì, từ 35 tuổi trờ lên, đã cư
trú ở Mĩ trên 14 năm. Tổng thống do toàn dân bầu ra, nhưng
theo đầu phiếu gián tiếp. Bởi các nhà lập hiến 1787 sợ rằng,
nêu được bầu theo lói đáu phiêu trực tiếp, thì tóng thống, với
sự tấn phong của tồn dân, dễ có nhiều uy tín, dễ lấn át nghị
viện và sẽ có khuynh hướng độc tài. Cuộc bầu cử tổng thống
diễn ra qua ba giai đoạn:
- Giai đoạn các chính đảng đề cừ ra ứng cử viên c ủa
mình, hay cịn gọi là giai đoạn bầu cử sơ bộ. Đây là giai đoạn
rất quan trọng. Trước tiên các đảng bộ ở tiểu bang bầu đại
biểu của mình đi dự đại hội đảng toàn liên bang. Người trúng
ứng cử viên tổng thống phải chiếm được đa số tuyệt đối sô'
phiếu bầu trong đại hội đảng tồn liên bang nếu khơng thì
phải bầu ở vịng 2, vịng 3,...
- Giai đoạn bầu cử chính thức: cử tri trực tiếp bầu ra
tuyển cử đoàn của tiểu bang mình. Số người trong tuyển cử
đồn bằng số lượng nghị sĩ của tiểu bang ở Quốc hội Hoa Kì
và phải không là nghị sĩ, không lả quan chức của tiểu bang,
của liên bang, ứng cử viên tổng thống nào có nhiều đại diện
trong tuyển cử đồn thì đương nhiên sẽ được hưởng cả số
lượng phiếu tuyển cử đoàn của tiểu bang đó. Chỉ cần cộng
tổng sơ' người của các tuyển cử đoàn là biết được ai thắng cử
tổng thống rồi. Hay nói cách khác, nhân dân chỉ cần bầu
xong tuyển cử đồn, thì đã xác định được ai là tổng thống.
- Giai đoạn các tuyển cử đoàn họp ở từng tiểu bang để bầu
tổng thống và gửi kết quả lên thượng nghị viện ở Mĩ. Đây là
giai đoạn tuyển cử mang tính chất hình thức. Nếu ai được q
nửa số phiếu thì sẽ trúng tổng thống. Nếu trong trường hợp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
239
khơng phân thắng bại thì hạ nghị viện sẽ họp để bầu tổng thống.
Pháp viện tối cao.
Pháp viện tối cao gồm 9 thẩm phán do tổng thống bổ
nhiệm và được sự chấp thuận của thượng nghị viện. Pháp
viện tối cao có những quyền hạn chủ yếu sau:
- Phán quyết các đạo luật có hợp hiến hay khơng.
- Giải thích pháp luật.
- Quyền tối cao về xét xử.
2. Thủ đoạn hai đảng tư sản thay nhau cầm quyền
Sau khi nước M ĩ ra đời, hai đảng tư sản được thành lập.
Đảng Cộng hoà ra đời năm 1851, đại biểu cho đại tư sản
cơng nghiệp và tài chính. Đảng Dân chủ được thành lập
1791, đại biểu cho đại điền chủ và tư sản miển Nam. Các
đảng tư sản có những chức năng chủ yếu sau:
- Cạnh tranh với nhau để trở thành đảng cẫm quyền. Đảng
phái chính trị tư sản trở thành đảng cầm quyền thông qua các
cuộc bầu cử nghị viện và tổng thống. Thực tiễn lịch sử cho
thấy, không mấy người ứng cử tự đo (không đảng phái) mà
đắc cử. Đảng cầm quyền là đảng chiếm đa sô' trong nghị viện,
đảng có ứng cử viên thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống.
Chính kiến của nghị sĩ, chính sách của tổng thống thể hiện ý
chí của đảng. Chủ tịch hạ nghị viện, hoặc chủ tịch thượng
nghị viện, các chủ tịch các uỷ ban của hai viện thường là
người của đảng chiếm đa sô' trong nghị viện.
Các cuộc bầu cử nghị viện và bầu cử tổng thống không
được tiến hành đồng thời. Nên có trường hợp tổng thống và
đa số nghị sĩ không cùng một đảng. Nhưng dù thế nào cũng
đều chỉ là người của đảng Dân chủ và đảng Cộng hồ. Chính
240
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN
Đa vít Cơlơ - một học giả tư sản đã nhận định: "Hai đảng rất
giống nhau ở rất nhiều điềm đến nỗi đôi khi hai đảng được
gọi là anh em sinh đơi. Cứ hai năm một làn, hai dâng loại
tìioả tluiận và so tài một trận, mà trong đó cà hai đều được
bảo vệ vừa đủ để tránh thiệt hại cho phe thua"{i>. Như vậy,
thực chất của chế độ lưỡng đảng ở Hoa Kì là:
Thứ nhất là bảo đàm cho giai cấp tư sản độc quyển thống
trị nhà nước.
Thứ hai là ngăn chặn đại biểu của quần chúng nhân dân
trở thành quan chức trong bộ máy nhà nưởc tư sản.
Thứ ba là các đảng tư sản là nơi cung cấp đội ngũ quan
chức cho bộ.
- Chức năng thứ hai của đảng phái tư sản là chức năng kìm
chế và đối trọng quyển lực. Chức năng này thể hiện nổi bật
trong ba trưịng hợp. Nếu một đảng vừa có người là tổng thống
vừa chiếm đa sơ' trong nghị viện, thì đảng kia trở thành đảng
đối lập. Trường hợp thứ hai, một đảng có người là tổng thống,
cịn đảng kia chiếm đa số trong cả hai viện của quốc hội.
Trường họp thứ ba là một đảng có người là tổng thống và chiếm
đa số trong một viện, còn đảng kia chiếm đa sô' ở viện kia.
- Chức năng thứ ba của đảng phái tư sản là phổ biến
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng tư sản trong quần chúng, chia
rẽ và kìm hãm sự giác ngộ cách mạng của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động.
Tất cả những chức năng trên của các đảng phái tư sản
đều nhằm một mục đích duy nhất là bảo vệ địa vị thống trị
(1). Đavít Cơlơ: Cách Ihức tổ chức và sự điều hành cùa nền chính trị Hoa
Kì.Sài G ịn. 1972, Tr.27
241
Sớ hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐH TN