Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ thanh thảo từ góc nhìn ký hiệu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.58 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÁ THANH HUYỀN

CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ
“LỬA”, “SÓNG”, “HẠT GIỐNG”, “MẦM CÂY” TRONG
THƠ THANH THẢO TỪ GĨC NHÌN KÝ HIỆU HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Đà Nẵng – 2021


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN BÁ THANH HUYỀN

CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ
“LỬA”, “SÓNG”, “HẠT GIỐNG”, “MẦM CÂY” TRONG
THƠ THANH THẢO TỪ GĨC NHÌN KÝ HIỆU HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 822 90 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN VĂN SÁNG


Đà Nẵng – 2021


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi.
Các kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố ở cơng trình
nghiên cứu khác.
Đà Nẵng, ngày 27 tháng 06 năm 2021
Tác giả luận văn

Nguyễn Bá Thanh Huyền


II

THONG TIN KET QUA NGHIEN CUU CUA LU�N VA.N
cAc BI.EU THUC CHIEU VAT
. co Ti.J' "LUA"' "SONG"' "HAT
. GIONG" '
"MAM CAY" TRONG THO THANH THAO TU GOC NHIN KY HitU HQC
Nganh: Ng6n ngfr h9c
H9 ten h9c vien: Nguy�n Ba Thanh Ht!y�n
Nguoi hu&ng d�n khoa h9c: PGS. TS Tn1n Van Sang

Ca sa dao t�o: Truong D�i H9c Su Ph�m - D�i H9c Da N�ng

Tom tilt: Lu?n van dii th6ng ke, phan l��i cite biSu thuc chiSu V?t c6 tir "I°i'ra", ''.song", "h� t
,

gi6ng", "m§m cay" trong tho Thanh Thao vao nhfrng nh6m khac nhau. DS thvc hi�n duqc di�u nay
chung t6i tlm hiSu ca so- ly thuySt v� chiSu V?t, trong ho�t d(mg giao tiSp ng6n ngfr van chuang. Phan
tich, mieu ta d�c diSm cua cite biSu thuc chiSu V?t duqc khao sat tren blnh di�n cai bit\u d�t va cai

duc;rc biSu d�t. Chung t6i c6 cai nhin t6ng quan v� cite bit\u thuc chit\u v?t duc;rc nghien cuu tu g6c nhln
chifo V?t qua the gi&i ti,r nhien, thS gi&i nhfin t�o, thS gi&i con nguoi, the gi&i tinh cam, the gi&i thoi
gian va thS gi&i cua tu duy va y thfrc. Thong qua cac biSu thfrc chiSu V?t chung t6i hiSu va bi@t duqc

cac ng\} y cua Thanh Thao trong each thS hi�n tho cua minh. Tu cite ket qua khao sat, mieu ta, phan
tich va so sanh tren hai binh di�n cai biSu d�t va cai duc;rc biSu d�t cua cite bieu thuc chi@u V?t, lu?n
van cua ch(mg t6i ciing chi ra vai tro, gia tri ca ban cua cite biSu thuc chi@u v?t d6 trong tho Thanh
Thao df>i v&i vi�c xay dµng nen cite hinh tuqng tieu biSu. Tuy nhien, m6i quan h� gifra ngon ngfr va
van h9c, ma

C\}

the la nhfrng frng d\}ng cua ngfr d\}ng h9c, ky hi�u h9c vao van h9c la vung d�t mau

ma, chua d&y nhfrng di�u bi �n thti vi, vtin dang la d� tai thu hut dong dao nha nghien cfru ngon ngfr

tim hiSu, kham pha. Trong thoi gian h�n h�p, lu?n van chua c6 dip di sau vao so sanh each su d\lng
cite biSu thfrc chieu v?t trong tho Thanh Thao v&i cite nha tho khac cimg thoi. Nhfrng n(>i dung nay se
la huong nghien cuu tiSp theo cua d� tai nay.
Tu kh6a: BiSu thuc chieu V?t, Lua, Song, H�t gi6ng, M�m cay, Tho Thanh Thao, H� guy chiSu,
Cai biSu d�t, Cai duc;rc biSu d�t.
Xac nh�n cua giao vien hmrng din

Nguoi th1_1·c hi�n d� tai

PGS. TS Trdn Van Sang


Nguy�n Ba Thanh Huy�n



iv

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu .......................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
5. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................5
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................ 6
7. Cấu trúc của luận văn.......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ....................7
1.1. Lý thuyết chiếu vật .............................................................................................. 7
1.1.1. Sự chiếu vật (reference) ................................................................................7
1.1.2. Biểu thức chiếu vật (referring expression) ...................................................8
1.1.3. Chiếu vật và hệ quy chiếu .............................................................................9
1.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp ............................................................................12
1.2.1. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp ........................................................... 12
1.2.2. Các nhân tố giao tiếp và chiếu vật .............................................................. 14
1.3. Lý thuyết ký hiệu học ........................................................................................ 17
1.3.1. Ký hiệu học hai bình diện (nhị diện) của F. de Saussure ........................... 17
1.3.2. Kí hiệu học ba bình diện của C. Pierce ....................................................... 19
1.4. Thanh Thảo, cuộc đời và thi phẩm ....................................................................20
1.4.1. Vài nét về tác giả Thanh Thảo ....................................................................20
1.4.2. Thơ Thanh Thảo, vài nét dẫn nhập ............................................................. 21

1.5. Tiểu kết ..............................................................................................................22
CHƯƠNG 2. CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “LỬA”, “SÓNG”, “HẠT
GIỐNG”, “MẦM CÂY” TRONG THƠ THANH THẢO NHÌN TỪ BÌNH DIỆN
CÁI BIỂU ĐẠT ............................................................................................................24
2.1. Kết quả khảo sát ................................................................................................ 24
2.2. Cấu tạo của các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm
cây” trong thơ Thanh Thảo ............................................................................................ 26
2.2.1. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là ngữ danh từ ............................................26
2.2.2. Biểu thức chiếu vật có cấu tạo là danh từ ................................................... 32
2.2.3. Biểu thức chiếu vật là kết cấu sóng đôi ...................................................... 35
2.2.4. Quan hệ kết hợp của các biểu thức chiếu vật về “lửa”, “sóng”, “hạt giống”,
“mầm cây” trong thơ Thanh Thảo .................................................................................36


v

2.3. Tiểu kết ..............................................................................................................38
CHƯƠNG 3. CÁC BIỂU THỨC CHIẾU VẬT CÓ TỪ “LỬA”, “SÓNG”, “HẠT
GIỐNG”, “MẦM CÂY” TRONG THƠ THANH THẢO NHÌN TỪ BÌNH DIỆN
CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT .............................................................................................. 40
3.1. Giá trị biểu đạt của các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”,
“mầm cây” trong thơ Thanh Thảo .................................................................................40
3.1.1. Phân loại chiếu vật của các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt
giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ....................................................................40
3.1.2. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thế giới tự nhiên của các biểu thức chiếu vật có
từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ................................ 42
3.1.3. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thế giới nhân tạo của các biểu thức chiếu vật
có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ........................... 43
3.1.4. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thế giới con người của các biểu thức chiếu vật
có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ........................... 43

3.1.5. Chiếu vật trên hệ quy chiếu tình cảm của các biểu thức chiếu vật có từ
“lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ....................................44
3.1.6. Chiếu vật trên hệ quy chiếu thời gian của các biểu thức chiếu vật có từ
“lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ....................................45
3.1.7. Chiếu vật trên hệ quy chiếu tư duy và ý thức của các biểu thức chiếu vật có
từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo ................................ 45
3.2. Giá trị nghệ thuật của các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”,
“mầm cây” trong thơ Thanh Thảo .................................................................................46
3.2.1. Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” với
việc xây dựng hình tượng và biểu tượng nghệ thuật trong thơ Thanh Thảo .................46
3.2.2. Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” với
việc thể hiện cảm hứng sáng tác thơ Thanh Thảo ......................................................... 58
3.3. Tiểu kết ..............................................................................................................75
KẾT LUẬN ..................................................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 78
PHỤ LỤC .................................................................................................................. PL1
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI (BẢN SAO)


vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BTCV : Biểu thức chiết vật
CV
: Chiếu vật
HQC : Hệ quy chiếu


vii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
2.1.

Tên bảng
Các nhóm BTCV có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm
cây” trong thơ Thanh Thảo

Trang
24

2.2.

Phân loại BTCV trong thơ Thanh Thảo theo kiểu cấu tạo

26

2.3.

Bảng liệt kê các biểu thức chiếu vật là ngữ danh từ trong thơ
Thanh Thảo

27

2.4.

Cấu trúc của ngữ danh từ được thể hiện qua mơ hình

30


2.5.

Bảng tổng hợp thống kê BTCV là ngữ danh từ trong thơ
Thanh Thảo

30

2.6.

Các BTCV có cấu tạo là danh từ trong thơ Thanh Thảo

33

2.7.

Bảng thống kê quan hệ kết hợp của các BTCV

36

2.8.

Các HQC của các BTCV có từ “lửa”, “sóng”, “hạt
giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo

40


1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngơn ngữ trong giai đoạn hiện nay khơng chỉ đơn thuần là tiếng nói của con
người dùng để biểu hiện các nội dung như ý nghĩ, tâm tư, tình cảm giữa con người với
nhau trong đời sống hằng ngày mà còn là phương tiện giao tiếp quan trọng để gắn kết
cộng đồng tộc người của một quốc gia, hoặc giữa quốc gia này với quốc gia khác.
Trong khoa học, ngôn ngữ bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi địa hạt ngôn ngữ là
một mảnh đất màu mỡ để cho các nhà khoa học khai phá, nghiên cứu, đóng góp vào tri
thức nhân loại.
Nghệ thuật ngơn ngữ ra đời từ buổi bình minh của xã hội lồi người và ngay từ
thời đó, thơ đã có vị trí hết sức quan trọng. Từ khi chưa có chữ viết, con người đã sáng
tác và thưởng thức thơ qua con đường truyền miệng. Những sáng tác văn học sớm nhất
của nhân loại ngày nay ta được biết hầu hết là thơ. Thơ có vị trí lớn như vậy trong nhu
cầu đời sống tinh thần nên dễ hiểu khi các nhà khoa học nhân văn hơn hai nghìn năm
nay.
Ở Việt Nam, thơ có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống văn học và đời sống
xã hội. Thơ là một thể loại văn học truyền thống của dân tộc Việt Nam. Là một thể loại
văn học nằm trong phương thức trữ tình nhưng bản chất của thơ lại rất đa dạng, với
nhiều biến thái và màu sắc phong phú. Thơ tác động đến người đọc vừa bằng ngôn từ
giàu cảm xúc, bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc cụ thể:
vừa gián tiếp thông qua liên tưởng và những tưởng tượng phong phú, vừa theo những
mạch cảm nghĩ, vừa bằng sự rung động của ngôn từ giàu nhạc điệu. Thơ không chỉ
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật, một thú chơi tao nhã mà còn là phương tiện
giao tiếp xã hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Thơ gắn với cuộc sống khách
quan, gắn với chiều sâu thế giới nội tâm…
Từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, lịch sử nước ta bước sang một thời kỳ
mới, thời kỳ độc lập, bảo vệ nền độc lập, xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hơn nửa thế kỷ đó, nhân dân đã tiến hành hai cuộc
kháng chiến gian khổ, lập nên kỳ tích đánh thắng những kẻ thù có tiềm lực kinh tế hơn
hẳn mình, bảo vệ độc lập và sự toàn vẹn của đất nước. Trong hoàn cảnh đầy thử thách

này, nền văn học cách mạng đã ra đời và khơng ngừng phát triển, trong đó thơ là một
thể loại tiêu biểu. Cách mạng đã mang lại cho người nghệ sỹ những phẩm chất hoàn
toàn mới trong lao động sáng tạo. Bối cảnh lịch sử hào hùng và bi tráng của thời kỳ
này là nội lực sâu xa để thở Việt Nam kế thừa tinh hoa trừ truyền thống đồng thời có


2

những biến đổi về chất, cả nội dung và hình thức, làm phong phú thêm kho tàng thơ
dân tộc. Nhà phê bình Hồi Thanh đã có nhận xét xác đáng: “Hầu hết những người
mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến trong một quyển sổ tay nào đó
thế nào cũng có ít bài thơ... Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng
súng, tiếng nhạc, tiếng thơ cùng hịa điệu” (Dẫn theo Hồi Thanh, Nói chuyện thơ
kháng chiến).
Hơn hai mươi năm đã trôi qua kể từ khi chiến tranh kết thúc, lịch sử đất nước
chuyển sang giai đoạn phát triển, hoạt động sáng tạo nghệ thuật cũng vận động, biến
đổi theo. Việc nghiên cứu thơ Thanh Thảo từ góc nhìn ngữ dụng học, phát hiện và làm
sáng tỏ giá trị của thơ ca không những là trách nhiệm mà cịn là sự thơi thúc của nhiều
nhà nghiên cứu, phê bình và các thế hệ độc giả
Văn học Việt Nam hiện đại ghi nhận sự đóng góp tích cực của nhiều thể loại. Tận
dụng những ưu thế của mình, mỗi thể loại đều đã có những tên tuổi được khẳng định
trên văn đàn và trong lòng bạn đọc. Thanh Thảo cũng có những đóng góp quan trọng
của mình trong thành tựu của thi ca hiện đại Việt Nam. Vì thế tìm hiểu và đánh giá các
biểu thức chiếu vật trong thơ Thanh Thảo là một việc làm cần thiết. Ơng là nhà thơ
khơng ngừng tiếp cận những trào lưu văn học mới, nhằm làm cho các sáng tác của
mình ngày càng gần với hơi thở đương đại. Những nỗ lực này dẫn đến một tất yếu là
thơ Thanh Thảo ngày càng mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện đại.
Thanh Thảo là một nhà thơ khá đặc biệt bởi lối tư duy thơ mới mẻ, làm lạ hố diện
mạo thơ đương đại. Thơ Thanh Thảo có những khoảng trắng, khoảng mờ gây nhiều
ám ảnh cho người đọc. Thanh Thảo khơng bao giờ thỏa hiệp với chính mình mà ln

tìm tịi thể nghiệm, đem lại hình thức mới mẻ cho thơ đương đại Việt Nam. Thơ Thanh
Thảo là sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực ở phương Tây và
truyền thống thơ ca dân tộc, tạo ra những tác phẩm độc đáo, hấp dẫn theo cách riêng
của Thanh Thảo.
Trong diễn ngôn văn học, việc tìm hiểu hệ thống các phương tiện ngơn ngữ chiếu
vật và “vật được quy chiếu” của chúng sẽ là những thao tác đầu tiên mà bất kỳ người
đọc nào cũng phải tiến hành nếu muốn hiểu tác phẩm. Trong thơ Thanh Thảo, các yếu
tố “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” có tần số xuất hiện ở nhóm cao nhất trong
số các từ chỉ thiên nhiên. Luận văn “Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”,
“hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo” dưới góc nhìn ký hiệu học dưới
ánh sáng của lý thuyết ký hiệu học: đặt chúng trong các biểu thức chiếu vật (BTCV)
được sử dụng trong diễn ngơn. Luận văn cũng đặt các BTCV có từ “lửa”, “sóng”,


3

“hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo dưới góc nhìn ký hiệu học để một
mặt, phần nào thấy được cách sử dụng những thi pháp và của ngôn từ nghệ thuật của
tác giả, mặt khác, hiểu rõ hơn về những lí thuyết ký hiệu học được vận dụng qua cách
phân tích những tập thơ để đời của Thanh Thảo.
2. Lịch sử vấn đề
Khái niệm chiếu vật hay còn gọi là quy chiếu (referring expression) trong dụng
học được các nhà ngôn ngữ học quan tâm từ rất sớm. Trên thế giới, phạm trù này được
nhà ký hiệu học Mỹ Charles W. Morris nghiên cứu từ những năm 90 của thế kỷ XX.
Sau đó các nhà khoa học khác như Jacob L. Mey, George Yule đã có những cơng trình
nghiên cứu chuyên sâu làm tiền đề quan trọng cho các thế hệ sau.
Lý thuyết chiếu vật, cho đến nay, có thể khái quát thành ba giai đoạn nghiên cứu
chiếu vật trên thế giới gồm: giai đoạn thứ nhất (từ 1882 - khoảng 1950) - chiếu vật ngữ
nghĩa (semantic reference); giai đoạn thứ hai (từ khoảng 1950 - cuối thế kỷ XX) chiếu vật của người nói (speaker’sreference); giai đoạn thứ ba (khoảng từ cuối thế kỷ
XX - nay) - chiếu vật được nghiên cứu trong phối cảnh liên ngành (interdisciplinary

perspectives).
Ngữ dụng học là một chuyên ngành chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
việc sử dụng ngôn ngữ trong quá trình giao tiếp để đạt tới một mục đích nhất định. Nó
quan tâm đến việc vì sao việc truyền đạt nghĩa không chỉ phụ thuộc vào các kiến thức
ngôn ngữ học như ngữ pháp, từ vựng... của người nói và người nghe mà còn phụ thuộc
vào ngữ cảnh của phát ngôn. Một vấn đề đầu tiên trong việc nghiên cứu ngôn ngữ
trong thực tế sử dụng, xác lập mối quan hệ giữa ngơn ngữ và người sử dụng đó là vấn
đề quy chiếu và sự lựa chọn biểu thức quy chiếu để chỉ đối tượng được nói đến.
Nói đến cơng trình nghiên cứu về ngữ dụng học một cách đầy đủ nhất, chúng ta
không thể không kể đến Đỗ Hữu Châu. Cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ
dụng học, Đỗ Hữu Châu đã dành trọn một chương đề cập đến chiếu vật và chỉ xuất.
Tác giả chỉ ra tầm quan trọng của chiếu vật và việc xác định được nội dung của câu
quy chiếu về sự vật nào đóng vai trị thiết yếu để xác định giá trị chân lí của nó. Quan
trọng hơn cả là tác giả nêu ra các phương thức quy chiếu. Vì quy chiếu là một hành
động có tính chủ động của người nói cho nên nó phần nào thể hiện tính mục đích của
người nói khi lựa chọn biểu thức quy chiếu. Về lí thuyết các giáo trình về ngữ dụng
học đều dành ít nhất một chương để trình bày các nội dung liên quan đến vấn đề này.
Tiếp theo cơng trình được xem như nền móng của Đỗ Hữu Châu, nhiều nhà
nghiên cứu đã dụng tâm bổ sung và công bố các cơng trình của mình. Trước hết phải


4

kể đến cơng trình Dụng học Việt ngữ (NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2000) của
Nguyễn Thiện Giáp. Ở cơng trình này, nhà nghiên cứu cũng đã dành một phần để làm
sáng tỏ hơn lý thuyết chiếu vật và xem đó là một nhân tố, một phương châm trong hoạt
động giao tiếp. Kế tiếp là cơng trình nghiên cứu của Trịnh Bá Đĩnh và các tác giả trong
cuốn Từ ký hiệu đến biểu tượng (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018). Cơng trình
này đã kể đến các ký hiệu và sự liên kết chặt chẽ giữa ký hiệu với biểu tượng. Trong
Ký hiệu và Liên ký hiệu (NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2018), nhà nghiên

cứu Lê Huy Bắc đã ưu ái dành toàn bộ cuốn sách để nghiên cứu về lý thuyết ký hiệu
học, đồng thời xem đó là nhân tố khơng thể tách rời trong việc phân tích tác phẩm.
Sự phát triển của nghiên cứu ngơn ngữ ở nước ngồi trên khía cạnh chiếu vật đã
ảnh hưởng rất lớn đối với ngành nghiên cứu ngơn ngữ ở nước ta. Theo luồng ảnh
hưởng đó, các tài liệu nước ngoài dần được tiếp nhận và được giới thiệu ở Việt Nam.
Một trong những tài liệu được giới thiệu sớm nhất là cơng trình Dụng học của G. Yule
do Diệp Quang Ban biên dịch. Giáo trình được xem là bước khởi đầu có tính chun
mơn cao đối với q trình tiếp cận và nghiên cứu ngơn ngữ học.
Như vậy, nhờ những quá trình tiếp cận và học hỏi các kết quả nghiên cứu từ các
cơng trình nghiên cứu của nước ngoài cũng như việc vận dụng sáng tạo vào thực tiện
sử dụng tiếng Việt, các nhà nghiên cứu trong nước đã xây dựng nên những cơng trình
tiêu biểu về ngữ dụng học, trong đó có lý thuyết chiếu vật. Các đóng góp của các nhà
nghiên cứu ngơn ngữ tiêu biểu như: Cao Xuân Hạo, Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban,
Nguyễn Thiện Giáp… sẽ là “kim chỉ nam” cho q trình phát triển nghiên cứu ngơn
ngữ sau này. Tuy nhiên, trong q trình khảo sát chúng tơi nhận thấy những cơng trình
nghiên cứu cịn mang tính riêng biệt khi ứng dụng các lý thuyết của ngôn ngữ học và
ký hiệu học để nghiên cứu ngôn ngữ văn chương, khuynh hướng nghiên cứu này chưa
thật sự nhiều và còn mang tính riêng lẻ.
Trên nền tảng nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học, những năm gần đây hướng
nghiên cứu về lý thuyết chiếu vật của ngữ dụng học đã được đề cao và chiếm được ưu
thế ở nhiều công trình. Trong đó phải kể đến một số cơng trình ở cấp độ luận văn thạc
sĩ Ngôn ngữ như: Các biểu thức chiếu vật về người phụ nữ trong ngôn ngữ thơ Hồ
Xuân Hương và thơ Xuân Quỳnh của Lê Thị Tuyết Hạnh năm 2017; Các biểu thức
chiếu vật về người lính trong ngơn ngữ thơ Kháng chiến của Nguyễn Thị Yến Nga
năm 2019. Nhìn chung hai cơng trình này đã có sự đóng góp một phần cho hướng
nghiên cứu về lý thuyết chiếu vật và tạo nên một bước tiếp cận mới về các biểu thức
chiếu vật trong các tác phẩm văn chương được khảo sát.


5


Cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về Các biểu thức chiếu vật
có chứa các từ “lửa”, “sóng”, “hạti giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo như
đề tài của chúng tôi. Chúng tôi mong muốn công trình này sẽ góp một phần nhỏ lấp
đầy hơn tính riêng lẻ và ít ỏi của khuynh hướng nghiên cứu ứng dụng các lý thuyết
chiếu vật của dụng học và ký hiệu học để nghiên cứu ngôn ngữ văn chương.
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lý thuyết chủ yếu phục vụ cho việc triển khai đề tài luận văn:
- Xác lập các tiêu chí để xác định và phân loại các BTCV có từ “lửa”, “sóng”,
“hạt giống”, “mầm cây” cũng như đối tượng được quy chiếu của chúng trong thơ
Thanh Thảo.
- Phân tích, miêu tả đặc điểm của các BTCV được khảo sát trên bình diện cái
biểu đạt và cái được biểu đạt.
- Phân tích vai trị, giá trị riêng của các BTCV này đối với việc thể hiện ý nghĩa
của các biểu tượng lửa, sóng, hạt giống, mầm cây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu được luận văn xác định là: các biểu thức chiếu vật có từ
“lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây” trong thơ Thanh Thảo từ góc nhìn ký hiệu
học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phương diện khảo sát, luận văn của chúng tôi tiến hành khảo sát và nghiên
cứu đối tượng kể trên ở các phương diện: cấu tạo, quan hệ kết hợp với các yếu tố ngôn
ngữ khác trong ngôn cảnh, sự vật được quy chiếu trong ngữ cảnh sử dụng và so sánh
chúng với các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây”
tương ứng trong tuyển tập thơ Thanh Thảo.
Về tư liệu khảo sát: luận văn khảo sát trên những tuyển tập thơ Thanh Thảo sau:
- Những người đi tới biển (trường ca, 1977)
- Dấu chân qua tràng cỏ (thơ, 1980)
- Khối vuông Rubic (thơ, 1985)

- Từ một đến một trăm (thơ, 1988)
- Trường ca chân đất (2012)
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại


6

Phương pháp này được chúng tôi vận dụng để thống kê các biểu thức chiếu vật
có trong thơ và phân loại theo những tiêu chí cụ thể.
5.2. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ
Sau khi thống kê, phân loại cơ sở ngữ liệu là các biểu thức chiếu vật, chúng tôi
vận dụng phương pháp này để phân tích, miêu tả đặc điểm cấutạo các biểu thức chiếu
vật và đưa ra những nhận xét, đánh giá với các thủ pháp nghiên cứu sau: thủ pháp
phân tích thành tố trực tiếp, thủ pháp phân tích vị từ - tham thể (vị tố - tham thể), thủ
pháp phân tích ngơn cảnh/văn cảnh và thủ pháp phân tích vai nghĩa...
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về lý luận: Củng cố và hệ thống hoá được các vấn đề cơ bản của lý thuyết
chiếu vật của ngơn ngữ học, góp phần làm rõ thêm các khái niệm quan yếu đối với
việc nghiên cứu chiếu vật trong tác phẩm hư cấu; xác lập được một số cơ sở và thao
tác để xác định CV của các BTCV được sử dụng trong hoạt động giao tiếp; gợi mở và
bước đầu vận dụng hướng nghiên cứu liên ngành ngơn ngữ - văn hóa - văn học vào
nghiên cứu chiếu vật của Việt ngữ, đặc biệt là chiếu vật trong tác phẩm văn học.
- Về thực tiễn: Cung cấp thêm tư liệu và kết quả phân tích mới cho việc nghiên
cứu và giảng dạy về các BTCV trong thơ Thanh Thảo nói riêng và trong giao tiếp
tiếng Việt nói chung; cung cấp thêm cơ sở và phương tiện ngôn ngữ cho việc khám
phá các giá trị và nét độc đáo trong thơ Thanh Thảo, từ đó giúp ích thêm cho việc
nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm dưới góc nhìn ký hiệu học.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lí luận và những vấn đề liên quan.
Chương 2: Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm
cây” trong thơ Thanh Thảo nhìn từ bình diện cái biểu đạt.
Chương 3: Các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm
cây” trong thơ Thanh Thảo nhìn từ bình diện cái được biểu đạt.


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1. Lý thuyết chiếu vật
1.1.1. Sự chiếu vật (reference)
Nếu ngữ dụng học là phân ngành trẻ tuổi nhất của ngôn ngữ học thì Chiếu
vật (Reference, cịn dịch bằng sở chỉ, quy chiếu) là vấn đề đầu tiên được ngữ dụng học
đề cập tới. Georgia M. Green đưa ra khái niệm về chiếu vật như sau:
“Thuật ngữ chiếu vật được dùng để chỉ cái cách nhờ chúng mà người nói phát
âm ra một biểu thức ngôn ngữ với hy vọng rằng biểu thức đó sẽ giúp cho người nghe
của anh ta suy ra được một cách đúng đắn cái thực thể nào, đặc tính nào, quan hệ
nào, sự kiện nào anh ta đang nói đến” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [8, Tr.193]).
Cũng chính Green, đồng thời, đã chỉ rõ cái gọi là “một biểu thức ngôn ngữ”
(linguistic expression) trong định nghĩa trên của ơng, khi nó thực hiện được chức năng
chiếu vật, được gọi là biểu thức chiếu vật (referring expression).
Theo Đỗ Hữu Châu: “Chiếu vật chính là quan hệ giữa phát ngôn (diễn ngôn) với
các bộ phận tạo nên ngữ cảnh được gọi là sự chiếu vật… Chiếu vật là hiện tượng ngữ
dụng học đầu tiên bởi vì nhờ chiếu vật mà ngơn ngữ gắn với ngữ cảnh, từ đó mà có
căn cứ đầu tiên để xác định nghĩa của đơn vị ngôn ngữ đang thực hiện chức năng giao
tiếp” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [8, Tr.193]).
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp có cách nhìn nhận khác: “Quy chiếu là một hành
động trong đó người nói hoặc người viết dùng các hình thức ngơn ngữ cho phép người

nghe, người đọc nhận diện cái gì đó. Những hình thức ngơn ngữ ấy là những biểu thức
quy chiếu” (referring expression).
Các biểu thức chiếu vật (BTCV) trong diễn ngơn có nghĩa chiếu vật (referent).
Phạm vi nghĩa chiếu vật không chỉ hiểu đơn giản là một “sự vật, sự kiện” hay “cái
thực thể nào”, “sự kiện nào” đó được chiếu mà cịn bao gồm cả “một q trình, một
hành động” hay “đặc tính nào, quan hệ nào” được người nói đưa vào diễn ngơn với ý
đồ chiếu vật. Vì vậy “sự khảo sát thoả đáng các BTCV cần được mở rộng đến cả
những BTCV khác (ngoài BTCV là các danh từ, đại từ và cụm danh từ - chú thích của
người viết) nữa như tên giả (artifact names) tính từ, động từ, giới từ và phó từ”. “Như
thế, đóng vai trị nghĩa chiếu vật ngồi sự vật, cịn có cả đặc tính, quan hệ, sự kiện,
hoạt động nữa” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu, [8, Tr.199]). Đây là một chỉ dẫn quan trọng
cho việc khảo sát, miêu tả các BTCV trong các diễn ngôn cụ thể.


8

Như vậy, trên cơ sở tiếp thu những quan niệm khác nhau về sự chiếu vật, chúng tôi
đưa ra khái niệm về sự quy chiếu (hay chiếu vật): đó là sự tương ứng giữa từ (hoặc giữa
các đơn vị ngôn ngữ) với các sự vật, con người, hoạt động, tính chất trong hiện thực
được nói tới. Luận văn của chúng tôi sử dụng thuật ngữ sự chiếu vật (reference) và chiếu
vật (CV) (referent) là các danh từ, còn quy chiếu (to refer) với tư cách động từ.
1.1.2. Biểu thức chiếu vật (referring expression)
1.1.2.1. Khái niệm biểu thức chiếu vật
Biểu thức chiếu vật (hay còn gọi là biểu thức quy chiếu) là khái niệm dùng để chỉ
“những hình thức ngơn ngữ mà người nói/ người viết sử dụng để thực hiện quy chiếu
trong ngữ cảnh cụ thể của ngữ liệu khảo sát” [18, Tr.89]; tức cho người nghe/ người
đọc nhận diện một cái gì đó. Cũng như các tín hiệu ngơn ngữ khác, biểu thức chiếu vật
cũng có cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Cái biểu đạt của biểu thức chiếu vật là các
đơn vị ngôn ngữ tạo nên nó. Cái được biểu đạt là sự vật được quy chiếu hay chiếu vật
tương ứng.

Biểu thức chiếu vật dù có cụ thể đến đâu không phải bao giờ cũng làm cho
ngườii nghe, người đọc nhận biết ngay được sự vật được quy chiếu. Việc nhận biết
ngay sự vật được quy chiếu chỉ có thể xảy ra khi giao tiếp diễn ra mặt đối mặt nhờ
động tác chỉ trỏ mà người nói thực hiện kèm theo biểu thức chiếu vật. Nếu khơng có
những điều kiện như vậy thì người nghe phải suy luận hay là suy ý từ biểu thức chiếu
vật để nhận biết sự vật được quy chiếu đích thực là gì.
Trong luận văn này, chúng tơi sử dụng thuật ngữ “biểu thức chiếu vật” để chỉ tất
cả các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng để thực hiện quy chiếu trong ngữ cảnh cụ
thể của ngữ liệu khảo sát, bao gồm cả những BTCV có cấu tạo là từ vài tổ hợp từ.
Chúng tôi cũng đã phân biệt một số thuật ngữ có liên quan tới việc khảo sát đối tượng
và triển khai đề tài của luận văn là BTCV và biểu thức miêu tả, BTCV miêu tả và
BTCV phi miêu tả.
Theo đó, các biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”, “mầm cây”
trong thơ Thanh Thảo sẽ được luận văn này miêu tả trên hai bình diện: bình diện cái
biểu đạt (hình thức cấu tạo và quan hệ kết hợp cả về ý nghĩa và cú pháp); bình diện cái
được biểu đạt (sự vật được quy chiếu hay CV).
1.1.2.2. Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật
a) Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật nói chung
- Tiêu chí thứ nhất – Tiêu chí hình thức: BTCV có tính hồn chỉnh, độc lập tương
đối của nó về mặt cấu tạo: hoặc là một từ, hoặc là một cụm từ.


9

- Tiêu chí thứ hai – Tiêu chí ngữ nghĩa: BTCV chỉ ra được một đối tượng, một
thực thể cụ thể nào đó, trong thế giới khả hữu – HQC của BTCV đang được tác giả
hoặc nhân vật nói tới.
b) Tiêu chí xác định biểu thức chiếu vật có từ “lửa”, “sóng”, “hạt giống”,
“mầm cây” trong thơ Thanh Thảo
Luận văn chỉ xét các BTCV mà trong cấu tạo của biểu thức ngôn ngữ thực hiện

chức năng chiếu vật trong trường hợp được xét có xuất hiện ít nhất một trong các yếu
tố ngôn ngữ (từ/ thành tố cấu tạo từ) hoặc các yếu tố ngôn ngữ đồng nghĩa từ vựng;
hoặc các yếu tố ngôn ngữ biểu thị các sự vật có liên quan tới khái niệm “lửa”, “sóng”,
“hạt giống”, “mầm cây”.
1.1.3. Chiếu vật và hệ quy chiếu
1.1.3.1. Khái niệm chiếu vật (referent)
Có thể nói, bên cạnh tâm lí học và triết học, ngôn ngữ học là ngành khoa học liên
quan mật thiết nhất tới khoa học tri nhận. Điều này gần như là hiển nhiên bởi một
trong hai chức năng quan trọng nhất của ngơn ngữ chính là chức năng là công cụ của
hoạt động nhận thức, tư duy của con người. Ngôn ngữ không chỉ tham gia vào hoạt
động nhận thức, tư duy của con người với vai trò của một phương tiện thực hiện mà
còn là phương tiện để diễn đạt và lưu trữ kết quả của các hoạt động đó. Ngược lại, các
sản phẩm của hoạt động nhận thức, tư duy lại cung cấp cho ngôn ngữ mặt “cái được
biểu đạt” của tín hiệu ngơn ngữ, làm đầy cái vỏ âm thanh của nó để cho ngơn ngữ trở
nên “có nghĩa” (dù “nghĩa” hiểu theo cách nào đi nữa). “Hiện thực khách quan phản
ánh trong não người hình thành nên thế giới tri nhận và cấu trúc tri nhận. Ngôn ngữ
học tri nhận nghiên cứu ảnh hưởng của cấu trúc tri nhận, quy luật của cấu trúc tri
nhận đối với ngôn ngữ” (Dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp, [19, Tr.206]).
Ngôn ngữ học tri nhận đã và đang được coi là một cuộc cách mạng thứ ba trong
lịch sử ngôn ngữ học thế giới, sau hai cuộc cách mạng đi trước: “cuộc cách mạng
Saussure” và “cuộc cách mạng Chomsky” bởi lẽ, với nguyên lí “dĩ nhân vi
trung” (anthropocentrism) được tuyên ngôn một cách khảng khái đã thay đổi hầu như
tồn bộ phương pháp luận của các nhà ngơn ngữ học đi theo hệ hình ngơn ngữ học cấu
trúc tiền tri nhận.
Mặc dù “trọng tâm của ngôn ngữ học tri nhận là ngữ nghĩa” nhưng “chính Ngữ
dụng học đã khiến người ta phải chú ý đến hệ thống tri nhận của con người. Như ta
biết, ngữ dụng học không bàn về nghĩa mà bàn về sự tạo nghĩa, về tiềm năng nghĩa, về
sự biểu lộ, sự thương lượng về nghĩa như thế nào trong tương tác (...) Các nhà ngữ



10

dụng học đã chứng minh được rằng trong quá trình sản sinh phát ngơn, người nói đã
phải tính đến các giới hạn về xã hội, tâm lí, nhận thức của người nghe; và ngược lại,
trong q trình giải thích các phát ngơn, người nghe cần thiết phải tính đến những chế
ước về xã hội khiến người nói tiến hành sản sinh phát ngơn theo một cách thức riêng
biệt nào đó” (Dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp, [19, Tr.208]). Đây cũng chính là một
trong các phương pháp tiếp cận của các nhà nghiên cứu Ngữ dụng học khi xem xét vấn
đề nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ được sử dụng trong các ngữ cảnh giao tiếp cụ thể –
tức nghĩa chiếu vật của chúng.
1.1.3.2. Nghĩa - ý nghĩa - chiếu vật
Nghĩa hay ngữ nghĩa (theo nghĩa rộng: nghĩa của ngôn ngữ nói chung – meaning)
và ý nghĩa của từ (sense) đều có liên quan tới CV bằng ngơn ngữ. Trước tiên, có thể
thấy, cả ý nghĩa của từ (và của tín hiệu ngơn ngữ nói chung) và CV đều là các bình
diện của nghĩa (meaning) của đơn vị ngơn ngữ. Ngồi hai bình diện này, ngữ nghĩa
cịn có một số bình diện được phản ánh trong các loại nghĩa khác nữa, chẳng hạn:
nghĩa ngữ pháp, nghĩa sở dụng... Tuy nhiên, giữa ý nghĩa của từ và CV của từ đó khi
được sử dụng làm BTCV trong ngữ cảnh giao tiếp cụ thể lại có sự khác biệt tương đối
và chủ yếu nhất là chúng nằm ở hai bình diện khác nhau của ngơn ngữ: ý nghĩa thuộc
bình diện hệ thống, mang tính trừu tượng, khái qt cịn CV thuộc bình diện hoạt động
của ngơn ngữ, mang tính cụ thể.
Nghĩa chiếu vật hay vật được chiếu (referent) chính là bản thân các thực thể tồn
tại bên ngồi ngơn ngữ, trong thế giới hiện thực mà ở đó biểu thức ngơn ngữ chiếu vật
(referring expressions) được sử dụng. Chiếu vật thể hiện rõ nhất mối quan hệ bộ ba
giữa người nói – ngơn ngữ – hiện thực khách quan. Bởi, như phát ngôn kinh điển của
Strawson: “ý định (mentioning) và chiếu vật (referring) khơng phải là điều mà các
biểu thức ngơn ngữ có thể thực hiện được mà đó là do một người nào đó dùng chính
các biểu thức đó để thực hiện” [40, Tr. 326].
Xét về mặt tín hiệu học thì thứ nhất từ ngữ âm là cái biểu hiện của nghĩa của từ
(cái được biểu hiện); thứ hai, từ ngữ âm cùng với nghĩa của mình lại là cái biểu hiện

của cái sở chỉ; thứ ba, trong những phát ngôn cụ thể, tồn bộ tam giác ngữ nghĩa cịn
có thể đóng vai trị là một tín hiệu của một sự vật khác. Như vậy, nghĩa (sense) và sở
chỉ là cái được biểu hiện. Nhưng ý nghĩa (meaning) không phải là cái được 6 biểu
hiện mà là mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Ý (meaning) của từ
(cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngồi
bản thân nó.


11

1.1.3.3. Hệ quy chiếu
HQC là một khái niệm công cụ quan trọng mà chúng tôi lấy làm cơ sở lý thuyết
cho việc triển khai đề tài. Sự vật có thể tồn tại trong những thế giới rất khác nhau, có
những thế giới hiện hữu, có thật và cũng có những “thế giới có thể có” (thường được
gọi là “thế giới khả hữu”) mà trong đó sự vật có thể tồn tại theo một cách khác. Cùng
một lúc, có nhiều thế giới khả hữu khác nhau đồng thời tồn tại: thế giới thực hữu, thế
giới tưởng tượng, hư cấu trong thần thoại, cổ tích hay truyền thuyết và các tác phẩm
văn học; thế giới tâm linh, siêu nhiên với sự tồn tại của các hồn ma, bóng quỷ… Tuy
nhiên, khi thực hiện quy chiếu bằng các BTCV trong một ngữ cảnh giao tiếp cụ thể,
chỉ một thế giới khả hữu mà ở đó sự vật – CV tồn tại mới được người nói lựa chọn làm
“HQC” cho BTCV của mình và đưa vào trong ngữ cảnh thông qua phát ngôn.
Theo G. Yule: “Hệ quy chiếu, vì vậy gắn với mục đích, sự tin tưởng của người
nói, đó là người nói nói ra muốn để người nghe nhận biết cái gì; người nghe có mong
đợi để mà người nói nói ra khơng. Vì thế hệ quy chiếu muốn thành cơng phải ln gắn
chặt với suy luận (inference), bởi vì giữa các từ với các thực thể khách quan khơng có
mối quan hệ nào mà chỉ là quan hệ võ đoán” [39, Tr. 103].
Để nhận ra tính chiếu vật cần quan tâm đến những yếu tố sau:
- Người nói và người nghe trong hệ quy chiếu,
- Mục đích của hệ quy chiếu,
-Ngữ cảnh mà người nghe hiểu được hệ quy chiếu

- Đối tượng tiếp cận của hệ quy chiếu.
Việc phân loại và miêu tả chiếu vật của các BTCV trong luận văn này cũng dựa
vào việc xác định đúng thế giới khả hữu – hệ quy chiếu mà ở đó các sự vật được quy
chiếu tồn tại. Theo đó, thế giới hư cấu trong thơ Thanh Thảo có thể được phân chia
thành các bộ phận – hệ quy chiếu khác nhau như sau: thiên nhiên, con người/nhân vật,
đồ vật, tình cảm, cuộc đời, sự kiện, thời gian….
1.1.3.4. Chiếu vật trong tác phẩm văn chương
Một trong những thế giới khả hữu khơng có thực chính là thế giới khả hữu tồn tại
trong các sản phẩm hư cấu – thế giới hư cấu (fictional world). Thế giới khả hữu của
các nhân vật hư cấu chính là tác phẩm hư cấu mà ở đó nhân vật xuất hiện, hành động,
nói năng… Trong thế giới khả hữu đó, nhân vật tồn tại thực sự và khi được quy chiếu
bằng ngơn ngữ thì nó chính là “vật được chiếu” của BTCV được sử dụng. Chiếu vật về
các thực thể hư cấu cũng có nhiều loại: có chiếu vật của tác giả trong tác phẩm; chiếu
vật của người đọc trong các diễn ngôn về tác phẩm; chiếu vật của chính nhân vật trong


12

tác phẩm… Khi đó, ngồi chủ thể thực hiện quy chiếu là tác giả, cịn có chủ thể thực
hiện quy chiếu là nhân vật trong tác phẩm.
Để giải mã được toàn bộ hệ quy chiếu xuất hiện trong các tác phẩm văn chương,
nhà nghiên cứu ngôn ngữ học không chỉ thấy được sự tương ứng giữa từ (hoặc giữa
các đơn vị ngôn ngữ) với các sự vật, con người, hoạt động, tính chất trong hiện thực
được nói tới mà cịn địi hỏi phải có một vốn hiểu biết sâu về lịch sử, văn hóa thời đại
ra đời tác phẩm (ngữ cảnh rộng); cuộc đời, sự nghiệp của tác giả (ngữ cảnh hẹp), ngữ
cảnh trực tiếp,…để có được những tiền giả định chính xác, lập thành một hệ quy chiếu
phù hợp và đưa ra những ý nghĩa xác đáng nhất.
1.2. Lý thuyết hoạt động giao tiếp
Theo quan điểm ngữ dụng học thì có rất nhiều cách phân loại và miêu tả các
nhân tố giao tiếp. Theo tác giả Đỗ Hữu Châu, cách khái quát nhất phải kể đến ba nhân

tố giao tiếp cơ bản là: Ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn. Tuy nhiên, “Chiếu vật là cái
neo mà diễn ngôn thả vào ngữ cảnh” chính vì thế mà khóa luận đi vào trình bày chi tiết
về nhân tố ngữ cảnh còn hai nhân tố còn lại chỉ dừng lại ở mức độ khái quát nhất.
1.2.1. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp
1.2.1.1. Ngữ cảnh
Ngữ cảnh (situational context; context of situation): Thơng thường, ngữ cảnh
được hiểu là “bối cảnh ngồi ngôn ngữ của một phát ngôn hay là những thông tin
ngồi ngơn ngữ góp phần tạo nên nghĩa (của phát ngôn)”. Các hợp phần của ngữ cảnh
gồm: đối ngôn và hiện thực ngồi diễn ngơn.
Ngữ cảnh là yếu tố giúp cho câu nói trở nên cụ thể, khiến người nghe, người đọc
có thể dễ dàng xác định được nhân vật giao tiếp, nội dung giao tiếp, thời gian và không
gian giao tiếp.
Các nhân tố của ngữ cảnh.
• Nhân vật giao tiếp.
– Gồm tất cả các nhân vật tham gia giao tiếp: người nói (viết), người nghe (đọc).
+ Một người nói – một người nghei Song thoại.
+ Nhiều người nói luân phiên vai nhau: Hội thoại.
+ Người nói và nghe đều có một “vai” nhất định, đều có đặc điểm khác nhau về
lứa tuổi, nghề nghiệp, cá tính, địa vị xã hội, …-> chi phối việc lĩnh hội lời nói.
* Bối cảnh ngồi ngơn ngữ.
– Bối cảnh giao tiếp rộng (cịn gọi là bối cảnh văn hóa): Bối cảnh xã hội, lịch sử,
địa lý, phong tục tập quán, chính trị… ở bên ngồi ngơn ngữ.


13

– Bối cảnh giao tiếp hẹp (còn gọi là bối cảnh tình huống): Đó là thời gian, địa
điểm cụ thể, tình huống cụ thể.
– Hiện thực được nói tới (gồm hiện thực bên ngoài và hiện thực bên trong của các
nhân vật giao tiếp): Gồm các sự kiện, biến cố, sự việc, hoạt động… diễn ra trong thực

tế và các trạng thái, tâm trạng, tình cảm của con người.
* Văn cảnh.
– Bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ cùng có mặt trong văn bản, đi trước hoặc
sau một yếu tố ngơn ngữ nào đó. Văn cảnh có ở dạng ngơn ngữ viết và ngơn ngữ nói.
1.2.1.2. Ngơn ngữ
Ngơn ngữ (language): Mỗi cuộc giao tiếp đều sử dụng một ngơn ngữ cụ thể nào
đó làm phương tiện, nên nói tới ngơn ngữ trong vai trị là nhân tố giao tiếp cũng chính
là nói tới ngơn ngữ cụ thể mà các đối ngôn sử dụng trong cuộc giao tiếp của họ.
Một định nghĩa coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức của các dấu hiệu được
điều chỉnh bởi các quy tắc kết hợp theo ngữ pháp để truyền tải ý nghĩa. Định nghĩa này
nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mơ tả như hệ thống kết cấu khép kín
bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu đặc biệt tới các ý nghĩa đặc biệt. Cách nhìn
ngơn ngữ có cấu trúc như thế này lần đầu tiên được F. de Saussure giới thiệu và cấu
trúc cơ bản của ông trở thành cấu trúc cơ bản của nhiều cách tiếp cận ngơn ngữ.
1.2.1.3. Diễn ngơn
Trong lí luận hiện nay có ba khuynh hướng nghiên cứu. Một là ngữ học do các
nhà ngữ học đề xuất. Hai là lí luận văn học do M. Bakhtin nêu ra và ba là xã hội học,
lịch sử tư tưởng mà tiêu biểu là Foucault. Các thuật ngữ như diễn ngôn tính dục, diễn
ngơn chính trị, diễn ngơn nữ quyền… đều dùng theo hướng xã hội học, nhìn văn học
theo giác độ xã hội học. Trong khi đó khái niệm diễn ngơn văn học hầu như ít được
nhắc đến, mà đó là cơng việc của nhà lí luận văn học.
Khái niệm diễn ngôn trở thành thuật ngữ khi người ta phát hiện thấy ngôn ngữ
học cấu trúc của F. de Sausure, đem đối lập ngơn ngữ với lời nói, và ngơn ngữ học chỉ
nghiên cứu ngôn ngữ, tức là hệ thống các nguyên tắc chi phối việc sử dụng ngôn ngữ
như ngữ âm, từ vựng, cú pháp. Lời nói thuộc phạm vi cá nhân không thuộc đối tượng
nghiên cứu của ngữ học. Một số nhà ngữ học thấy không thể không nghiên cứu văn
bản, diễn ngôn (ngôn bản) như là những đơn vị biểu đạt trên câu tồn tại trong thực tiễn
đời sống. Và diễn ngôn được đề xuất như là đối tượng mới của ngữ văn học.
Diễn ngôn là bộ phận hợp thành sự kiện lời nói và tổ hợp các sự kiện lời nói hình
thành một cuộc giao tiếp. Các chức năng giao tiếp được thực hiện bằng các diễn ngôn



14

và cụ thể hóa thành phần của diễn ngơn”. Diễn ngơn có hai phương diện: hình thức và
nội dung. Hình thức của diễn ngôn bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ (thuộc ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp, ngữ dụng…) và các yếu tố phi ngôn ngữ (yếu tố kèm lời và phi lời)
được dùng khi các đối ngôn tạo ra diễn ngôn.
Như vậy, diễn ngôn là khái niệm chỉ sản phẩm sau cùng của cuộc giao tiếp giữa
các đối ngơn, trong đó lại bao gồm các diễn ngơn riêng của từng đối ngôn trong giao
tiếp. Thơ Thanh Thảo là một diễn ngôn vừa tiêu biểu vừa độc đáo: tồn tại đồng thời ở
cả dạng nói và dạng viết là sản phẩm của hoạt động giao tiếp gián tiếp và đa thoại.
1.2.2. Các nhân tố giao tiếp và chiếu vật
Hoạt động giao tiếp chính là tương tác liên tục giữa con người với con người, với
tất cả nguồn lực của cá nhân, để tạo ra và tiếp nhận các BTCV trong hoạt động hành
chức của ngôn ngữ. Mỗi diễn ngơn trong thơ Thanh Thảo đều có tư cách như là sản
phẩm của các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (giao tiếp nghệ thuật), và trong hoạt
động đó ln tồn tại sự tương tác giữa các nhân tố giao tiếp như các đối ngôn (tác giả
và bạn đọc), ngữ cảnh, tình huống giao tiếp (có sự giãn cách đặc biệt về thời gian,
khơng gian và bối cảnh văn hóa, xã hội giữa các bên đối ngôn) và ngôn ngữ (ngôn ngữ
nghệ thuật). Tất cả các nhân tố này đều được vận dụng trong việc nhận diện các BTCV
và CV của chúng trong luận văn.
1.2.2.1. Đối ngôn (tác giả và bạn đọc)
Trong giao tiếp văn chương, quá trình tiếp nhận và độc giả đóng vai trị quan
trọng. Độc giả đóng vai trị tích cực, khơng chỉ tham gia trong việc lĩnh hội tác phẩm
sau khi nhà văn hồn thành nó mà chi phối ngay từ khi tác phẩm được thai nghén và ở
trong quá trình sáng tác. Xét về mối quan hệ giữa tác giả và độc giả, giữa quá trình
sáng tác và quá trình tiếp nhận và độc giả góp phần sự sống của tác phẩm. Khi nào có
sự tiếp nhận của độc giả thì khi đó có tác phẩm mới thực sự có cuộc sống của nó và
chừng nào cịn người đọc thì chừng đó tác phẩm cịn tiếp tục sự sống.

Bạn đọc là người đánh giá tác phẩm và đồng sáng tạo với tác giả. Nếu tác giả tồn
tại nhờ tác phẩm thì người đọc chính là người cấp “chứng minh thư” cho tác phẩm để
tác phẩm và tác giả trở nên bất tử với cuộc đời.
Bởi vậy, khi tiếp nhận một tác phẩm, người đọc chỉ hứng thú khi tác phẩm đó thể
hiện được cách nhìn mới, tô đậm được nét tính cách độc đáo của nhà văn trong đó.
Những cái nhìn giống nhau, cách cảm nhận tương tự nhau sẽ bị người đọc quên lãng,
đào thải.


15

Như vậy, để có được những tác phẩm có giá trị lay động được tới trái tim bạn
đọc thì cần có một trái tim nóng bỏng, một tâm hồn nhạy cảm tinh tế; những gì viết ra
cần phải xuất phát từ tình cảm chân thật sâu sắc. Muốn vậy trái tim người nghệ sĩ phải
để ở giữa cuộc đời và vì cuộc đời.
1.2.2.2. Ngữ cảnh, tình huống giao tiếp
Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và tạo lập lời
nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội thấu đáo lời nói. Ngữ cảnh có vai trị quan trọng
với q trình tạo lập và q trình lĩnh hội lời nói. Đối với người nói người viết: ngữ
cảnh là cơ sở của việc dùng từ, đặt câu, kết hợp từ ngữ. Đối với người nghe, người
đọc: ngữ cảnh là căn cứ để lĩnh hội câu văn, hiểu được nội dung ý nghĩa của văn bản,
lời nói.
Tình huống giao tiếp là khả năng sử dụng phương tiện ngơn ngữ nói hoặc ngơn
ngữ cơ thể để diễn đạt suy nghĩ, ý kiến, cảm nhận một cách rõ ràng và thuyết phục;
đồng thời thúc đẩy được giao tiếp.
Tình huống giao tiếp biểu hiện hành vi ở các mức độ:
- Mức độ 5 - Mức độ xuất sắc:
Ở mức độ này, cá nhân chủ động vận dụng được kĩ năng này trong cả những tình
huống đặc biệt khó khăn. Cá nhân có thể tự tin truyền đạt kĩ năng này cho người khác.
Tự tin trình bày các vấn đề phức tạp và nhạy cảm tới mọi đối tượng (từ các đối

tượng lãnh đạo cấp cao, người ngang hàng hoặc các đối tượng yếu thế hơn). Luôn tạo
được ấn tượng là một người biết lắng nghe và sẵn sàng chấp nhận phản hồi mà người
khác dành cho mình. Ngơn ngữ và giọng điệu linh hoạt, có sức thuyết phục và gây
được ảnh hưởng lên người khác. Có chiến lược rõ ràng trong giao tiếp.
- Mức độ 4 - Mức độ tốt
Ở mức độ này, cá nhân có thể vận dụng được năng lực trong những tình huống
khá khó khăn, mà hầu như khơng cần hướng dẫn.
Có khả năng thuyết trình rành mạch các khái niệm phức tạp tới nhiều đối tượng
khác nhau. Xử lí khéo léo được các tình huống phát sinh trong giao tiếp, linh hoạt
trong cách sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu. Nắm rõ những gì mình cần truyền đạt đến
người nghe. Biết lắng nghe và thường chấp nhận những phản hồi mà người khác dành
cho mình.
- Mức độ 3 - Mức độ khá
Ở mức độ này, cá nhân có thể vận dụng được năng lực trong những tình huống
khó khăn, dù đơi khi vẫn cần được chỉ dẫn từ người khác.


16

Có khả năng diễn đạt rành mạch, rõ ràng các nội dung cơ bản tới nhiều đối tượng
khác nhau. Thường vận dụng được đúng giọng điệu và ngôn ngữ trong các trường hợp
giao tiếp. Thường xuyên lắng nghe, quan tâm tới đối phương và biết khơi gợi giao tiếp
hai chiều một cách khéo léo.
- Mức độ 2 - Mức độ cơ bản
Ở mức độ này, cá nhân có thể vận dụng được năng lực trong những tình huống
với độ khó trung bình và vẫn thường cần được hỗ trợ, hướng dẫn từ người khác.
Có khả năng diễn đạt rành mạch tới nhiều đối tượng, tuy nhiên ngôn ngữ và
giọng điệu trong nhiều trường hợp khơng chính xác. Có ý thức khơi gợi giao tiếp hai
chiều, dù đôi khi không thực sự khéo léo. Chủi động lắng nghe, thể hiện được thái độ
quan tâm tới đối phương.

- Mức độ 1 - Mức độ kém
Ở mức độ này, cá nhân chỉ vận dụng được năng lực trong những tình huống cơ
bản nhất và sẽ cần rất nhiều chỉ dẫn từ người khác.
Có khả năng diễn đạt được ý kiến của mình, dù khơng phải lúc nào cũng mạch
lạc và chính xác. Chủ động lắng nghe, nhưng không biết cách khơi gợi được phản hồi
của đối phương.
Tình huống giao tiếp là trạng thái trực tiếp do tác động của các nhân tố giao tiếp
trong một cuộc giao tiếp cụ thể mà có. Mỗi tác phẩm thơ Thanh Thảo đều có tư cách
như là sản phẩm của các hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (giao tiếp nghệ thuật) và
trong hoạt động đó ln tồn tại sự tương tác giữa các nhân tố giao tiếp như các đối
ngôn (tác giả và bạn đọc), ngữ cảnh, tình huống giao tiếp và ngơn ngữ (ngơn ngữ nghệ
thuật). Tất cả các nhân tố này đều được vận dụng trong việc nhận diện các BTCV và
CV của chúng trong luận văn.
1.2.2.3. Ngôn ngữ nghệ thuật
Là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn chương, không chỉ có chức
năng thơng tin mà cịn thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Nó là ngơn ngữ được
tổ chức, sắp xếp, lựa chọn, gọt giũa, tinh luyện từ ngôn ngữ thông thường và đạt được
giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ.
Văn chương là loại hình nghệ thuật dùng ngôn ngữ làm chất liệu. Là nghệ thuật
ngôn từ hay ta có thể nói cách khác ngơn ngữ là yếu tố thứ nhất của nghệ thuật văn
chương: khơng có ngơn ngữ khơng có nghệ thuật văn chương. Sử dụng ngơn ngữ để
sáng tạo nghệ thuật văn chương, tác giả (và cả độc giả) thực hiện hoạt động nhận thức,
tư duy. Có điều hoạt động nhận thức tư duy trong nghệ thuật có đặc tính riêng, mang


×