Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

khái quát chung về vốn xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.88 KB, 20 trang )

Vốn xã hội được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh các loại vốn khác như
vốn kinh tế, vốn văn hoá, vốn con người. Ban đầu khái niệm vốn xã hội được đưa
ra để chỉ tình thân hữu, sự thông cảm lẫn nhau, cũng như tương tác giữa các cá
nhân hay gia đình. Tuy nhiên, khái niệm vốn xã hội chỉ thực sự trở thành khái niệm
khoa học quan trọng trong tác phẩm “Các hình thức của vốn” của chính Bourdieu
năm 1986.Vốn xã hội đề cập đến các tổ chức, các mối quan hệ và các chuẩn mực
đã định hình về cả măt chất và mặt lượng các tương tác xã hội . ngày càng nhiều
bằng chứng cho thây sự gắn kết xã hội là rất quan trọng dể xã hội phát triển thịnh
vượng về kinh tế và được bền vững . Vốn xã hội không chỉ là tập hợp đơn thuần
của các tổ chức với vai trò củng cố xã hội mà đó cịn là chất keo để kết nối chúng
lại với nhau
Trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, vốn xã hội
được xem là một thành tố góp phần tạo nên những chiến thắng vĩ đại của ông cha.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành
cơng, thành cơng, đại thành cơng" đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi
trong kháng chiến, và trong cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay. Đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng vốn xã hội và biến nó thành
nguồn lực tạo nên sức mạnh của dân tộc trong kháng chiến và xây dựng đất nước.
Trong xã hội hiện đại ở Việt Nam, vốn xã hội vẫn còn khá mới mẻ. Khái niệm này
dùng để nêu ra một cách tổng hợp hiện thực và đặc trưng của những mối dây liên
kết giữa con người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội và được biểu
hiện ra thành những hiện tượng mà chúng ta có thể quan sát được: sự tin cậy giữa
con người với nhau, khả năng làm việc chung với nhau, và các loại mạng lưới xã
hội khác nhau.


I. khái quát chung về vốn xã hội.
1.Khái niệm vốn xã hội.
a.Một số khái niêm vốn xã hội
-


Theo world bank: Vốn xã hội đề cập đến các tổ chức, các mối quan hệ và các
chuẩn mực đã định hình về cả măt chất và mặt lượng các tương tác xã hội . ngày
càng nhiều bằng chứng cho thây sự gắn kết xã hội là rất quan trọng dể xã hội phát
triển thịnh vượng về kinh tế và được bền vững . Vốn xã hội không chỉ là tập hợp
đơn thuần của các tổ chức với vai trò củng cố xã hội mà đó cịn là chất keo để kết

-

nối chúng lại với nhau
Theo CECD , vốn xã hội được hiểu là hê thống ( các mối liên hệ thực tế giữa các
cá nhân hoặc nhóm người như gia đình , bạn bè , đồng nghiệp) cùng với các chuẩn
mực , giá trị và nhận thức chung có tác dụng củng cố sự hợp tác giữa các nhóm

-

người hoặc trong chính nhóm người đó
Theo ơng Boudieu: vốn xã hội là một mạng lưới lâu bền, bao gồm các mối quan hệ
quen biết nhau và nhận ra nhau, những mối lien hệ này ít nhiều đã được thể chế
hóa. Vốn xã hội được xây dựng và tái tạo hoạt động với sự đóng góp của 3 dạng:
vốn kinh tế có được từ thu nhập, nắm giữ và lưu thông kinh tế tài chính; vốn văn
hóa với việc xây dựng và tái tạo các giá trị, các biểu tượng, các di sản; và vốn xã
hội là tồn bộ các nguồn vốn có tiềm năng có liên quan đến các quan hệ bền vững
của 1 thực thể xã hội, tạo nên niềm tin sự cảm thông sự gắn kết sự hợp tác và

-

những hành động mang tính tập thể
Vốn xã hội được xem là tập hợp các mối quan hệ của mỗi cá nhân trong mạng lưới
xã hội và khả năng tạo ra các mối quan hệ của mỗi cá nhân đó
b.Khái niệm chung về vốn xã hội ( theo nghĩa hẹp)

- Nghĩa hẹp, vốn xã hội là một tập hợp các mối quan hệ theo chiều ngang giữa
người với người , bao gồm các mạng xã hội và các chuẩn mực lien quan mà có ảnh
hưởng đến năng suất và sự thịnh vượng của cộng đồng . các mạng lưới xã hội có


thể làm tăng năng suất bằng cách giảm chi phí kinh donah . Vốn xã hội tạo điều
kiện cho quá trình phối hợp và hợp tác
-

Theo nghĩa rộng hơn về vốn xã hội xem xét nguồn vốn này trên cả 2 mặt tích cực
và tiêu cực , theo đó, vốn xã hội bao gồm các mối lien hệ theo chiều dọc và chiều
ngang giữa con người với nhau , và bao gồm các hành vi bên trong và giữa các tỏ

-

chức , chẳng hạn như các công ty
Theo nghĩa rộng thì quan điểm này nhận ra rằng mối quan hệ ngang là cần thiết để
cung cấp cho cộng đồng một í thức về bản sắc và mục đích chung , những cũng
nhấn mạnh rằng khơng có cầu nối vượt lên sự chia rẽ xã hội khác nhau ( ví dụ như
tơn giáo , dân tộc,..) thì các mối quan hệ ngang có thể trở thành một cơ sở cho việc
theo đuổi lợi ích hẹp hịi , và có thể chủ động ngắn cản q trình tiếp cận thơng tin
và các nguồn lực vật chất- những thứ rất cần cho cộng đồng.
c.Các nguồn hình thành vốn xã hội
+ Gia đình : là nguồn chính của phúc lợi kinh tế và xã hội cho các thành viên của
mình , gia đình là nền tẳng đầu tiên cho sự hình thành của vốn xã hội
+ Các cộng đồng: tương tác xá hội giữa những người bạn hang xóm và các nhóm
người tạo ra nguồn vốn xã hội và khả năng để là việc cùng nhau cho một lợi ích
chung. Điều này đặc biệt uqna trọng đối với người nghèo bởi vốn xã hội có thể
được sử dụng như một sự thay thế cho nguồn vốn con người và vốn vật chất
+ Các doanh nghiệp: xây dựng và duy trì các tổ chức có hiệu quả như các cơng ty

địi hỏi sự tin tưởng và 1 ý thức chung về mục đích. Vốn xã hội có lợi cho các
doanh nghiệp bằng cách giảm chi phí giao dịch.


+ Xã hội dân sự: vốn xã hội là rất quan trọng cho sự thành cơng của bất kì tổ chức
phi chính phủ nào bởi vì nó cung cấp cơ hội tham gia và mang lại tiếng nói cho
những người bên lề của xã hội.
+ Khu vực công: các khu vực công tức là, nhà nước và các tổ chức của nó là trung
tâm của các hoạt động và phúc lợi xã hội.
+ Dân tộc: quan hệ dân tộc thường xuyên được nhắc đến trong các cuộc thảo luận
của vốn xã hội. cho dù đó là người nhập cư, phát triển doanh nghiệp nhỏ, hoặc
xung đột sắc tộc, quan hệ dân tộc là 1 ví dụ rõ ràng về cách mà các chủ thể chia sẻ
các giá trị và văn hóa chung có thể hợp nhất với nhau vì lợi ích chung.
2.Các lý thuyết về vốn xã hội.
a. Lý thuyết vốn xã hội của Bourdieu.
* Khái niệm: Vốn xã hội là toàn bộ nguồn lực xuất phát từ mạng lưới quen biết
trực tiếp hoặc gián tiếp, trong đó các thành viên tương tác qua lại với nhau.
* Đặc tính của vốn xã hội:
+ Vốn xã hội là một thuộc tính của mỗi các nhân trong bối cảnh xã hội. Bất cứ ai
cũng có thể thu nhập một số vốn xã hội nếu người đó chú tâm và nỗ lực làm việc
ấy. Bất cứ ai có thể dùng vốn xã hội để đem lại lợi ích kinh tế thơng thường.
+ Bourdieu khẳng định xã hội là một đấu trường tranh giành địa vị, kẻ thắng là
người dồi dào vốn kinh tế, vốn xã hội và vốn văn hóa… Vì thế vốn xã hội khơng
phải tích cực với tất cả mọi người.
+ Vốn xã hội là loại vốn khơng thể tự hình thành và xây dựng bởi một chủ thể độc
lập -> sự chênh lệch trong xã hội luôn tồn tại sự khác nhau trong tích lũy vốn xã
hội. Giá trị của vốn xã hội của mỗi chủ thể phụ thuộc vào tương quan với vốn xã
hội của chủ thể đó với những chủ thể khác.



+ Vốn xã hội là kết quả của sự đầu tư. Trong thời gian ngắn hạn hoặc dài hạn, kết
quả đó có thể được sử dụng để chuyển thành các loại vốn khác, chẳng hạn vốn
kinh tế.
+ Vốn xã hội là nguồn lực liên kết với các mạng lưới xã hội; với tư cách là một thứ
tài sản mà mỗi cá nhân có thể có được, trách nhiệm, sự mong đợi và lịng tin là các
hình thức của vốn xã hội. Chính trách nhiệm và mong đợi lẫn nhau đã tạo nên sự
tin cẩn giữa các cá nhân.
b. Lý thuyết vốn xã hội của James Coleman.
*Khái niệm: Vốn xã hội là thứ tài sản chung của một cộng đồng hay một xã hội
nào đó, bao gồm những đặc trưng trong đời sống xã hội như sau : các mạng lưới xã
hội, các chuẩn mực, và sự tin cậy trong xã hội - là những cái giúp cho các thành
viên có thể hành động chung với nhau một cách có hiệu quả nhằm đạt tới những
mục tiêu chung.
*Đặc trưng của vốn xã hội:
+ Vốn xã hội là một chiều cạnh của cấu trúc xã hội mà những chiều cạnh này tạo
thuận lợi cho hành động của các cá nhân, nó cịn tùy thuộc vào sự tin cậy giữa
người với người trong xã hội.
+ Vốn xã hội là “sản phẩm phái sinh” của các hoạt động khác, thông qua mối quan
hệ giữa các cá nhân với nhau; nó hỗ trợ hành động của các cá nhân thông qua
những chiều cạnh của xã hội để tìm kiếm lợi ích.
+ Có tác dụng bao phủ tất cả các mối liên hệ xã hội và theo góc độ này nó như một
loại kênh truyền thơng.
+ Vốn xã hội càng lớn thì xã hội càng có nhiều quy tắc, chuẩn mực, nhất là các quy
tắc có kèm theo chế tài.
+ Gồm 2 loại : Vốn xã hội hình thành trong gia đình (vốn xã hội vi mơ) và vốn xã
hội hình thành ở cộng đồng (vốn xã hội vĩ mơ).Vốn xã hội hình thành trong gia
đình là sự tương tác giữa các thành viên trong gia đình. Vốn xã hội hình thành ở
cơng động ẩn chứa trong các mối quan hệ ngồi gia đình và giữa các thể chế cộng
đồng.
c. Lý thuyết vốn xã hội của Robert Putnam.



*Khái niệm: Vốn xã hội là những phương tiện, những kĩ năng đào tạo có tác dụng
làm gia tăng năng suất của cá nhân.
*Đặc trưng của vốn xã hội:
+ Vốn xã hội bao gồm những khía cạnh đặc trưng của xã hội như các mạng lưới xã
hội, các chuẩn mực và sự tin cậy trong xã hội.
+ Putnam quan tâm đến mối quan hệ gắn kết giữa các công dân. Ông cho rằng sự
hợp tác (đa chiều và nhiều chiều) và chia sẻ giữa các thành viên là yếu tố quyết
định trong việc xây dựng vốn xã hội.
+ Vốn xã hội biểu thị cam kết công dân và là công cụ để hướng tới sự thịnh vượng.
Theo Putnam, vốn xã hội tăng cường các chuẩn mực phổ biến; vốn xã hội làm đơn
giản hóa sự hợp tác; cung cấp khn mẫu văn hóa cho các giải pháp của hành động
tập thể. Putnam còn nhấn mạnh rằng vốn xã hội mang đưa đến hỗ trợ lẫn nhau, sự
hợp tác và lòng tin. Điều đó giúp nâng cao học vấn, cải thiện điều kiện chăm sóc
trẻ em, mang lại an tồn cho cộng đồng, và tạo ra hạnh phúc về mặt vật chất lẫn
tinh thần.
+ Gồm 3 thành phần: các nghĩa vụ đạo đức và chuẩn mực; giá trị xã hội (nhấn
mạnh đến sự tin tưởng); và xã hội dân sự (đặc biệt là các thành viên của các tổ
chức tự nguyện).
Như vậy, giữa các tác giả trên vừa có sự thống nhất lại vừa có cách hiểu khác nhau
về vốn xã hội. Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về vốn xã hội song điểm cốt lõi
trong những cách định nghĩa nêu trên thì thấy vốn xã hội xoay quanh ba yếu tố
chính có mối liên hệ mật thiết với nhau, đó là khả năng làm việc chung với nhau,
sự tin cậy giữa các con người với nhau và các mạng lưới xã hội. Tựu chung, đặc
trưng cơ bản của vốn xã hội chính là niềm tin, sự tin cẩn; sự tương hỗ có đi có lại;
các quy tắc, các chuẩn mực và chế tài; và cuối cùng là sự kết hợp các chuẩn mực
với nhau thành mạng lưới.
3.Tính hai mặt của vốn xã hội:
a.Tích cực (Lợi ích):

-Fukuyama qua bài báo “Vốn xã hội và phát triển: Chương trình nghị sự sắp tới”
(Fukuyama, 2002) nhấn mạnh đến tính tích cực của vốn xã hội. Tác giả này bàn về


mối liên hệ giữa vốn xã hội và sự phát triển trên phạm vi tồn cầu. Ơng chỉ ra cách
mà vốn xã hội có thể đóng góp vào phát triển kinh tế và xóa bỏ đói nghèo.
Fukuyama giải thích rằng vốn xã hội đã giử vai trò quan trọng trong sự phát triển
của nhiều doanh nghiệp ở Mỹ La tinh. Vốn xã hội cũng giúp cho nhiều người vượt
vượt ra khỏi những khó khăn trong giai đoạn suy thối kinh tế và thất nghiệp gia
tăng ở khu vực này.
-Qua một nghiên cứu khác, với tiêu đề “Vốn xã hội, xã hội dân sự và phát triển”,
Fukuyama (2001) khẳng định vốn xã hội là những chuẩn mực khơng chính thức
thúc đẩy sự hợp tác giữa các cá nhân. Theo ông, trong các hoạt động kinh tế, mỗi
cá nhân sẽ giảm được nhiều chi phí giao dịch nhờ vào vốn xã hội giữa họ.
-Dưới một góc nhìn khác, thơng qua nghiên cứu “Vốn xã hội với sự thịnh vượng
và đói nghèo của các hộ gia đình ở Indonesia”, Grootaert (1999) đã phân tích vai
trị của vốn xã hội trong lĩnh vực kinh tế vi mô. Tác giả này chỉ ra rằng vốn xã hội
đã giúp làm giảm đi khả năng rơi vào tình trạng đói nghèo của các hộ gia đình.
Ơng cũng nhận định rằng vốn xã hội mang lại lợi ích dài lâu đối với các hộ gia
đình, mà cụ thể ở đây là việc tiếp cận dịch vụ tín dụng để tạo ra thu nhập ổn định.
-Qua nghiên cứu “Vai trị của vốn xã hội trong phát triển tài chính” (Guiso,
Sapienza, & Zingales, 2004), Guison và cộng sự đã chỉ ra tác dụng của vốn xã hội
đối với phát triển tài chính ở một nước phát triển là Italia. Các tác giả cho biết
trong những vùng có mức vốn xã hội cao, hộ gia đình thường tiếp cận với tín dụng
chính thức nhiều hơn là tín dụng phi chính thức. Nhóm các tác giả này cũng nhận
thấy mối liên hệ giữa vốn xã hội với địa phương cá nhân được sinh ra. Cụ thể là
mức độ vốn xã hội có được ở những nơi mà cá nhân được sinh ra có ảnh hưởng
đến sự phát triển tài chính.
-Vai trị của vốn xã hội đối với phát triển kinh tế còn được khẳng định bởi
Woolcock và Narayan qua một loạt các nghiên cứu như “Vốn xã hội và phát triển

kinh tế: hướng tới một sự tổng hợp lý thuyết và khung chính sách” (Woolcock,
1998), “Vốn xã hội: hệ quả đối với lý thuyết phát triển, nghiên cứu và chính sách”
(Woolcock & Narayan, 2000), và “Vị trí của vốn xã hội trong việc lý giải những
kết quả kinh tế và xã hội” (Woolcock, 2001). Các tác giả này nhấn mạnh rằng vốn
xã hội có vai trị quan trọng trong việc huy động các nguồn lực nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ở đây, các tác giả đã phân biệt hai loại vốn xã hội: vốn xã hội “co


cụm” vào trong (bonding social capital) và vốn xã hội “vươn” ra ngoài (bridging
social capital). Vốn xã hội co cụm vào trong tồn tại trong các nhóm, cộng đồng, và
những cá nhân thuộc nhóm, cộng đồng đó có những đặc điểm tương đồng. Vốn xã
hội vươn ra bên ngoài tồn tại trong những quan hệ xã hội giữa các cá nhân vượt ra
bên ngồi giới hạn các nhóm, cộng đồng đồng nhất. Vốn xã hội co cụm bên trong
thì tốt trong những tình huống cá nhân muốn duy trì tình hình kinh tế vốn đã có,
cịn vốn xã hội vươn ra bên ngoài lại giúp cho cá nhân vươn lên phía trước.
Woolcock và Narayan đã dùng nhiều ví dụ để minh họa cho luận điểm này. Chẳng
hạn, vốn xã hội co cụm vào bên trong có thể giúp cá nhân giảm rủi ro hoặc bảo vệ
bí mật kinh doanh, trong khi đó vốn xã hội vươn ra bên ngồi lại giử vai trò quan
trọng đối với việc cải thiện lợi ích vật chất hay nâng cao sản lượng và lợi nhuận
(Woolcock & Narayan, 2000: 233).
-Ngoài lĩnh vực kinh tế, vốn xã hội cịn được coi là có ý nghĩa lớn trong việc hình
thành vốn con người. Điều này được minh chứng qua nghiên cứu “Vốn xã hội
trong việc tạo ra vốn con người” (Coleman, 1988). Coleman đã phân tích mối quan
hệ giữa ba loại vốn: vốn kinh tế, vốn xã hội và vốn con người và đi đến kết luận
rằng cả vốn kinh tế lẫn vốn xã hội đều có ý nghía tích cực đối với việc tạo ra vốn
con người. Ơng nhấn mạnh: vốn xã hội trong gia đình và cộng đồng có vai trị rất
quan trọng trong việc hình thành vốn con người cho thế hệ kế tiếp - được hiểu là
kết quả học tập của con cái. Coleman đã khảo sát tỷ lệ học sinh bỏ học cũng như
thành tích học tập của các em và đi đến nhận định rằng vốn xã hội của các bậc cha
mẹ có ảnh hưởng lớn đến vốn con người của con cái họ. Một nghiên cứu khác về

vốn xã hội và vốn con người của Portes cũng cho thấy rõ điều này. Dựa vào ví dụ
thực tế từ nghiên cứu của của Zhou và Bankstson về cộng đồng liên kết chặt của
người Việt Nam ở New Orleans (Mỹ), Portes (1998) kết luận rằng nhờ vốn xã hội
trong mạng lưới người Việt ở đây, việc học tập của con cái họ có được sự kiểm
sốt hiệu quả mà khơng cần thiết phải sử dụng tới các thiết chế kiểm sốt chính
thức hoặc cơng khai.
-Vốn xã hội cũng có vai trị khơng nhỏ trong việc xây dựng và phát triển một xã
hội dân sự là kết luận từ kết quả nghiên cứu của Putnam (1995, 2000) . Putnam
quan tâm đến mối quan hệ gắn kết giữa các cơng dân. Ơng cho rằng vốn xã hội
biểu thị cam kết công dân và là công cụ để hướng tới sự thịnh vượng. Theo
Putnam, vốn xã hội tăng cường các chuẩn mực phổ biến; vốn xã hội làm đơn giản
hóa sự hợp tác; vốn xã hội cung cấp khn mẫu văn hóa cho các giải pháp của


hành động tập thể. Putnam (2000) còn nhấn mạnh rằng vốn xã hội mang đưa đến
hỗ trợ lẫn nhau, sự hợp tác và lịng tin. Điều đó giúp nâng cao học vấn, cải thiện
điều kiện chăm sóc trẻ em, mang lại an toàn cho cộng đồng, và tạo ra hạnh phúc về
mặt vật chất lẫn tinh thần.
b. Tiêu cực (Rủi ro):
Theo Portes (1998) vốn xã hội chứa đựng trong nó ít nhất là bốn hậu quả tiêu cực:
- Thứ nhất, đó là sự loại trừ những người ngồi. Vốn xã hội thường mang lại các cố
kết bên trong nhóm. Tuy nhiên, những cố kết như thế lại tạo ra khó khăn cho việc
mở rộng nhóm, đồng thời ngăn cản sự tham gia của những người bên ngồi.
-Thứ hai là địi hỏi thái quá đối với thành viên. Điều này có thể tốt nếu xét theo
khía cạnh tổ chức của nhóm. Nhưng mặt tiêu cực là ở chỗ nó hạn chế sáng kiến của
các thành viên.
-Thứ ba là hạn chế tự do cá nhân.
-Thứ tư là việc hạ thấp chuẩn mực của sự cách biệt trong nhóm. Vì vốn xã hội có
xu hướng tạo ra cố kết, giữ các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau nên trong
nhiều tình huống sự thành cơng của một cá nhân làm xói mịn liên kết nhóm. Nhiều

khi, vốn xã hội giữa các cá nhân ở những vị thế ngang bằng nhau nên đã làm triệt
tiêu tham vọng và sự sáng tạo của họ.
Fukuyama (2002) qua nghiên cứu của mình cũng đã chỉ ra tính hai mặt của vốn xã
hội. Vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng tạo ra sự trợ giúp hiệu quả cho doanh
nghiệp hoặc cho các cá nhân trong những thời điểm mà điều kiện kinh tế khó khăn.
Tuy nhiên, điều này cũng mang lại những hệ quả tiêu cực như sự thiếu tin tưởng
đối với người xa lạ, từ đó, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi mà các doanh
nghiệp lớn mạnh, phát triển lên. Về hệ quả tiêu cực, Putnam cịn cho rằng vốn xã
hội có thể tạo ra bè phái, tham nhũng, và tâm lý coi tộc người của mình là trung
tâm (trích lại từ Smith and Kulynych, 2002: 173).
Như vậy, có thể nói rằng vốn xã hội khơng chỉ có tác dụng tích cực mà còn gây ra
những hệ quả tiêu cực trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội từ kinh tế,
giáo dục, đến xã hội công dân, vv...
4.Vốn xã hội và chính sách phát triển kinh tế.


Vốn xã hội là một cầu nối giữa tiếp cận kinh tế và tiếp cận xã hội, và do đó cung
cấp những lí giải phong phú và thuyết phục hơn về hiện tượng phát triển kinh tế.
Nó cho thấy bản chất và chừng mực tương tác giữa các cộng đồng và thể chế có
ảnh hưởng quan trọng đến thành tựu kinh tế. Nhận định này có nhiều hệ luận quan
trọng cho chính sách phát triển mà cho đến nay hầu như chỉ nhắm vào mặt kinh tế.
+ Mọi chính sách đều có một bối cảnh xã hội, và mỗi bối cảnh ấy là một hỗn hợp
tế nhị giữa các tổ chức khơng chính thức (informal), những mạng (quen biết cá
nhân), và các thể chế. Do đó, quy hoạch chính sách địi hỏi, trước hết, một phân
tích xã hội và thể chế để nhận dạng mọi thành phần liên hệ, và liên hệ giữa các
thành phần ấy. Cụ thể, khi hoạch định một phương thức can thiệp kinh tế hay xã
hội, cần lưu ý đến khả năng các nhóm thế lực có thể động viên ảnh hưởng của họ
theo cách có hại cho cộng đồng chung.
+ Phải xem vốn xã hội là một nguồn lực như các nguồn lực khác trong mọi cơng
trình xây dựng, dự án phát triển, từ cơ sở hạ tầng, đến giáo dục, y tế, vv. Cũng nên

nhớ rằng vốn xã hội là một loại “hàng hoá cơng” và, cũng như các loại hàng hố
cơng khác, nó sẽ không được thị trường cung ứng đầy đủ. Sự hỗ trợ của nhà nước
là cần thiết.
+ Cần vun quén vốn xã hội, song vốn xã hội không phải bao giờ cũng tốt, vốn xã
hội thường là thuộc tính của một “cộng đồng”, một nhóm, đan xen, chồng chéo
nhau — ít khi của tồn thể quốc gia. Do đó, chính sách “phát triển vốn xã hội”
cần được cẩn thận chọn lọc, cụ thể, trong đó có cả biện pháp kết nối những cộng
đồng (mà nội bộ có vốn xã hội riêng) trong một nước (Granovetter). Nó khơng thể
là một chính sách chung chung. Sự phân cực, manh mún trong xã hội sẽ làm giảm
vốn xã hội. Muốn phát triển kinh tế, chúng ta phải vuợt lên những chia rẽ trong xã
hội, làm xã hội gắn kết hơn.
+ Cần tăng cường khả năng tổ chức, phối hợp của người thu nhập thấp (nhưng lại
có thể rất giàu vốn xã hội), và giúp những tập thể, những nhóm xã hội, liên kết với
nhau. Đặc biệt quan trọng là “bắt cầu” (danh từ của Granovetter) giữa những
nhóm xã hội, bởi lẽ nhiều quyết định có ảnh hưởng đến người nghèo là khơng xuất
phát từ địa phương. Nhằm mục đích này, phải cổ động sự tham gia đông đảo để
tiến đến sự đồng thuận, cũng như tương tác xã hội, giữa những người (khác nhau
về quyền lợi và chênh nhau về nguồn lực) trong tầm ảnh hưởng của quyết định ấy.
+ Các tổ chức viện trợ của nước ngồi thường có một câu hỏi bức xúc: làm sao để
trợ giúp thành phần nào đó trong một xã hội vô cùng phức tạp, xa lạ đối với họ.
Tiếp cận “vốn xã hội” nhấn mạnh rằng tiêu chuẩn chấp thuận một dự án hỗ trợ như
thế không thể chỉ dựa vào các tiêu chuẩn công nghiệp và tài chính, mà cịn phải để
ý đến vốn xã hội địa phương.
+ Từ quan điểm vốn xã hội, ta càng thấy cần có những chính sách “tiết lộ thơng
tin” (information disclosure) ở mọi cấp để cơng dân có nhiều thông tin hơn, và do


đó tăng cường “tính trách nhiệm” ở khu vực cơng lẫn tư. Quan niệm vốn xã hội
đưa đến ý nghĩ là một chính sách tăng cường thơng tin, nhất là giữa các tầng lớp xã
hội, là cần thiết – thêm một lí do để nhà nước đầu tư vào những phương tiện truyền

thông đại chúng.
+ Liên hệ giữa các loại vốn xã hội thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế. Những
lối sống “cổ truyền” (dựa vào vốn xã hội giữa dân chúng) dần dần được thay thế
bằng những tổ chức xã hội có quy cũ hơn. Thị trường ngày càng mở rộng, quy mô
sản xuất ngày càng lớn, nhưng sự phát triển ấy chỉ có thể bền vững nếu số lượng và
chất lượng vốn xã hội là đầy đủ và thích hợp. Nhìn cách khác, ở mỗi giai đoạn
phát triển là một tỷ lệ tổ hợp tối ưu giữa vốn-xã-hội-dân-sự và vốn-xã-hội-nhànước và, trong chừng mực có thể, chính sách phải linh động đồng nhịp với những
thay đổi ấy.
II. Thực trạng vốn xã hội tại Việt Nam.
1.Các vấn đề của vốn xã hội ở Việt Nam.
Trước hết, khi bàn về vốn xã hội ở Việt Nam, cần đánh giá kết cấu nền tảng xã hội
và tâm lý được biểu hiện ở những nét tính cách, phong tục tập quán, cách suy nghĩ,
lối sống của người Việt, nhiều ý kiến nổi bật được đề cập, phân tích sâu về những
nhược điểm có tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn hóa, khoa học, giáo
dục của đất nước.
Yếu kém thứ nhất của người Việt là về đầu óc tưởng tượng. Trong kiến trúc
truyền thống, ta khơng có cơng trình nào tầm cỡ như Angkor Wat của người
Khmer. Trong kho tàng văn học, những tác phẩm hay nhất của ta cũng lấy cốt
truyện dựa theo Tàu. Ta ít có những pho truyện lớn, với nhiều tình tiết phức tạp hay
ý tưởng kỳ lạ độc đáo, lôi cuốn người đọc vào những thế giới tưởng tượng nửa
thực nửa hư như ở nhiều nền văn học lớn khác trên thế giới. Hồn cảnh lịch sử
cũng đã giam hãm ơng bà ta quá lâu trong lối học từ chương khoa cử, nên tư duy bị
gị bó, chúng ta thiếu những nhà tư tưởng lớn, những triết gia tầm cỡ nhân loại.
Tóm lại, gia tài để lại về trí tưởng tượng sáng tạo của chúng ta phải nói là khiêm
tốn. Trong thời đại kinh tế tri thức, đây là một nhược điểm mà nếu không cố gắng
khắc phục nhanh ta sẽ luôn ở thế yếu trong sự cạnh tranh với thế giới.
Nhược điểm thứ hai cần nói đến là tinh thần kỷ luật và ý thức gắn kết cộng
đồng chưa cao. Tính cách này ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển khoa học, công
nghệ, và xây dựng công nghiệp. Nền văn minh hiện đại đòi hỏi mọi người phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, nề nếp đã được chuẩn hóa chính xác để bảo



đảm sự vận hành nhịp nhàng tối ưu của xã hội. Thế mà đã có biết bao cơng trình
xây dựng, nhà máy trên đất nước ta vừa mới khánh thành đã phải liên tục sửa chữa,
thậm chí làm lại, chỉ vì sự cẩu thả trong việc tuân thủ các quy trình, các chuẩn mực
từ thiết kế đến thi cơng. Đáng nói nhất là ý thức tơn trọng luật pháp chưa thành thói
quen hằng ngày ngay từ các quan chức, khiến trong xã hội có nhiều tình huống
tưởng như khơng có luật pháp, rất nguy hiểm.
Nhược điểm thứ ba là thiếu tinh thần học hỏi, thực sự cầu thị. Người Nhật có
tinh thần khiêm tốn học tập cái hay của người khác và ít có thói chủ quan tự mãn,
tự ru ngủ, tự cho mình là nhất thiên hạ. Khác với nhiều người chúng ta, làm được
chút gì thì ba hoa thiên địa, đến khi thất bại thì chậm rút kinh nghiệm, viện đủ mọi
lý do để biện bạch ngoan cố. Đồng thời, cách học hỏi của người Nhật khơng mang
tính nô lệ, không bị lệ thuộc; tuy học người khác nhưng cũng biết đặt câu hỏi, lật
tới lật lui, tìm cho ra đạo lý, căn nguyên, chứ không tiếp thu máy móc hời hợt.
Cuối cùng, ngồi những nhược điểm đề cập trên đây, có một đặc tính tiêu
cực rất nghiêm trọng, đó là thói giả dối. Từ chỗ vốn khơng thuộc truyền thống của
người Việt, trong mấy chục năm nay, cái thói xấu này đã dần dần trở thành phổ
biến đến mức có thể nói đang trở thành một tính chất tiêu biểu. Và nếu cứ để bệnh
giả dối ngày càng xâm nhập sâu vào mọi ngóc ngách cuộc sống, kể cả các hoạt
động khoa học và giáo dục, thì thật đáng lo cho tiền đồ đất nước. Trong giáo dục,
căn bệnh này với các biến tướng của nó (tiêu cực trong thi cử, chạy theo thành tích,
v.v.) sẽ ngày càng lấn át các xu hướng lành mạnh tích cực, làm hỏng cả thanh thiếu
niên, đẩy họ vào lối sống sa đọa, khơng lý tưởng, khơng mục đích. Trong khoa học,
nếu khơng kịp thời chấn chỉnh thì nạn đạo văn và nạn gian dối trong các báo cáo
nghiên cứu sẽ phát triển ngày càng tinh vi, trắng trợn, xóa nhịa ranh giới giữa thật
và dỏm, đầu độc môi trường học thuật, làm nản lòng mọi người trung thực, đẩy
khoa học vào thế bế tắc rất khó thốt.
Điều thứ hai là việc xem xét tình trạng phát triển những tổ chức tự nguyện
của người dân trong sinh hoạt của cộng đồng bên ngồi thị trường và nhà nước,

hay nói cách khác là xem xét sự phát triển của xã hội dân sự.
Gần đây xã hội dân sự của chúng ta đang dần dần hình thành và mạnh lên.
Ngày càng có nhiều những người dân tập hợp trong những tổ chức tự nguyện hoạt
động ngồi khn khổ chính quyền và khơng nhằm lợi nhuận, chỉ với những mục


đích cao quý, như từ thiện, giúp đỡ, bênh vực người nghèo và những số phận
không may mắn, cả về vật chất lẫn tinh thần; hoặc đơn giản là hợp tác hỗ trợ nhau
trong nghề nghiệp. Qua những tổ chức đó, ý thức trách nhiệm cơng dân được nâng
cao, sự gắn kết cộng đồng được tăng cường, có lợi cho cộng đồng, có lợi cho đất
nước. Nhiều việc, thị trường và Nhà nước không thể làm, hoặc không thể làm tốt
bằng xã hội dân sự. Đồng thời, xã hội dân sự cũng là cầu nối giữa chính quyền và
người dân, là cái phanh để ngăn chặn chính quyền lạm dụng quyền lực và nạn suy
thoái đạo đức, giữ cho xã hội phát triển hài hòa, lành mạnh.
2.Một số vấn đề nổi bật của vốn xã hội ở Việt Nam.
a.Thành tựu.
Trong các vùng nông thôn ở nước ta, sự gắn kết xã hội (hay vốn xã hội) thường rất
cao. Các làng bản của người Việt Nam được gắn kết chặt chẽ với nhau bằng các
quan hệ xã hội và gia đình. Người dân trong một làng bản có một sự gắn kết chặt
chẽ với nhau khơng những vì họ có chung một nguồn gốc tổ tiên mà cịn có mối
quan hệ truyền thống đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm
và thiên tai. Có thể nói, mối quan hệ họ hàng là một thành phần trung tâm trong
vốn xã hội ở Việt Nam. Vai trò của các bậc cha mẹ có tầm quan trọng đặc biệt,
truyền thống phụ hệ và cúng bái tổ tiên càng cho thấy rõ sự cần thiết của gia đình
trong xã hội hiện đại.
Người Việt quan tâm gây dựng vốn xã hội và duy trì các quan hệ xã hội khơng chỉ
trong lĩnh vực sinh hoạt hàng ngày mà trong hoạt động bn bán, sản xuất kinh
doanh, xây dựng, di cư, xố đói giảm nghèo, tìm việc làm, khởi nghiệp và vận
hành doanh nghiệp. Vốn xã hội và mạng lưới xã hội có chức năng nâng cao khả
năng tìm kiếm và huy động các nguồn lực kinh tế, cung cấp thông tin, đem lại

những tác động tích cực đến sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.
Trong quá trình đổi mới, các doanh nghiệp Việt Nam từ mơ hình kinh doanh nhỏ
lẻ, tự phát, thiếu nền tảng đã chuyển dần sang mạng mở rộng với mơi trường thơng
tin bên ngồi có sự tham gia của các đầu mối thông tin chuyên nghiệp và các mạng
lưới xã hội chính thức và phi chính thức. Nhờ có các nguồn thơng tin này mà hoạt
động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, khả năng huy động vốn duy trì linh hoạt
hơn.
Khơng những ở trong nước, mạng lưới xã hội còn được nhân lên trên phạm vi quốc
tế, các tổ chức phát triển trên thế giới đã vào Việt Nam đầu tư cho nhiều dự án, cơ
sở hạ tầng, khoa học công nghệ... Mạng lưới xã hội được nới rộng cho nhiều tầng


lớp quần chúng, điều này làm nhẹ gánh ngân quỹ, kích thích sự vươn lên của kinh
tế quốc gia.
b. Hạn chế.
Song song với những mặt tốt kể trên, vốn xã hội Việt Nam cịn tồn tại khơng ít tiêu
cực như hạn chế việc mở rộng quan hệ xã hội, gây nghi ngờ đối với người ngoài
mạng lưới xã hội và gây khó khăn cho việc chuyển hố giữa các loại vốn với nhau.
Giống như những nước phương Đông khác, người Việt thường đầu tư phát triển
vốn xã hội trong quan hệ gia đình, dịng họ và người thân quen tức là vốn xã hội vi
mô. Điều này tuy phù hợp với lối sản xuất tiểu nông, tự túc và phân tán nhưng khó
có thể thích nghi với u cầu sản xuất công nghiệp theo cơ chế thị trường, khi mà
đất nước đang hòa vào thế giới, hướng đến hội nhập và mở cửa kinh tế quốc tế.
Căn cứ vào mối quan hệ của các loại vốn kinh tế, vốn con người và vốn xã hội mà
người Việt có các chiến lược ứng xử khác nhau: nhóm có vốn con người cao
thường có xu hướng đầu tư phát triển và mở rộng mạng lưới xã hội với sự tham gia
của các đầu mối chuyên môn, chuyên nghiệp để đảm bảo duy trì và phát triển vốn
con người cùng các nguồn vốn khác một cách bền vững. Trong khi đó, những cá
nhân có vốn con người thấp thường chỉ giới hạn quan hệ xã hội trong phạm vi gia
đình và người thân quen, cịn đối với người khác thì tỏ ra ít tin cậy và ứng xử thiếu

tầm chiến lược theo kiểu tiền trao cháo múc. Điều này có khả năng làm tăng nguy
cơ đói nghèo, thúc đẩy việc sử dụng những chiến lược sinh kế ví dụ như bắt trẻ em
bỏ học sớm, gây tổn hại cho sự phát triển bền vững. Vốn con người của thế hệ cha
mẹ ở nông thơn chủ yếu bao gồm một trình độ học vấn tối thiểu (như tiểu học đối
với người nông dân) và kỹ năng lao động giản đơn đặc trưng cho nghề nông truyền
thống.
Những năm gần đây dưới tác động của các u cầu từ phía cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, đơ thị hoá và nhất là kinh tế thị trường, vốn con người ngày càng được
nhiều cá nhân, gia đình quan tâm phát triển bằng cách đầu tư cho giáo dục-đào tạo
bậc cao (trung học phổ thông, cao đẳng, đại học) để có việc làm và thu nhập ổn
định. Vốn xã hội và quan hệ xã hội của người Việt đang biến đổi từ mơ hình mạng
lưới xã hội kiểu truyền thống sang kiểu hiện đại, từ mạng lưới xã hội đồng đẳng,
đơn giản sang mạng lưới xã hội phân tầng, phức tạp. Tuy nhiên, sự biến đổi vốn xã
hội và quan hệ xã hội diễn ra chậm chạp do thói quen và những truyền thống văn
hoá lâu đời của người dân. Do đó, một sự biến đổi nhanh chóng và vững chắc phụ
thuộc nhiều vào chính sách phát triển kinh tế-xã hội và môi trường pháp lý và các
thiết chế thúc đẩy sự hợp tác trên cơ sở lòng tin, sự tin cậy và trách nhiệm lẫn nhau
trong phạm vi toàn xã hội dưới tác động của hội nhập kinh tế thế giới và tồn cầu
hố.


Trong các doanh nghiệp Việt Nam, do sự thay đổi từ mơi trường, các chi phí bổ
sung đều có ảnh hưởng nhất định tới lợi ích của người lao động và của cơng ty.
Việc điều hịa lợi ích trong bối cảnh cơ sở ban đầu của sự hợp tác là sự tin cậy,
tiếng tăm của công ty cũng thay đổi theo thời gian. Các chủ thể liên quan trong
công ty không kịp thời điều chỉnh mục tiêu của hợp tác, do đó gây ra những hành
động bất hợp tác. Sự bất hợp tác còn là do mạng lưới lỏng lẻo giữa người lao động
với các bộ phận trong doanh nghiệp; và nhiều hoạt động chưa hình thành những
hành động tiêu chuẩn được thể chế hóa buộc mọi thành viên phải tham gia, như
thiết lập quan hệ giữa công nhân với các bộ phận đại diện (cơng đồn); chưa có cơ

chế kết nối hoặc khai thác thơng tin hình thành mạng lưới giữa người lao động với
lãnh đạo các công ty mẹ; đặc biệt là các thỏa ước lao động được thể chế và chính
thức hóa, buộc tất cả các bộ phận phải tuân theo.
Sự khủng hoảng vốn xã hội trong những thập niên vừa qua phát sinh ra hai
hướng đi vòng tạo nên sự biến thể tiêu cực của vốn xã hội: thứ nhất hiện trạng
nghèo khổ thiếu thốn vật chất cùng với nạn thất nghiệp, trẻ em đường phố, biện
pháp y tế còn khiếm khuyết, giáo dục tắc nghẽn vi thiếu hụt ngân quỹ v.v..., đã thúc
đẩy những tổ chức tơn giáo, nhân đạo thiện nguyện tình nguyện đứng ra hoạt động
xã hội, bằng những con đường tránh né, bán cơng khai.
Đồng thời với những trợ giúp bên ngồi, vốn xã hội ở Việt Nam đang đứng
trước nguy cơ phá sản với những hiện tượng tiêu cực đã đề cập trên. Vốn xã hội
hiện nay như tình trạng của những cột bê tông bằng tre : sự tin cậy bị phá sản vì
tham nhũng và lạm dụng; an lạc cộng đồng tan vỡ. Những nhóm bên lề phát sinh,
nạn thanh thiếu niên phạm pháp và bị lợi dụng, nạn mại dâm, nạn buôn người,
buôn gái, nhiễm HIV ngày càng gia tăng, kẻ vô gia cư, du thủ du thực, băng đảng
phạm pháp v.v... Hiện tượng nhóm bên lề xã hội báo hiệu tiềm năng bất ổn định
của vốn xã hội. Những nhóm người này vì khiếm khuyết giáo dục, ngôn ngữ không
được trau dồi, tương quan đời sống kinh tế khó khăn khơng được hội nhập vào
trong lịng xã hội. Họ ở bên ngoài chuẩn tắc xã hội và những giá trị nhân bản, bị cô
lập và loại trừ, khơng được hội nhập vào q trình sản xuất của xã hội, họ trở nên
gánh nặng của nhà nước. Hiện tượng xã hội bên lề không do những kẻ trong cuộc
lựa chọn mà chính là kết quả của chiến thuật loại trừ và làm tê liệt của những đoàn
thể đang chế ngự. Giai cấp giàu nghèo đang được hình thành nhanh chóng trong
lúc nền tảng đạo đức chỉ là những cộc tre mục nát, sự bóc lột con người đang có
thể trở nên qui luật sống, nếu khơng có sự bảo vệ của luật pháp nghiêm chỉnh.
Hiện trạng này cho thấy, một vốn xã hội khép kín với hệ thống đồn thể
khép chặt, đảng viên và lý lịch cơng trạng thường gây nên sự kì thị và khai trừ


những thành phần xã hội khác, một vốn xã hội nhỏ (so với con số 80 triệu người

cịn lại) khơng có khả năng hội nhập xã hội.
Cần phải nhận rõ xã hội dân sự nằm trong vịng quyền lực chính trị và chính
những tác động của chính quyền thúc đẩy sự phát triển xã hội nhưng ngược lại
cũng có thể làm cho vốn xã hội phá sản do những biện pháp có tính tồn trị làm tắt
nghẽn mạch sống xã hội dân sự luôn luôn biến đổi. Mặt khác, hiện tượng vốn tiêu
cực tại Việt Nam cho thấy mức độ tin tưởng duy nhất vào một hội đồn có thể là
trở ngại cho sự tin tưởng chung. Ngồi ý chí tình nguyện của cá nhân, chính nhà
nước phải có những quy tắc cơ bản làm trung gian và bảo đảm sự tôn trọng lẫn
nhau qua luật pháp dân sự, và chính sự tơn trọng luật pháp dân sự mới bảo đảm
quyền bình đẳng. Tìm hiểu thêm những nguyên nhân sâu xa của sự tương liên giữa
con người đang chung vốn xã hội cho thấy bề dày quá khứ của giáo dục gia đình
qua truyền thống tơn giáo và truyền thống đạo đức là những yếu tố ấn định tính xã
hội khơng đến sau yếu tố chính trị cũng như ý thức hệ và văn hoá.
Từ những suy nghĩ trên cho thấy vấn đề then chốt của vốn xã hội thật sự
nằm trong khả năng ứng dụng vốn xã hội mang tính xã hội chân thực, hầu thiết lập
một nền hồ bình xã hội tồn diện bảo đảm an sinh và hạnh lạc của cộng đồng.
Khả năng ứng dụng nằm trong hai điểm then chốt : mở cửa và hội nhập trong năng
động và thức tỉnh, bởi lẽ xã hội là một khái niệm mở. Nhìn tồn diện, xã hội xuất
hiện như một dòng thác đầy sinh động cũng như đa dạng, phức tạp trong sự chuyển
tiếp và chuyển biến không ngừng. Cần phải nắm bắt được yếu tính của dịng chảy
con người bằng một cái nhìn mới có khả năng tự điều chỉnh và đổi mới một cái
nhìn tồn diện “khơng bỏ sót một hữu tình nào”.
Khơng đóng kín, mở rộng mạng lưới xã hội và tạo khả năng hội nhập là điều
kiện cho sự phát triển cộng đồng, cho hồ bình xã hội. Một loại vốn xã hội khơng
có khả năng hội nhập rộng rãi là vốn xã hội ảo (nó chỉ thực cho một nhóm người)
hay phi xã hội (J. Harris).
Nhìn vào thực trạng xã hội Việt hiện nay, để phát triển và nâng cao vốn xã
hội trong cộng đồng, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của đất nước rất
cần phải lưu tâm đến hai điều:
+ Thứ nhất, cần nhận thức rõ những điểm yếu trong con người Việt Nam, tìm ra

nguyên nhân để từ đó có cách hạn chế và loại trừ. Trong số các nguyên nhân, cần
đặc biệt chú ý tới những vấn đề về thể chế Nhà nước và cơ chế thị trường, vì mặc
dù vốn xã hội nằm ngồi phạm trù thể chế và cơ chế thị trường nhưng những cải
cách về thể chế Nhà nước và cơ chế thị trường lại có tác dụng thúc đẩy phát triển


vốn xã hội. Ví dụ đơn giản như nếu cơ chế thị trường khơng phát triển, thì người
dân khơng có động cơ cạnh tranh, khiến cho trí tưởng tượng sáng tạo khơng được
phát huy và ngày càng teo tóp.
+ Thứ hai là phải tạo điều kiện phát triển xã hội dân sự thay vì ràng buộc và hạn
chế nó, bởi ngày càng thấy rõ vai trị khơng thể thiếu được của xã hội dân sự trong
sự phát triển của đất nước. Một xã hội dân sự phát triển lành mạnh, có tiếng nói và
vai trị độc lập với thể chế và thị trường, mới có thể góp phần nâng cao vốn xã hội
và qua đó phục vụ lợi ích của cộng đồng ở những việc mà thị trường và nhà nước
khơng hoặc khó làm được tốt.
3. Sự cần thiết phải nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam.
a. Việc nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam
Có thể chia các nghiên cứu về vốn xã hội trong nước thành hai nhóm. Nhóm thứ
nhất quan tâm đến việc tổng kết, giới thiệu lý thuyết về vốn xã hội. Nhóm thứ hai
tập trung vận dụng lý thuyết vốn xã hội trong các nghiên cứu thực tiễn.
Về hướng nghiên cứu thứ nhất, nổi bật nhất là Trần Hữu Dũng, với bài viết “Vốn
xã hội và kinh tế” (Trần Hữu Dũng, 2003). Qua bài viết này Trần Hữu Dũng đã
lược duyệt và đánh giá một số quan niệm khác nhau về vốn xã hội. Tác giả đề cập
đến các quan điểm lý thuyết của Pierre Bourdieu, James Coleman, Robert Putnam,
Francis Fukuyama, Hernando de Soto. Ông cho rằng cần phải làm rõ hơn đặc điểm
của vốn xã hội trong mối quan hệ với các loại vốn khác. Trong một bài viết khác
với tên gọi: “Vốn xã hội và phát triển kinh tế” (Trần Hữu Dũng, 2006), tác giả này
cũng chỉ ra mối quan hệ giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế, vốn xã hội và chính
sách kinh tế. Bằng cách điểm lại các luận điểm đã có, Trần Hữu Dũng nhấn mạnh
rằng vốn xã hội giúp tiết kiệm phí giao dịch, nâng cao mức đầu tư. Ơng cũng cho

biết vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và tốc độ tích lũy vốn con
người.
Tiếp đến là Trần Hữu Quang với bài viết “Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội” (Trần
Hữu Quang, 2006). Trong bài viết này Trần Hữu Quang bàn về quan điểm vốn xã
hội của nhiều tác giả nước ngồi như Bourdieu, Putnam, Fukuyama, qua đó nhấn
mạnh rằng “vốn xã hội là một hiện thực đặc trưng của những mối dây liên kết giữa
con người với nhau trong một cộng đồng hay một xã hội”. Theo quan điểm của


Trần Hữu Quang thì cần bàn về vốn xã hội trong mối quan hệ với chuẩn mực, sự
cố kết, và hợp tác. Ơng lưu ý đến việc phân tích vốn xã hội trong bối cảnh văn hóaxã hội và các định chế xã hội. Bàn về vốn xã hội còn có thêm các tác giả khác như
Lê Ngọc Hùng, Hồng Bá Thịnh. Lê Ngọc Hùng (2008) giới thiệu khái quát lí
thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn xã hội và mạng lưới xã
hội ở Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh tập trung phân tích quan niệm về vốn xã hội,
mạng lưới xã hội và nhấn mạnh đến chức năng của vốn xã hội. Đồng thời, tác giả
này cũng bàn sâu về những phí tổn để duy trì vốn xã hội và mạng lưới xã hội
(Hồng Bá Thịnh, 2009).
Có thể điểm thêm một số bài viết như: “Vốn xã hội và phát triển”(Nguyễn Ngọc
Bích, 2006), “Vốn và vốn xã hội” (Nguyễn Quang A, 2006), “Vốn xã hội ở Việt
Nam” (Nguyễn Vạn Phú, 2006Phát huy dân chủ để làm giàu vốn xã hội” (Phan
Đình Diệu, 2006), “Lòng tin trong xã hội và vốn xã hội” (Trần Hữu Quang, 2006),
“Lời giải cho bài toán phát huy vốn xã hội” (Phan Chánh Dưỡng, 2006), vv...Tuy
nhiên, các bài viết này vẫn chỉ dùng lại ở việc giới thiệu và bàn luận về lý luận
chung chứ chưa tạo nên được luận điểm lý thuyết cụ thể làm cơ sở cho các nghiên
cứu thực nghiệm.
Về hướng nghiên cứu thứ hai, tức là hướng nghiên cứu thực nghiệm về vốn xã hội.
Với hướng nghiên cứu này Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh đã chỉ ra vai
trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội. Các tác giả cho biết vốn
xã hội có vai trị quan trọng giúp các doanh nghiệp vay vốn để khởi nghiệp
(Appold & Nguyen Quy Thanh, 2004). Nghiên cứu “Vốn xã hội, vốn con người và

mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam” của Lê Ngọc Hùng (2008)
bàn về các quan niệm khác nhau về vốn xã hội. Tác giả đề cập đến mơ hình tổng
hợp về vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội. Trên cơ sở đó, ơng bàn
thêm về kết quả của một số nghiên cứu cụ thể trên các phương diện: mạng lưới xã
hội của người lao động, mạng thông tin của doanh nghiệp, mạng di cư, vai trò của
các loại vốn trong xóa đói, giảm nghèo.
Cũng về hướng nghiên cứu thực nghiệm, Fleur Thomése và Nguyễn Tuấn Anh đã
vận dụng quan điểm vốn xã hội để nghiên cứu hiện tượng dồn điền đổi thửa trong
sản xuất nông nghiệp ở một làng Bắc Trung Bộ qua nghiên cứu “Quan hệ họ hàng
với việc dồn điền đổi thửa và sử dụng ruộng đất dưới góc nhìn vốn xã hội ở một
làng Bắc Trung Bộ (Thomése & Nguyễn Tuấn Anh, 2007). Các tác giả này đã


chứng minh rằng chính nhờ vào nguồn vốn xã hội nên các hộ nơng dân có thể tiến
hành dồn thửa, đổi ruộng một cách phi chính thức mà khơng cần dựa trên giấy tờ
hay quan hệ mang tính chính thức và pháp lý. Đấy là một trong những yếu tố quan
trọng giúp q trình sản xuất nơng nghiệp được linh hoạt, hiệu quả hơn. Gần đây,
Nguyễn Tuấn Anh (2010) có thêm kết quả nghiên cứu về vai trò của vốn xã hội
trong khu vực nông thôn Bắc Trung Bộ. Với nghiên cứu này tác giả đã làm rõ sự
biến đổi vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng. Chẳng hạn người nông dân
đã sử dụng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng để theo đuổi các lợi ích kinh tế
liên quan đến sản xuất nơng nghiệp, nghề thủ cơng, và hoạt động tín dụng. Ngồi
ra, người viết cũng làm rõ vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng đối với
việc tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ trẻ em đến trường, tức là góp phần tạo
ra vốn con người.
b. Sự cần thiết nghiên cứu vốn xã hội
Nhìn lại các nghiên cứu về vốn xã hội đã được phân tích ở trên, chúng ta thấy nhu
cầu thực sự của việc nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trước hết,
việc nghiên cứu về vốn xã hội ở khu vực nơng thơn sẽ giúp nhận ra vai trị tích cực
của loại vốn này trong giai đoạn đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế hiện nay. Mặc dù các nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam đã
đạt được những thành tựu nhất định. cho đến nay, vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ. Một
thực tế khác rất dễ thấy trong xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội được vận
hành bằng những mối quan hệ “thân thuộc” mang đặc trưng “lợi ích nhóm.” Loại
VXH này tuy làm lợi cho một số ít cá nhân ở các nhóm lợi ích nhưng xét trên tổng
thể về VXH (như quan điểm của Fukuyama) thì nó khơng những khơng đóng góp
tích cực cho sự phát triển của xã hội mà còn làm tổn hại nghiêm trọng đến niềm
tin và chuẩn mực xã hội. Một xã hội khơng cịn niềm tin và những chuẩn mực là
một xã hội đang đứng bên bờ vực tan rã. Những biệt ngữ “chạy án”, “làm luật” hay
“lách luật” đang được sử dụng hết sức phổ biến hiện nay là những minh chứng rõ
nét về sự suy giảm nghiêm trọng niềm tin đối với luật pháp. Việc “chạy trường”,
“xin điểm”, “bằng giả, bằng rởm”… là những chỉ báo cho thấy các chuẩn mực về
học vấn, nhân cách, tiêu chí giáo dục,… bị đảo lộn. Để giải quyết những vấn đề nói
trên thì việc nghiên cứu VXH và áp dụng trong thực tiễn của Việt Nam là một điều
hết sức cần thiết. Việc làm này “tuy muộn nhưng còn hơn khơng.” Tuy nhiên, tất cả
các vấn đề nói trên chỉ có thể được giải quyết trong một xã hội dân sự.


Thứ hai, với bản chất hai mặt, vốn xã hội khơng chỉ có những tác động tích cực mà
cịn gây ra những hệ quả tiêu cực đối trong thực tiễn cuộc sống. Liệu rằng với cơ
chế thị trường và bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, việc sử dụng vốn xã hội ở nơng
thơn có tạo ra những giới hạn đối với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế? Ngoài ra,
những nghiên cứu như vậy sẽ cho phép khái quát hóa về mặt lý thuyết sự vận động
lẫn vai trị của vốn xã hội trong đời sống kinh tế xã hội. Nghiên cứu về vốn xã hội
sẽ góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt ra trong tiến trình phát triển xã hội nơng
thơn nói riêng cũng như phát triển xã hội nói chung ở nước ta những năm sắp tới.
Cụ thể là kết quả của những nghiên cứu này sẽ cung cấp thêm các luận cứ khoa
học cho các nhà quản lý trong việc hoạch định chính sách và biện pháp nhằm phát
triển nông thôn, nhất là các chính sách về tích tụ ruộng đất, đổi mới sản xuất tiểu
thủ cơng nghiệp, dịch vụ tín dụng, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, và mở

rộng dân chủ cơ sở.



×