PHẦN THỨ HAI
MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG,
XÂY DỰNG NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM THỐNG NHẤT
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1862
219
Chương V
PHÁT TRIỂN KINH TẾ,
ỔN ĐỊNH XÃ HỘI,
TĂNG CƯỜNG CÁC NGUỒN LỰC
BẢO VỆ BIÊN GIỚI TÂY NAM
I- CẢI TẠO VÀ ĐÀO MỚI HỆ THỐNG KÊNH RẠCH Ở VÙNG BIÊN GIỚI
TÂY NAM
Cảnh quan thiên nhiên Nam Bộ nói chung, vùng biên giới Tây Nam
nói riêng khá nổi bật với sự kết hợp hài hịa của mạng lưới sơng ngịi
thiên nhiên và kênh đào nhân tạo. Các kênh đào Bảo Định, Thoại Hà,
Vĩnh Tế, Vĩnh An… do nhiều thế hệ di dân tạo tác một cách kiên trì,
khơng mệt mỏi, đã nối kết các sông rạch thiên tạo và nhân tạo thành
một hệ thống sơng nước chằng chịt, dầy đặc, hài hịa và tiện dụng ở trên
vùng đất được mệnh danh là xứ sở sông nước này.
Khi người Việt đến khai phá vùng đất Nam Bộ, đứng trước những
điều kiện tự nhiên sông nước đầy thuận lợi cho việc vỡ hoang, mở rộng
sản xuất, nhưng cũng tiềm ẩn khơng ít nguy cơ đe dọa từ thiên nhiên,
thế hệ này tiếp nối thế hệ khác đã không ngừng ra sức cải tạo, nạo vét,
khai mương, đào kênh, bổ sung cho những khiếm khuyết của thiên
nhiên, để cho hệ thống sơng ngịi Nam Bộ hiệu quả hơn. Công cuộc này
đã tạo ra hệ thống dẫn nước vào các đồng ruộng, đồng thời cũng hình
thành những con đường thủy thuận tiện cho việc di chuyển, buôn bán
220
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
tại vùng đất Nam Bộ, tăng cường sức mạnh về kinh tế và giao thông cho
hệ thống sông ngòi vốn đã rất phong phú.
Bởi vậy, mặc dù hệ thống kênh rạch tự nhiên ở Nam Bộ nói chung,
vùng biên giới Tây Nam nói riêng, vốn đã rất chằng chịt, những di dân
đến khai phá mảnh đất này đã sớm chú ý đến việc đào kênh.
Thật ra, không đợi đến khi người Việt vào khai phá, miền Tây Nam
Bộ mới xuất hiện các dòng kênh nhân tạo. Từ rất xa xưa, trong thời kỳ
văn hóa Ĩc Eo, cư dân Phù Nam đã rất giỏi đào kênh, phát triển sản
xuất nông nghiệp và mở rộng giao lưu buôn bán. Các nhà Khảo cổ học
đã phát hiện ra hàng trăm kilômét kênh đào từ Ba Thê - Óc Eo tỏa ra các
hướng. Tuyến thứ nhất, từ Ba Thê - Óc Eo chạy thẳng đến Angkor Borei.
Tuyến thứ hai, từ Ba Thê - Óc Eo đến Nền Chùa - được coi là tiền cảng
của cảng thị Óc Eo. Đây là tuyến kênh đi ra biển. Bám sát dọc hai bên
bờ kênh này có nhiều dấu tích cư trú của người Phù Nam. Tuyến thứ ba,
nối liền Ba Thê - Óc Eo với cụm di tích Đá Nổi - vốn là những đền đài
quan trọng. Đây vừa là dấu tích của những cơng trình thủy lợi bề thế,
vừa là hình bóng cịn lại của các tuyến đường giao thông huyết mạch nối
liền những hệ thống cảng, đô thị cổ, các trung tâm kinh tế, hành chính
và tơn giáo lớn nhất, quan trọng nhất của vương quốc Phù Nam.
Ban đầu, có thể là học được truyền thống của người Phù Nam, khi
mới chân ướt chân ráo đặt chân tới vùng đất Nam Bộ, người Việt di cư
đã bắt tay ngay vào việc đào kênh.
Người mở đầu truyền thống đào kênh khai hoang ở miền biên giới Tây
Nam này chính là người khai mở hệ thống hành chính Nam Bộ - Chưởng
cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc là Nguyễn Hữu Kính).
Năm 1700, sau khi hành quân từ Chân Lạp trở về, ông đã tổ chức cho
binh dân nạo vét lịng sơng và mở mang đất đai ở khu vực Vàm Nao
(Chợ Mới, An Giang). Nhiều tướng lĩnh, quan chức của chúa Nguyễn
theo gương Nguyễn Hữu Cảnh cũng đều tranh thủ triển khai cơng việc
khai hoang và đào kênh mỗi khi có điều kiện, nhưng thường là quy mô
nhỏ. Phải đến thời các vua nhà Nguyễn thì cơng cuộc đào kênh mới
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
thực sự trở thành một chiến lược phát triển tổng thể khu vực Nam Bộ,
đặc biệt là miền Tây Nam Bộ. Ngay từ những năm tháng đầu tiên xây
dựng Vương triều, các vua đầu của nhà Nguyễn, trên danh nghĩa nhà
nước, đã trực tiếp đầu tư, tổ chức trên quy mô lớn, thậm chí là rất lớn,
các hoạt động đào kênh. Chính hệ thống kênh đào của nhà Nguyễn là
nền tảng lớn và cơ bản mà sau đó được tiếp tục phát triển và duy trì cho
đến ngày nay.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, đến thời Nguyễn,
nhà nước phong kiến Việt Nam đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm
trong công tác trị thủy và làm thủy lợi. Trong bối cảnh đất nước
thống nhất và tương đối ổn định, các vua đầu triều Nguyễn có điều
kiện thực hiện những cơng cuộc trị thủy to lớn và tồn diện1. Dưới
triều vua Gia Long và Minh Mệnh, một khối lượng lớn các cơng
trình trị thủy kỳ vĩ đã được tiến hành, đặc biệt là các cơng trình
đào đắp và nạo vét kênh rạch khai khẩn vùng đất Nam Bộ, như đào
kênh Cái Cỏ (1815), đào kênh Thoại Hà (1817), nạo vét, cải tạo kênh
Bảo Định (1819), đào kênh Vĩnh Tế (1820-1824), đào kênh Trà Cú
(1829), đào kênh Vĩnh An (1843-1844)2...
1. Kênh Bảo Định
Một trong những con kênh đào đầu tiên và có vai trị chiến lược
quan trọng trên vùng đất Nam Bộ trong công cuộc Nam tiến của người
Việt có thể kể đến chính là kênh Bảo Định (Tiền Giang). Thoạt đầu,
dòng kênh này được lấy tên là kênh Vũng Gù. Đây là một cơng trình
nhân tạo nối liền rạch Vũng Gù và sông Mỹ Tho, giải quyết vấn đề tưới
tiêu cho những cánh đồng trũng nước ở khu vực này.
1. Xem Phan Khánh (Chủ biên): Sơ thảo lịch sử thủy lợi Việt Nam, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1981, t.1, tr.267.
2. Xem Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (Đồng chủ biên): Địa chí Long An,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.99.
221
222
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
Kênh Bảo Định
(Ảnh vệ tinh ngày 15-9-2008)
(Nguồn: Tôn Nữ Quỳnh Trân: “Kênh đào thời Nguyễn ở Nam Bộ”, bài in
trong Kỷ yếu Hội thảo Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt
Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Sđd, tr.210).
Thực ra, kênh Vũng Gù đã được đào từ năm 1705, trước hết vì mục
đích quân sự khi Nguyễn Cửu Vân đưa quân đến trấn giữ vùng này. Khi
đó, Nguyễn Cửu Vân đã huy động sức quân đào nối liền rạch Vũng Gù
và sông Mỹ Tho, tạo ra một con hào chiến lược, đồng thời cịn dùng
làm đường giao thơng1. Qua thời gian, kênh bị bùn đất bồi đắp, dịng
nước chảy khơng thơng, khiến cho việc đi lại trên dịng kênh này ngày
càng khó khăn, trở ngại. Trong sách Gia Định thành thơng chí, Trịnh Hồi
Đức cho biết: “đường thủy từ đơng sang tây rất xa, cho nên đến Vọng Thê
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.111.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
(tục gọi là Thang Trơng, vì là ban đầu dựng thang trơng ở đó để xem xét
đo đạc, nên mới gọi tên như thế), cùng nước thủy triều giao hội, tức là
chỗ giáp nước, lênh đênh lơ lửng, nước khơng có thể chảy mạnh, lại có
nhiều chỗ quanh co nhỏ hẹp, cho nên bùn cỏ chứa chất, ngày thêm cạn
lấp”1. Tấm bia Phụng khai tân cảng ký (còn gọi là bia đào kênh Bảo Định)
lập năm 1819 cũng ghi: “Đường sông này vốn có nhiều khúc quanh co,
nhiều chỗ sâu cạn, nên ghe thuyền các loại khó đi lại”2. Sách Đại Nam
nhất thống chí cũng cho biết: “Sơng này nhiều chỗ quanh co nhỏ hẹp,
mỗi ngày một nơng cạn dần”3.
Trước tình trạng đó, vào năm 1819, vua Gia Long ra lệnh đào vét và
mở rộng con kênh này, từ Vọng Thê (tức Thang Trơng) đến Húc Đồng
(tức Hóc Đùn) - bến Mỹ Tho dài 40,5 dặm (khoảng 14 km). Đây thực
sự là một cơng trình to lớn. Vua Gia Long đã cử 3 vị quan cao cấp của
Gia Định thành và 2 vị quan đứng đầu trấn Định Tường cùng tham gia
chỉ huy. Trong đó, Gia Định thành Phó tổng trấn, Thị trung Tả thống
chế, Lý Văn hầu Huỳnh Công Lý có trách nhiệm chỉ huy tồn bộ cơng
trình. Phụ tá cho Huỳnh Cơng Lý ở Gia Định thành có Hiệp tổng trấn
Lại bộ thượng thư An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức và Tổng đốc Chưởng
tiền quân, Bình Tây tướng quân, Đức quận cơng Nguyễn Huỳnh Đức.
Về trấn Định Tường có Trấn thủ Định Tường, Bửu Thiện hầu Nguyễn
Văn Phong trực tiếp chỉ huy dân phu tại cơng trình, và Chưởng cơ
Lãnh binh, Nhiệm Tín hầu (chưa rõ họ, tên) có nhiệm vụ huy động dân
phu4. Như vậy, người trực tiếp chỉ huy cơng trình đào vét quy mơ này là
Nguyễn Văn Phong, Trấn thủ trấn Định Tường.
Nhân lực để đào vét kênh Bảo Định lên đến gần 10.000 người. Theo
sách Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức - một trong các quan
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.45.
2. Dẫn theo Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX”, bài in trong Nam Bộ - Đất và Người, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, t.4, 2008, tr.419.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.112.
4. Xem Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX”, bài in trong Nam Bộ - Đất và Người, Sđd, tr.419.
223
224
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
lại cao cấp của Gia Định thành tham gia chỉ huy cơng trình này, cho
biết: “đem dân phu của trấn 9.679 người (…), chia làm ba phiên thay
nhau mà khơi đào”1. Sách Đại Nam nhất thống chí đưa ra con số 9.000
dân phu tham gia đào kênh2. Bia Phụng khai tân cảng ký (tức là bia đào
kênh Bảo Định) cho biết số lượng dân phu tham gia đào kênh là 3.225
người3. Như vậy, toàn bộ 9.679 dân phu được chia làm 3 phiên, mỗi
phiên khoảng 3.225 người, lần lượt thay nhau đào vét. Mỗi nhân lực làm
việc tại công trường được cấp mỗi tháng 1 quan tiền và 1 phương gạo4.
Cơng việc chính của dân phu là nạo vét, mở rộng tuyến kênh đã
có và đào sửa cho thẳng những đoạn kênh khúc khuỷu. Sách Gia Định
thành thông chí cho biết: “hoặc nhân đường cũ cắt xén đi mà đào cho
sâu rộng thêm, hoặc đào kênh mới nối liền vào”5. Bia Phụng khai tân
cảng ký (tức là bia đào kênh Bảo Định) cũng ghi rằng: “hoặc đào thẳng
qua ruộng bằng phẳng, hoặc sửa những chỗ nơng sâu”6.
Cơng trình cải tạo kênh được tiến hành trong khoảng hơn 3 tháng;
khởi công từ ngày 28 tháng Giêng năm Kỷ Mão (tức ngày 23-2-1819) và
kết thúc vào ngày mồng 4 tháng 4 nhuận năm Kỷ Mão (tức ngày 28-51819) theo sách Gia Định thành thơng chí7, hoặc ngày 10 tháng 4 nhuận
năm Kỷ Mão (tức ngày 3-6-1819) theo ghi chép trong bia Phụng khai tân
cảng ký 8. Khi hoàn thành, kênh có bề ngang 15 tầm (khoảng 32 m), sâu 9
thước (khoảng 4 m), hai bên bờ kênh có đường quan đắp đất, rộng 6 tầm
(khoảng 13 m)9.
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.112.
3. Dẫn theo Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX”, bài in trong Nam Bộ - Đất và Người, Sđd, tr.419-420.
4. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
5. Trịnh Hồi Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
6. Dẫn theo Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX” trong Nam Bộ - Đất và Người, Sđd, tr.420.
7. Xem Trịnh Hồi Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
8. Dẫn theo Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX”, bài in trong Nam Bộ - Đất và Người, Sđd, tr.420.
9. Xem Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
Sau khi đào vét xong, vua Gia Long đặt tên cho con kênh là Bảo
Định1. Sự kiện đào kênh Bảo Định được khắc trên bia đá dựng tại Vọng
Thê (tức Thang Trông) để “truyền mãi về sau”. Dưới thời Thiệu Trị
(1841-1847), kênh Bảo Định được đổi tên là An Định, rồi Trí Tường2,
nhưng dân gian vẫn quen gọi là kênh Bảo Định hay kênh Trạm (vì có
các trạm sơng để chuyển cơng văn của triều đình, nên sau này, người
Pháp gọi là kênh Bưu Điện - Arroyo de la Poste)3.
Từ khi được đào vét vào năm 1819, kênh Bảo Định trở lại là một
con đường thuỷ quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa, văn thư và
nhất là lúa gạo… từ đồng bằng Sơng Cửu Long về Sài Gịn, để từ đó có
thể tiếp tục chuyển đi các nơi khác.
Từ mục đích ban đầu nhằm phục vụ hoạt động quân sự, kênh Bảo
Định đã nối liền sông Vàm Cỏ Tây ở phía bắc và sơng Mỹ Tho ở phía
nam, ngồi ra cịn thơng lưu với 19 con rạch tự nhiên ở phía tây và phía
đơng, tạo nên một hệ thống kênh rạch tương đối dày dặc4. Bởi vậy, kênh
này có tác dụng và giá trị to lớn về thủy lợi, phục vụ đắc lực cho sản
xuất nông nghiệp và là tuyến giao thông đường thủy quan trọng đối với
những vùng đất mà nó chạy qua (hiện nay thuộc địa bàn hai tỉnh Tiền
Giang và Long An). Chính vì vậy, sách Gia Định thành thơng chí đã ghi:
“Người ta đều khen là lợi lớn cho mọi người”5 và sách Đại Nam nhất
thống chí cho biết: “nhân dân lấy làm tiện lợi”6.
1. Tơn Nữ Quỳnh Trân cho rằng con kênh này được vua Gia Long đặt
tên là Bảo Định Giang. (Xem Tôn Nữ Quỳnh Trân: Kênh đào thời Nguyễn ở
Nam Bộ, Sđd, tr.209). Xem thêm Trịnh Hồi Đức: Gia Định thành thơng chí,
Sđd, tr.46.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.112.
3. . Dẫn theo Tơn Nữ Quỳnh Trân: Kênh đào
thời Nguyễn ở Nam Bộ, Sđd, tr.209.
4. Xem Nguyễn Phúc Nghiệp: “Kênh đào ở Tiền Giang trong các thế kỷ
XVIII-XIX”, bài in trong Nam Bộ - Đất và Người, Sđd, tr.420.
5. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.46.
6. Quốc sử qn triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.112.
225
226
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
2. Kênh Thoại Hà
Một con kênh chiến lược khác đáng chú ý đã được đào mới trong
nửa đầu thế kỷ XIX ở vùng biên giới Tây Nam là kênh Thoại Hà. Kênh
này còn được gọi là kênh Rạch Giá - Long Xuyên, vì đây là đường nước
dài đến hơn 50 km nối rạch Long Xuyên, đi qua núi Sập, hợp với sông
Kiên của Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Với con kênh đào này, đường nước
được nối thông từ sông Hậu cho đến biển Tây.
Con kênh được đào vào năm 1817 và cũng là con kênh đào dài đầu
tiên được thực hiện dưới triều Nguyễn.
Lúc đó, sau khi đã xây dựng và củng cố hệ thống chính quyền thống
nhất trên tồn quốc, triều đình Huế dưới thời vua Gia Long đã có điều
kiện quan tâm hơn đến vùng đất Gia Định, chủ trương dùng biện pháp
khẩn hoang như một giải pháp trọng yếu để an dân và ổn định biên
cương, trong đó đặc biệt coi trọng vùng đất biên giới phía Tây Nam, bao
gồm đất Hà Tiên và Tầm Phong Long xưa trong chiến lược khai hoang
và an ninh quốc phòng. Để thực hiện chủ trương này, năm 1817, vua
Gia Long đã cử Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại1 (1762-1829) - một
khai quốc công thần của triều Nguyễn - làm Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh.
Hơn ai hết, Thoại Ngọc Hầu nhận rõ tầm quan trọng của vùng Châu
Đốc Tân Cương về kinh tế và quốc phòng, lại nhận thấy việc giao thông
thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn. Mọi hoạt động giao
thơng, trao đổi hàng hóa thời bấy giờ giữa miền duyên hải Hà Tiên,
Rạch Giá (nay thuộc tỉnh Kiên Giang) với Châu Đốc, từ Vĩnh Thanh
đến các địa phương khác, đều phải đi vòng đường biển rất bất tiện,
khiến ơng gần như bị cắt lìa với các địa phương khác. Bởi vậy, Thoại Ngọc
Hầu đã tâu trình xin đào vét sơng Ba Lạch (Tam Khê) vốn có tầm chiến
lược về quân sự, nhưng “bùn cỏ ủng tắc, thuyền bè không đi lại được”.
Như vậy, việc đào kênh Thoại Hà là để đáp ứng nhu cầu bức bách về giao
thông tại đây. Thêm nữa, con kênh cũng sẽ tháo nước của sông Hậu ra
biển Rạch Giá vào mùa nước nổi, giúp cho vùng này bớt ngập lụt.
1. Có tài liệu ghi là Nguyễn Văn Thụy.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
Được sự đồng ý của vua Gia Long, tháng 11 năm Đinh Sửu (1817),
Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại “đem đinh phu Kinh và Thổ 1.500
người, nhà nước cấp tiền gạo cho, bắt chém chặt khơi thông, bề ngang
20 tầm, bề sâu 4 thước, một tháng làm xong bèn thông với đường sông
Kiên Giang, dân Kinh, dân Di (Miên) đều được lợi cả. Vua cho tên sông
là Thoại Hà để tỏ lịng biết cơng lao của kẻ bề tơi”1. Sách Đại Nam thực
lục cho biết: Sông cách trấn lỵ Vĩnh Thanh (thành phố Vĩnh Long hiện
nay) 214 dặm. Phía Tây 4 dặm rưỡi đến ngã ba hợp với sơng Cần Đăng,
phía tây nam 59 dặm đến sông Lạc Dục, từ đấy về nam 57 dặm rưỡi đến
Song Khê... Vua sai trấn thủ Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu sửa sang
đường sông, điều động dân Hán (Việt), dân Di (Miên) 1.500 người để
vét. Hơn một tháng làm xong, chiều rộng hơn 10 trượng, chiều sâu 18
thước2. Các số liệu đo đạc còn để lại cho biết trong q trình đào kênh
này, có nhiều đoạn là “noi theo lối cũ” để nạo vét, cho nên cũng ít phải
đào đắp. Nơi thực sự phải đào mới là từ lạch Lạc Duyên ở Thanh Lung
đến lạch Song ở Thanh Lung dài 6.247,5 trượng, chia làm 2 phần. Một
phần từ lạch Lạc Duyên ở Thanh Lung trở vào trong, lấy 1.000 người
dân trấn Vĩnh Thanh để làm. Một phần từ lạch Song ở Thanh Lung trở
vào trong thì bắt dân Kiên Giang và Cao Man gồm 500 người để làm3.
Như vậy, Thoại Ngọc Hầu đã huy động dân binh đào kênh nối liền
sông Hậu ở Long Xuyên với vịnh Rạch Giá (Kiên Giang). Nhân lực
đào kênh là khoảng 1.500 người. Trong một tháng, việc đào kênh đã
hồn thành. Con kênh có bề ngang 51 m và dài hơn 30 km. Khi hoàn
thành kênh, nhờ nguồn nước ngọt dồi dào, việc đi lại, giao thương
thuận lợi nên vùng Châu Đốc Tân Cương trở nên có sức thu hút, hấp
dẫn đối với dân nghèo khẩn hoang. Kênh Thoại Hà cịn đóng vai trị
1. Trịnh Hồi Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.59. Xem thêm Quốc sử
qn triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.209.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Nxb. Sử học, Hà Nội,
1963, t.4, tr.335.
3. Theo Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Nxb. Thuận
Hóa, Huế, 1993, t.13, tr.209.
227
228
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
quan trọng trong việc tháo một phần nước lụt của sông Hậu ra biển.
Với ý nghĩa này, kênh Thoại Hà (cịn có tên kênh Tam Khê, kênh Đơng
Xun hay Đông Xuyên Cảng đạo) nối liền Thoại Sơn (An Giang) với
Rạch Giá (Kiên Giang) được xem là cơng trình thốt lũ đầu tiên ở
đồng bằng sơng Cửu Long. Để ghi nhớ công lao của Thoại Ngọc Hầu,
vua Gia Long lấy tên của ông đặt cho con kênh mới mà sách sử cịn
gọi là sơng Thoại Hà hoặc Thụy Hà. Ngọn núi Sập cạnh đó cũng được
đổi tên thành Thoại Sơn1.
3. Kênh Vĩnh Tế
Trong hệ thống kênh rạch được đào dưới triều Nguyễn ở vùng biên
giới Tây Nam cịn có một kênh rất quan trọng là kênh Vĩnh Tế, nối
Châu Đốc với Hà Tiên. Kênh Vĩnh Tế được chính thức khởi công vào
giữa tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) (lúc đó đã là đầu năm 1820), sau
một thời gian chuẩn bị khá lâu và kỹ lưỡng, thể hiện sự quan tâm đặc
biệt của vua Gia Long với vùng biên viễn Tây Nam đất nước. Đây là một
cơng trình vĩ đại do chính Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại thiết kế,
huy động đến 80.000 người và phải làm gần 5 năm (1820-1824) mới
hồn thành. Kênh này cịn là đường ranh giới giữa Việt Nam và Chân
Lạp lúc đó.
Ngay từ đầu năm Bính Tý (1816), vua Gia Long đã có kế hoạch đào
con kênh nối liền Châu Đốc với Hà Tiên để củng cố khu vực Châu Đốc một vùng hết sức trọng yếu ở phía Tây Nam của Tổ quốc. Tháng 4 năm
Bính Tý (1816), nhà vua giao nhiệm vụ sửa đồn Châu Đốc cho quan
trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu Phước Tường. Trong việc sửa đồn Châu
Đốc, Lưu Phước Tường và Nguyễn Đức Sĩ còn được giao việc đo đường
đất từ Châu Đốc đến Hà Tiên rồi vẽ bản đồ đưa về triều đình Huế2.
Đồn Châu Đốc được xây xong vào cuối năm Bính Tý (1816). Vào
tháng 12 năm Bính Tý (1816), khi xem bản đồ Châu Đốc, vua Gia Long
nói với các thị thần về ý định đào kênh của ông: “Đất này mở đường
1, 2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.335, 286.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
sơng để đi thẳng đến Hà Tiên, làm ruộng đi buôn đều được lợi cả. Sau
này dân ở đông đúc, đất mở rộng rãi, có thể thành một trấn to lớn”1.
Ơng cịn so sánh vị trí chiến lược của vùng Châu Đốc và Hà Tiên, cho
rằng: “Châu Đốc - Hà Tiên bờ cõi không kém Bắc Thành”2. Tuy nhiên,
lo ngại đây là vùng đất mới mở, đời sống nhân dân còn nhiều cơ cực,
nếu bắt làm xâu thêm khổ sở, lòng dân sẽ không yên, nên nhà vua chưa
ra lệnh đào ngay con kênh này3.
Trong chiếu gửi cho Lê Văn Duyệt về việc tiếp xúc với vua Chân
Lạp là Nặc Chân vào tháng 6 năm Đinh Sửu (1817), vua Gia Long
cũng nhắc nhở: “… nếu Phiên vương đến thành Gia Định, ngươi nên
đem mấy điều lợi ích về việc đào sơng Châu Đốc, hiểu dụ cho họ,
khiến họ phải trù nghĩ trước, hễ tiếp được chiếu văn, thời bắt quân
dân phải đào ngay cho mau thành”4. Tiếp đó, khi sứ giả Chân Lạp
đến Kinh đô Huế, vua Gia Long cũng truyền dụ rằng: “Ta sẽ đào sông
Châu Đốc thông với Hà Tiên, tuy là lợi cho nước mày, nhưng cũng lợi
chung cho mấy người đi cày và mấy người đi buôn nữa. Về nói với vua
mày phải hiểu ý ấy mới được”5.
Từ năm Mậu Dần (1818), để trực tiếp chuẩn bị cho việc đào kênh,
vua Gia Long ban sắc cho trấn Vĩnh Thanh phát giao bản đồ, làm các
việc dọn cắt cỏ lau và tiến hành đào thí điểm một khúc sông dài 150
trượng, rộng 3 trượng, sâu 4 thước để chiết tốn nhân cơng cụ thể xem
mỗi người mỗi ngày có thể đào được bao nhiêu trượng thước6. Tiếp đó,
triều đình Huế cử trấn thủ Hà Tiên là Mạc Cơng Du đi đo đường sơng
1. Quốc triều chính biên tốt yếu, Nhóm nghiên cứu Sử - Địa xuất bản, Sài
Gịn, 1971, tr.96.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.317.
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.309; Nội các
triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.13, tr.21.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.324.
5. Quốc triều chính biên tốt yếu, Sđd, tr.99.
6. Xem Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.13,
tr.209.
229
230
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
Châu Đốc một lần nữa và vẽ bản đồ gửi về triều đình1. Qua thăm dị,
vua Gia Long biết được rằng triều đình Chân Lạp cũng ủng hộ việc đào
kênh này2.
Mãi đến tháng 9 năm Kỷ Mão (1819), vua Gia Long mới cho lệnh
đào kênh và công việc được bắt đầu khởi công vào ngày 15 tháng Chạp
năm Kỷ Mão (1819). Trước khi khởi đào, vua Gia Long có lời dụ cho dân
chúng Vĩnh Thanh, vừa động viên vừa chỉ rõ những lợi ích của việc đào
kênh này: “Đào con sơng này cơng việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà
nước, mưu hoạch về biên thùy đều quan hệ khơng nhỏ. Các ngươi dẫu
ngày nay khó nhọc mà thực có lợi mn đời. Vậy nên bảo nhau đừng
sợ khó nhọc”3.
Như vậy, trước khi tiến hành đào kênh Vĩnh Tế, nhận thức được
đây là một cơng trình lớn, quan trọng, có ý nghĩa chiến lược nhiều mặt,
nên vua Gia Long đã cẩn thận chuẩn bị mọi mặt, từ nhân công, vật chất,
kế hoạch thực hiện cho đến chuẩn bị dư luận và tranh thủ tình hình một
cách chu đáo, cặn kẽ.
Việc chỉ huy cơng trình đo đạc và đào con kênh đợt này được giao
cho Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, lúc bấy giờ vừa mới hồn
thành cơng cuộc đào kênh Thoại Hà. Kênh đào song song với đường
biên giới Việt Nam - Chân Lạp, bắt đầu từ bờ Tây sông Châu Đốc nối
thẳng với sông Giang Thành (nay thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên
Giang). Việc đào kênh được tiến hành dưới sự chỉ huy trực tiếp của
Trấn thủ Vĩnh Thanh là Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại cùng với
hai người phụ tá là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên (1763-1831) và
Điều bát Nguyễn Văn Tồn (1763-1820). Về sau, cơng cuộc đào kênh
cịn có thêm Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt (1764-1832),
Phó Tổng trấn Gia Định thành Trần Văn Năng, Thống chế Trần Cơng
Lại góp sức.
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.386.
2. Xem Quốc triều chính biên tốt yếu, Sđd, tr.104.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.390.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
Khâu đo đạc được tiến hành hết sức cẩn thận, kỹ lưỡng. Một đường
kênh được vạch từ Châu Đốc đến sông Giang Thành, chia thành từng
đoạn một. Mỗi đoạn đều được xác định chiều dài và lên danh sách
tỷ mỷ. Ngoài ra, vua Gia Long còn muốn đào thêm một đoạn từ sông
Hậu (Châu Đốc) kéo dài đến sông Tiền. Sách Đại Nam hội điển sự lệ
còn ghi lại rõ kết quả đo đạc nhằm chuẩn bị cho ý tưởng đào kênh của
vua Gia Long.
Bảng 12: Số liệu đo đạc từ sông Tiền - Châu Đốc - Hà Tiên
năm 1816 của triều Nguyễn
Độ dài
Stt
Từ địa điểm
Đến địa điểm
1
Đồn binh Châu Đốc
Cù lao Cỏ Tiên
9.128
2
Phiếm Bắc Nam
Răng Lạch Dài
11.687
Xứ Cái Vừng Tiền Giang
3.520
Cửa Trác Ỷ Hâm
32.657
Lạch nhỏ Sâm Tôn,
3
Tiểu lạch Hậu Giang
Hữu Hậu - phía bên hữu
4
đồn Châu Đốc
(Trượng)
5
Cửa Trác Ỷ Hâm
Cửa Trà Bát
2.037,5
6
Cửa Trác Trà Bát
Bến Cầm Long
2.104,5
7
Gị Trà Bích
Trà Niên
774,5
8
Cửa bên Tầm Long
Gị Trà Bích
660,5
9
Trà Niên
Diệp Bà Đê
1.138,5
10
Diệp Bà Đê
Chng Song
2.291,5
11
Chuông Song
Hạm Tháp
2.250,5
12
Hạm Tháp
Lạch Cây Cờ
215,5
Cửa Phiếm Dài
242,5
13
Chỗ cắm tiêu ở
Lạch Cây Cờ
(Nguồn: Cao Thanh Tân: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất
Châu Đốc thời Nguyễn, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2009, tr.290-291).
231
232
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
Kênh Vĩnh Tế đoạn qua thị xã Châu Đốc
(Nguồn: Wikipedia)
Sau khi việc đo đạc đã hồn tất, cơng cuộc đào kênh đến giai đoạn
phát cỏ, chặt cây và cắm tiêu theo sơ đồ đã vẽ. Để cho dòng kênh được
thẳng, vào ban đêm, người ta đã đốt đuốc trên đầu những con sào rồi
ngắm cho thẳng mà cắm. Để điều khiển những sào lửa, người ta cầm
một “cây rọi” to đứng trên cao phất qua phất lại, ra hiệu cho người cầm
sào tìm đúng vị trí1.
Cơng việc đào kênh được khởi công vào đúng ngày 15 tháng Chạp
năm Kỷ Mão (1819). Triều Nguyễn lấy 5.000 quân, dân trấn Vĩnh Thanh
chia bổ cho mỗi phiên, hằng tháng thay đổi theo kỳ để khai đào, xuất
phát từ phía sau đồn Châu Đốc kéo dài về phía Nam đến cửa Trác Ỷ
Hâm. Đồng thời, 500 binh lính đang đồn trú tại đồn Uy Viễn và đồn
1. Xem Nguyễn Văn Hầu: Thoại Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu
Giang, Hương Sen xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr.192.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
Châu Đốc cũng được trưng dụng chia theo phiên như dân phu. Ngồi
ra, vua Gia Long cịn u cầu vua nước Chân Lạp lấy 5.000 người dân
bản địa do 100 viên quan người Chân Lạp trông coi, chia nhau khai đào
đoạn từ phía Hà Tiên đi ngược lên, từ lạch Cây Cờ đến cửa Trác Trà Bát.
Cửa Trác Trà Bát này nằm cách cửa Trác Ỷ Hâm 2.037 trượng. Binh dân
người Việt được cấp mỗi người mỗi tháng 6 quan 5 tiền và 1 phương
gạo. Binh dân người Chân Lạp mỗi người mỗi tháng được cấp 4 quan 5
tiền và 1 phương gạo. Mỗi phiên làm việc trong một tháng và hạn định
3 tháng thì hồn tất cơng trình này1.
Như vậy, ngay trong đợt đầu, triều Nguyễn đã huy động tổng
cộng 10.500 lượt người thay nhau đào kênh từ ngày 15 tháng Chạp
năm Kỷ Mão (1819) đến ngày 15 tháng 3 năm Canh Thìn (1820),
trong đó có 5.000 qn dân trong vùng, 500 lính thuộc đồn Uy Viễn,
5.000 dân là người Chân Lạp2. Lúc đầu, kế hoạch đào kênh dự định
trong 3 tháng thì hồn thành, nhưng trên thực tế, kênh phải đi qua
nhiều đoạn đất cứng khó đào, lại có khi gặp phải thời tiết, khí hậu bất
lợi nên có lúc công việc gián đoạn hoặc chậm chạp. Bởi vậy, trong đợt
một mới chỉ đào được 3.224 trượng. Khi đó, ở Nam Kỳ bị dịch bệnh
nặng nề nên triều đình Huế phải hỗn việc đào sơng, tạm kết thúc
đợt đào sơng Vĩnh Tế đợt một3. Ngay lúc đó, con kênh mới khai đào
cịn chưa hồn thành, đã được đặt tên là Vĩnh Tế. Vĩnh Tế là đặt theo
tên của bà Châu Vĩnh Tế, vợ Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại. Bà
có nhiều cơng lao trong việc giúp chồng đơn đốc, động viên dân binh
dốc sức đào vét kênh.
Tiếp đó, vào tháng Giêng năm Nhâm Ngọ (1822), nhân việc quốc
vương Chân Lạp đưa thư đến xin đem binh dân hợp sức tiếp tục đào
sông, vua Minh Mệnh lập tức ra lệnh cho Tổng trấn thành Gia Định là Lê
Văn Duyệt lập kế hoạch huy động thêm nhiều dân binh, chia làm 3 phiên,
1. Xem Cao Thanh Tân: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu
Đốc thời Nguyễn, Sđd, tr.294.
Xem thêm Trịnh Hồi Đức: Gia Định thành thơng chí, Sđd, tr.58-59.
2, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.5, tr.83.
233
234
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
định đến đầu mùa xuân năm sau (1823) thì tiếp tục đào sơng, dự kiến
đến đầu mùa hè thì hồn thành.
Từ tháng 2 năm Q Mùi (1823), triều Nguyễn tiếp tục việc đào
kênh, điều động binh lính các “cơ quê” ở thành Gia Định, binh lính
ở đồn Uy Viễn, dân phu các hiệu đồn điền cùng với dân phu 5 trấn là
Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường, Hà Tiên chia làm 3
phiên, 1 tháng thay đổi 1 lần. Nhân công bao gồm 35.000 người Việt,
10.000 người Chân Lạp, trong đó binh dân Việt cứ 5.000 người thì đặt
150 chức dịch; binh dân Chân Lạp cứ 5.000 người thì đặt 100 người
đầu mục, ốc nha, bồn nha1. Tổng cộng nhân lực đào kênh đợt hai
gồm khoảng 45.000 người, chia làm 3 phiên, mỗi tháng lần lượt thay
đổi để có thời gian nghỉ ngơi, dưỡng sức. Mỗi dân phu, gồm cả người
Việt và người Chân Lạp, được lĩnh mỗi tháng 6 quan tiền và 1 phương
gạo. Các dân phu đã tiến hành đào đắp bằng tay, với các dụng cụ hết
sức thô sơ, hàng triệu m3 đất đá..., có khi cịn phải thay nhau thi cơng
suốt ngày đêm... Tương truyền, việc đào kênh rất vất vả, điều kiện lao
động hết sức khó khăn với thời tiết khắc nghiệt, rừng thiêng nước độc,
lam sơn chướng khí, nắng dãi mưa dầu, thú dữ rắn rết, ăn uống thiếu
thốn... khiến cho số người bị chết, tai nạn, bệnh tật khá nhiều. Một số
tài liệu cho biết con số người chết trong đợt đào sơng này có lẽ lên đến
7.000 người2.
Đồng thời với việc đào kênh Vĩnh Tế, ở Gia Định thành triều
Nguyễn còn tổ chức việc lấy đá xây thành Gia Định. Dân chúng quá cực
nhọc. Vua Minh Mệnh bèn cho ngừng việc xây thành Gia Định để chú
trọng, tập trung hết mức cho việc đào con kênh lớn ở vùng biên giới
Tây Nam. Việc thi công tiếp tục kéo dài từ tháng 2 cho đến tháng 4 năm
Quý Mùi (1823), đã đào được 10.500 trượng, chỉ còn hơn 1.700 trượng
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.6, tr.143; Nội các
triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.13, tr.211.
2. Xem Nguyễn Phan Quang, Đặng Huy Vận: “Tìm hiểu chế độ lao dịch và
binh dịch dưới triều Gia Long (1802-1819)”, bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 80, 1975, tr.16.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
(khoảng 3.392m). Tuy vậy khi đó trời đã sang hè, vua Minh Mệnh quyết
định cho dân phu đào kênh được tạm nghỉ, dự định đến tháng 2 năm
Giáp Thân (1824) sẽ đào tiếp đoạn còn lại. Trong đợt thứ hai này, việc
đào sơng đã tiêu phí hơn 515.200 quan tiền, hơn 99.400 phương gạo1.
Từ tháng 2 năm Giáp Thân (1824), việc đào kênh Vĩnh Tế được
tiếp tục. Đợt này, ngoài việc đào cho xong đoạn còn lại (khoảng 1.700
trượng), dân phu còn phải nới rộng thêm lòng kênh, từ 6 trượng đào
rộng thành 15 trượng2. Cơng trình đoạn này được sự hỗ trợ tích cực của
Phó Tổng trấn Gia Định là Trần Văn Năng. Con số binh dân được huy
động, gồm cả người Việt và người Chân Lạp, lên đến hơn 24.700 lượt
người, cách thức và quy chế đào kênh cũng tương tự như các lần trước3.
Đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824), kênh Vĩnh Tế được đào xong,
với chiều dài 44.412 tầm (khoảng 91 km), rộng 15 tầm (khoảng 40 m),
sâu 6 thước (2,55 m)4. Kênh được bắt đầu đào từ phía sau bên hữu đồn
Châu Đốc lên phía tây qua náo khẩu Ca Âm đến Kỳ Thọ (cũng gọi là Chi
Thụ, tên tục là Cây Cầy hoặc Cây Kế, là nơi có cửa khẩu Giang Thành).
Như vậy, trong 5 năm, các viên quan phụ trách đã huy động đến hơn
80.000 lượt binh dân tham gia đào kênh.
Như vậy, ròng rã trong 5 năm, trải qua hai triều vua (Gia Long và
Minh Mệnh), bằng những dụng cụ thô sơ (chủ yếu là cuốc, thuổng, sào
tre, chày vồ, dây thừng...) và sức mạnh cơ bắp, binh dân Việt và Chân
Lạp đã hồn thành một cơng trình kỳ vĩ, khai thơng dịng kênh Vĩnh Tế
nối liền Châu Đốc với Hà Tiên dài gần 100km, lòng kênh rộng khoảng
40m, sâu 2-3m. Con kênh này vừa là đường giao thông thuỷ, đồng thời là
hệ thống tưới tiêu. Từ đây, việc cơ động lực lượng, chuyển vận binh mã,
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.6, tr.179.
2. Xem Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.13,
tr.212.
3. Xem Cao Thanh Tân: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu
Đốc thời Nguyễn, Sđd, tr.297.
4. Xem Lê Xuân Diệm: “Về kênh đào Vĩnh Tế xưa”, bài in trong Nguyễn Thế
Nghĩa (Chủ biên): Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Sđd, tr.380.
235
236
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
lương thảo từ Châu Đốc đến vịnh Xiêm La (Thái Lan) khơng phải đi
vịng ra biển mỗi khi Hà Tiên, Rạch Giá bị xâm lăng bất ngờ. Việc khai
thơng kênh Vĩnh Tế góp phần ổn định tình hình an ninh biên giới. Vua
Minh Mệnh cho rằng: “Đào con sông ấy là để trọn công trước (...) thực
là lợi ích muôn năm vô cùng về sau”1. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng
nhận xét: “Từ đấy đường sơng mới thơng, việc biên phịng và việc bn
bán đều được hưởng mối lợi vơ cùng”2. Ngồi ra, kênh Vĩnh Tế cịn góp
phần thau chua rửa phèn, đưa nước ngọt vào cho ruộng vườn tươi tốt,
tạo điều kiện di dân khẩn hoang, mở rộng diện tích canh tác, lập làng
lập ấp ở vùng cực Tây Nam Kỳ.
Trong 5 năm đào kênh, có nhiều người đã hy sinh tính mạng của
mình ngay trên dịng kênh lịch sử. Sau khi hồn tất kênh đào Vĩnh Tế,
Thoại Ngọc Hầu đã cho thu nhặt hài cốt các dân binh đã chết, vốn được
chôn rải rác dọc theo con kênh, đưa về cải táng tại triền núi Sam. Thoại
Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại đã đích thân đứng ra chủ tế các cô hồn tử
sĩ với bài văn tế “Thừa đế lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kênh” (cũng gọi là
Tế nghĩa trủng văn) với những lời thống thiết:
“Đào kinh trước mấy kỳ khó nhớ,
Khốc nhung y chống đỡ biên cương
Bình Man máu nhuộm chiến trường,
Bọc thây da ngựa gửi xương xứ này
... Nếu không gặp được ông Tây Bá
Nắm xương khô tan rã khắp đồng
Giờ ta vâng lệnh bệ rồng,
Dời người an táng nằm chung chốn này
... Ơn đức rộng cho người chín suối,
Được hưởng nhờ đền buổi gian lao”3.
1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.7, tr.43.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.207.
3. Dẫn theo Đinh Văn Liên: “Vai trò của kênh Vĩnh Tế trong việc bảo vệ, xây
dựng và phát triển vùng đất An Giang trong lịch sử”, bài in trong Nguyễn Thế
Nghĩa (Chủ biên): Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Sđd, tr.421-422.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
Với công lao to lớn của vợ chồng viên quan trấn thủ Thoại Ngọc
Hầu Nguyễn Văn Thoại, vua Minh Mệnh đã lấy tên vợ ông là bà Châu
Thị Vĩnh Tế để đặt tên cho dòng kênh là Vĩnh Tế Hà, lại lấy núi Sam ở
Châu Đốc đổi là Vĩnh Tế Sơn và làng bên bờ sông là Vĩnh Tế Sơn Thôn,
lại cho dựng bia ở bờ kênh để ghi nhớ. Năm Minh Mệnh thứ 17 (1836),
nhà vua cho đúc Cửu đỉnh để làm quốc bảo và tượng trưng cho sự miên
viễn của hồng gia, hình ảnh kênh Vĩnh Tế được đúc nổi vào Cao đỉnh,
một đỉnh trung tâm và quan trọng nhất trong 9 đỉnh đặt ở sân trước nhà
Thái miếu tại Đại Nội của kinh đô Huế1.
Kênh Vĩnh Tế được hoàn thành đã khiến cho vùng đất cực Tây
Nam đất nước hồn tồn đổi khác. Con kênh dẫn dịng nước ngọt
đến tận những đồng ruộng, xóm làng mới được khai khẩn, cải tạo
đất mặn, đất phèn, tạo nên những cánh đồng phì nhiêu, màu mỡ.
Chính con kênh đã góp phần to lớn vào việc phát triển nhanh chóng
và lâu dài vùng đất mới ở miền biên viễn Tây Nam. Dọc theo con
kênh và các rạch nước từ con kênh này, những xóm làng được mọc
lên liên tiếp nối liền, dần dần làm cho vùng An Giang, Châu Đốc, Hà
Tiên ngày càng đông đúc, sầm uất. Đương thời, kênh Vĩnh Tế cịn là
một đường giao thơng thủy quan trọng, chun chở người và hàng
hóa từ miền Hậu Giang tới tận cửa biển Hà Tiên, khỏi phải đi đường
vòng ra biển hoặc lịng vịng qua các sơng rạch quanh co khác. Lúc
đó, giao thông bộ chưa được mở mang, nên kênh Vĩnh Tế trở thành
con đường giao thông thủy thuận lợi nhất, liên kết các xóm làng, tạo
điều kiện phát triển nhanh vùng đất mới. Về mặt chính trị và quân
sự, kênh Vĩnh Tế trở thành một rào chắn tự nhiên dọc suốt chiều
dài vùng biên ải, thực sự là một hào lũy phân ranh biên giới phục
vụ hiệu quả cho việc quản lý chủ quyền lãnh thổ Tây Nam và chống
lại các cuộc tấn công xâm lấn của ngoại bang từ phía Tây. Con kênh
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.207.
Xem thêm Đinh Văn Liên: “Vai trò của kênh Vĩnh Tế trong việc bảo vệ, xây dựng
và phát triển vùng đất An Giang trong lịch sử”, bài in trong Nguyễn Thế Nghĩa
(Chủ biên): Những thành tựu nghiên cứu khoa học, Sđd, tr.423.
237
238
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
thực sự đem đến lợi ích lâu dài, bền vững cho công cuộc bảo vệ đất
nước và ổn định dân cư.
4. Kênh Vĩnh An
Ngoài hai kênh Thoại Hà và Vĩnh Tế, trong nửa đầu thế kỷ XIX,
triều Nguyễn còn cho khai đào con kênh thứ ba ở vùng biên giới Tây
Nam Bộ, đó là kênh Vĩnh An. Con kênh này được tiến hành đào dưới
thời vua Thiệu Trị.
Trong thời Nguyễn, hệ thống đường bộ ở Tây Nam Bộ còn nhiều
hạn chế, trong khi hệ thống kênh rạch đa dạng, nên việc chuyển vận
binh mã, lương thảo ở vùng biên giới Tây Nam chủ yếu cơ động bằng
thuyền. Lúc đó, từ Châu Đốc đến Tân Châu, mặc dù khoảng cách khá
gần (khoảng 3.695 trượng), nhưng đi đường thủy lại khá xa, thường
phải mất 3, 4 ngày, đường đi quanh co, vừa chậm vừa khó khăn. Muốn
đi từ Châu Đốc đến Tân Châu, thuyền phải theo sông Hậu xuống tới
sông Vàm Nao mới ra được sông Tiền, rồi lại ngược lên Tân Châu.
Trước tình hình đó, triều đình Huế có kế hoạch đào sông Vĩnh An từ
Tân Châu đến Châu Đốc, để dễ cho “sự khống chế tiếp ứng và mưu tính
việc biên phịng”1.
Cơng việc chuẩn bị đào kênh Vĩnh An được triều đình Huế giao
cho Tổng đốc An Giang là Nguyễn Công Nhàn và Tuần phủ An Giang
là Nguyễn Công Trứ. Theo dự kiến của Nguyễn Công Nhàn và Nguyễn
Công Trứ, nhân công đào kênh sẽ bao gồm 72.522 công, thuê 1.000 dân
phu ở ba tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Định Tường và huy động 2.000
biền binh các hạng để làm trong hai tháng2.
Từ tháng 11 năm Quý Mão (1843), cơng việc đào kênh bắt đầu.
Triều đình huy động 5.000 dân phu đào một đoạn kênh dài 550 trượng
trong một tháng. Sau đó cơng việc tạm ngừng. Đến đầu năm Giáp Thìn
1. Cao Thanh Tân: Lịch sử khai phá và bảo vệ chủ quyền vùng đất Châu Đốc
thời Nguyễn, Sđd, tr.299-300.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.24, tr.149.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
(1844), triều Nguyễn lại tiếp tục huy động binh dân làm trong một tháng
nữa thì hồn thành. Trong q trình đào kênh đã dùng hết 33.200 đoạn
cọc tre, thuê nhân công hết 63.021 quan tiền và 21.021 phương gạo1.
Sau khi đào xong, dịng sơng dài 3.695 trượng, trên rộng 6 trượng, dưới
rộng 3 trượng, sâu khoảng 9 thước. Lúc đầu, vua Thiệu Trị đặt tên kênh
là Long An, từ sau năm Ất Tỵ (1845) đổi tên thành Vĩnh An2.
Như vậy, trong nửa đầu thế kỷ XIX, triều Nguyễn đã tổ chức đào
được 3 con kênh rất quan trọng là Thoại Hà, Vĩnh Tế và Vĩnh An, đồng
thời cải tạo, nạo vét hàng loạt kênh rạch khác ở vùng Tây Nam Bộ, tập
trung nhất ở vùng Châu Đốc. Những con kênh được nạo vét, cải tạo
hoặc đào đắp mới tại vùng biên giới Tây Nam đã thông lưu với hệ thống
sông rạch có sẵn, tạo nên một mạng lưới dày, trải dài khắp Nam Bộ.
Nhờ đó, giao thơng đường thủy tiện lợi, thuyền bè không phải ra biển
mà đi được đến khắp nơi trong nội địa. Thủy triều ở Nam Bộ mỗi ngày
lên xuống hai lần đều đặn nên thuyền bè có thể lợi dụng con nước mà
vẫn đi lại, vừa thuận dịng, vừa đỡ tốn cơng. Đồng thời, các con kênh
này cũng góp phần thúc đẩy tiến trình khai hoang nhanh chóng hơn,
khiến cho nơng nghiệp phát triển rộng khắp. Các kênh mương vừa tỏa
rộng đến những xứ đồng xa xôi, hẻo lánh, vừa là hệ thống thủy lợi thiết
yếu cho việc trồng lúa nước.
II- KHAI HOANG LẬP LÀNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ỔN ĐỊNH
VÙNG BIÊN GIỚI
Trong chiến lược đối với vùng biên viễn Tây Nam của triều Nguyễn,
việc dựng đồn, đặt qn trú phịng, mở đường giao thơng chỉ là một
bước, các hoạt động đưa dân đến định cư, khai phá đất đai, mở mang
diện tích, lập làng ấp, mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế nông nghiệp,
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.25, tr.51.
2. Xem Nội các triều Nguyễn: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Sđd, t.13,
tr.213, 447.
Xem thêm Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.5, tr.200.
239
240
VÙNG ĐẤT NAM BỘ
IV
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XVII ĐẾN GIỮA THẾ KỶ XIX
ổn định xã hội mới thực sự là kế sách lâu dài. Ngay từ năm 1802, khi
mới lên ngôi vua, Gia Long đã rất quan tâm đến vấn đề làng xã nói
chung, đề cao vai trị của làng xã, coi đó là một phần quan trọng của
quốc sách trị nước an dân1. Bởi vậy, ngay khi lập xong đồn Châu Đốc,
vua Gia Long đã cất nhắc Diệp Hội, một người Hoa, lên làm Cai phủ
Châu Đốc, nhằm tăng cường “chiêu tập người Việt, người Khmer, người
Tàu đến đó cho đơng, hễ có ai biết nghề trồng cây, ni các thứ súc vật,
buôn bán hay làm nghề gốm, cho tùy nghề mà làm…”2. Đồng thời, vua
Gia Long cũng giao nhiệm vụ cho quan Tổng trấn Gia Định thành chú ý
hỗ trợ việc khai hoang lập ấp ở vùng biên viễn Tây Nam: “Dân mới phủ
tập, nên dạy làm các việc lợi ích, khiến dân đều an cư lạc nghiệp…”3.
Chủ trương và chính sách đó được vua Minh Mệnh kế tục. Trong
chiếu thư gửi cho Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại vào năm 1821,
Minh Mệnh nhắc nhở: “Châu Đốc là đất trọng yếu ở biên thùy,… sai
Nguyễn Văn Thoại chiêu dân khẩn ruộng lập thành thôn ấp… thật là
muốn đất khơng bỏ hoang, dân có nghề nghiệp để lấy người giữ bờ cõi,
đó cũng là một điều quan trọng về việc biên phòng…”4.
Trong buổi đầu mở đất, việc định cư, khai phá vùng đất phương
Nam không hề dễ dàng, nhất là ở miền biên thùy Tây Nam xa xơi, đầy
khó khăn, bất ổn. Bởi vậy, triều đình Huế ln ln tìm cách chiêu mộ
dân đến vùng Châu Đốc - Hà Tiên sinh sống. Ngồi khu vực Thất Sơn,
nơi đã có một số người Khmer sinh sống, và giồng đất hẹp ven sông
Tiền khá cao ráo, phần lớn nơi đây là vùng đồng lầy trũng thấp, phèn
chua, ngập lụt vào mùa lũ của hệ thống sông Cửu Long, nhưng lại thiếu
nước ngọt vào mùa khô. Vào mùa lũ, mỗi khi nước lũ đổ về thường làm
ngập sâu 2-3m, nhưng đến lúc nước rút đi thì để lại tình trạng đất đai
lầy lội. Ngồi ra, tình hình an ninh vùng biên cũng có ảnh hưởng khơng
nhỏ đến q trình định cư, khai phá đất đai, khẩn hoang lập làng ở miền
1. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.3, tr.102.
2, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.4, tr.311.
Xem thêm Sơn Nam: Lịch sử An Giang, Nxb. Tổng hợp An Giang, 1988, tr.22.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, Sđd, t.10, tr.135.
PHẦN THỨ HAI: MỞ RỘNG CÁC HÌNH THỨC KHAI HOANG...
biên giới Tây Nam đất nước. Các mối nguy đe dọa từ Xiêm (Thái Lan)
và Chân Lạp cũng là một trong những lý do đã thúc giục triều đình nhà
Nguyễn quyết tâm đào kênh ở vùng biên giới Tây Nam1.
Các con kênh Bảo Định, Thoại Hà, Vĩnh Tế, Vĩnh An… được đào
đắp và cải tạo đã mở ra con đường thâm nhập vào những khu vực nằm
xa bờ sông Hậu, giúp cho việc định cư, khai phá thuận lợi hơn. Đồng
thời, dải đất được đắp cao dọc bờ các con kênh này cũng là nơi thuận
tiện cho việc cư trú. Thêm nữa, những con kênh này còn đưa nguồn
nước ngọt của hệ thống sông Cửu Long đến thau chua rửa phèn, cải tạo
đất đai2.
Từ trước thế kỷ XIX, việc mở mang miền đất Tây Nam Bộ đã được
thúc đẩy mạnh, nhất là dưới thời Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ ở cuối thế
kỷ XVII và thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, do nhiều biến động quân sự và điều
kiện đất đai chưa thuận lợi cho sản xuất nơng nghiệp, diện tích khai phá
được ở khu vực này thật sự không nhiều. Đến đầu thế kỷ XIX, có thể
người dân chỉ mới khai phá, trồng trọt được ở quanh vùng trung tâm
Hà Tiên và dọc rạch Gianh Thành. Bởi vậy, các vua đầu triều Nguyễn
liên tục ban hành nhiều chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng
đối với vùng biên viễn xa xôi này.
Năm 1817, ngay sau khi lập đồn, đóng quân ở Châu Đốc, vua Gia
Long đã đặc biệt cử Diệp Hội giữ chức Cai phủ Châu Đốc, lo việc chiêu
tập dân chúng đến khai khẩn lập nghiệp. Một năm sau (1818), nhận thấy
khu vực ở phía sau đồn Châu Đốc cịn nhiều đất hoang, vua Gia Long
1. Dọc theo kênh Vĩnh Tế, triều Nguyễn cho đặt thêm nhiều đồn binh nhỏ
như đồn binh ở làng Vĩnh Tế (1834), các bảo Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Thân Nhơn
(1843), Vĩnh Điều (1846), Vĩnh Gia (1847). (Xem Sơn Nam: Lịch sử An Giang,
Sđd, tr.15).
2. Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam cho biết thêm chi tiết: “Để
tiện việc di chuyển và khi mùa lụt nước ruộng rút nhanh, người khẩn hoang lúc
bấy giờ nghĩ ra sáng kiến đào nhiều con kênh ngắn (gọi là cựa gà) đổ ra kênh Vĩnh
Tế, bên phần đất mới khẩn để thăm ruộng hoặc chở lúa từ ruộng về nhà dễ dàng
hơn”. (Xem Sơn Nam: Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Đơng Phố xuất bản, Sài Gịn,
1973, tr.70-71).
241