BÀI THU HOẠCH MÔN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TẾ
Đề bài: Làm rõ nội dung trong các học thuyết kinh tế của C.Mác, Ăngghen và Lênin:
-
Học thuyết giá trị lao động;
Học thuyết tư bản;
Học thuyết giá trị thặng dư;
Học thuyết tiền cơng;
Học thuyết tích lũy tư bản
Bài làm:
LỜI MỞ ĐẦU
Với ước muốn cải biến xã hội, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, C. Mác và
Ph. Ăng-ghen đã xây dựng một học thuyết thực sự cách mạng, đáp ứng nhu cầu phát
triển của quần chúng nhân dân, tạo ra động lực phát triển cho xã hội theo xu thế thời
đại, gắn kết và giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra. Học thuyết của C. Mác
và Ph. Ăng-ghen là học thuyết chân chính được bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh chân
thực quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Học thuyết đó quay trở lại
phục vụ thực tiễn, trở thành nền tảng tư tưởng, vũ khí chiến đấu của giai cấp công
nhân, tầng lớp nhân dân lao động và các đảng cộng sản, đảng công nhân. Ph. Ăngghen đã cùng với C. Mác dày công nghiên cứu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của
nhân loại; đồng thời “tắm mình” vào thực tiễn phong phú, sinh động trong phong trào
đấu tranh cách mạng để xây dựng nên chủ nghĩa Mác. Tồn bộ học thuyết của hai ơng
là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học rất nghiêm túc để lại những cơng trình
khoa học đồ sộ, hồn chỉnh, chặt chẽ và chính xác, trong đó tính khoa học thống nhất
với tính cách mạng triệt để.
Một trong những nội dung trọng tâm của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác Lênin là chỉ rõ các quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển và tất yếu diệt vong
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại, trên cơ sở đó chỉ ra tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để làm rõ điều
đó, kinh tế chính trị học Mác - Lênin bắt đầu từ việc xây dựng học thuyết giá trị, học
thuyết giá trị thặng dư.
NỘI DUNG
I. Quá trình hình thành học thuyết kinh tế của C.Mác và Ănghen:
1. Giai đoạn từ năm 1843 đến năm 1848
Trong giai đoạn này có hai sự kiện quan trọng đối với cuộc đời Mác.
a. Chuyển việc nghiên cứu từ lĩnh vực Triết học sang lĩnh vực Kinh tế chính trị
Trong giai đoạn này, C.Mác và Ph.Ăngghen chưa phát hiện ra tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa. Chưa phân biệt được lao động và sức lao động... nên
chưa hình thành một hệ thống lý luận về kinh tế chính trị như A.Smith và D.Ricardo.
b. Chuyển từ lập trường dân chủ tư sản sang lập trường chủ nghĩa cộng sản
Gia đình C.Mác khơng phải là gia đình cách mạng, mà thuộc tầng lớp trung lưu
khá giả. Cịn gia đình Ph.Ăngghen là gia đình tư sản. Do vậy lúc đầu các ông chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa dân chủ. Nhưng chính trong q trình hoạt động thực tiễn, q
trình tham gia nhóm Hêghen và Phơbách trẻ, các ơng dã tiếp thu được những tư tưởng
khoa học, phê phán những tư tưởng hạn chế của họ, từ đó hình thành nên thế giới quan
và phương pháp luận khoa học của mình, điều đó được thể hiện qua các tác phẩm. Đến
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, các ông đã chuyển hẳn sang lập trường của chủ
nghĩa cộng sản, xây dựng thế giới quan và phường pháp luận khoa học, đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình, để bước vào giai đoạn xây
dựng học thuyết kinh tế nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung.
2. Giai đoạn từ năm 1848 đến năm 1895.
Đây là giai đoạn Mác xây dựng và hồn thành học thuyết kinh tế của mình, tiêu
biểu là hoàn thành bộ Tư bản gồm 4 quyền với thời gian gần 40 năm. Năm 1883,
C.Mác qua đời, Ph.Ăngghen tiếp tục sự nghiệp của C.Mác. Ông đã bỏ ra 12 năm biên
soạn, chỉnh lý để xuất bản quyển II và quyển III vào những năm 1885 và 1894.
Đặc biệt để bảo vệ chủ nghĩa Mác, Ph.Ăngghen đã viết tác phẩm Chống Đuy
Rinh. Thông qua tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã phê phán kịch liệt những luận điểm bịa
đặt và sai lầm của Đuy Rinh, đồng thời ông đã khái quát chủ nghĩa Mác thành ba bộ
phận: Triết học Mác; Kinh tế chính trị Mác; Chủ nghĩa xã hội khoa học.
II. Nội dung học thuyết kinh tế của C.Mác và Ănghen:
1. Học thuyết giá trị lao động:
Trong học thuyết kinh tế của C.Mác, học thuyết giá trị - lao động có vị trí quan
trọng, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử các học thuyết kinh tế phát hiện ra tính hai
mặt của lao động sản xuất hàng hóa đó là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Chính nhờ phát hiện này, C.Mác đã hoàn thiện lý luận giá trị - lao động mà các tác giả
trước đó khơng làm được và trên cơ sở lý luận này có thể phân tích một cách khoa học
các lý luận kinh tế khác.
Theo C.Mác, sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị là bởi vì
quá trình lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt. Một mặt là lao động
cụ thể, mặt khác là lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một
hình thái cụ thể của một nghề nghiệp chun mơn nhất định. Nó có mục đích riêng,
đối tượng riêng, phương pháp riêng, thao tác riêng và kết quả riêng. Như vậy, xét về
lao động cụ thể, thì lao động của người sản xuất ra những hàng hóa khác nhau là khác
nhau.
Từ sự phân tích tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, C.Mác vạch ra
trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào trong
sản phẩm mới, lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (v+m). Do đó, cấu thành lượng
giá trị kết tinh trong hàng hóa bao gồm: bộ phận giá trị cu và bộ phận giá trị mới (c + v
+ m). Điều này David Ricardo đã không vượt qua được.
Tiếp tục trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động, C.Mác đã nghiên cứu những hình
thái của giá trị và quá trình phát triển của chúng dẫn dến sự xuất hiện của tiền tệ.
C.Mác đã vạch rõ quá trình xuất hiện của tiền tệ là một quá trình khách quan trên cơ sở
sự phát triển của lưu thơng trao đổi hàng hóa. Tiền tệ là một hình thức phát triển cao
của các hình thái giá trị hàng hóa. Mỗi hàng hóa là sự thống nhất của hai mặt: giá trị sử
dụng và giá trị. Nếu giá trị sử dụng của hàng hóa có thể nhận biết bằng các giác quan,
thì giá trị của hàng hóa lại chỉ nhận biết được qua giá trị trao đối, tức là ở các hình thái
giá trị trao đổi.
C.Mác cho rằng về bản chất, tiền tệ là một hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật
ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa. Nó đo lường và biểu thị giá trị của hàng hóa
và biểu thị mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Từ đây, nảy sinh tâm lý
sùng bái tiện tệ vì tiền tệ có sức mạnh vạn năng. C.Mác cũng để cập đến các chức năng
của tiền tệ để làm rõ hơn bản chất của tiền tệ. Theo ông, tiền tệ có 5 chức năng là:
thước đo giá trị hàng hóa; phương tiện lưu thơng; phương tiện thanh toán; phương tiện
cất trữ; tiền tệ thế giới.
C.Mác đã trình bày quy luật lưu thơng tiền giấy trên cơ sở xác định khối lượng
tiền cần thiết cho lưu thông. Theo ông, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thơng bằng
tổng số giá cả hàng hóa chia cho số vịng quay trung bình của đồng tiền. Đây là khối
lượng tiền thực có trong lưu thơng, nó phục vụ cho việc chu chuyển của khối lượng
hàng hóa thực tế trong lưu thông tương ứng với giá cả của chúng. C.Mác cho rằng,
nhờ có chức năng phương tiện lưu thơng của tiền mà q trình trao đổi hàng hóa được
thuận tiện hơn, nhưng nó cũng là mầm mống của khủng hoảng kinh tế và những xáo
trộn trong kinh tế hàng hóa.
C.Mác đã nghiên cứu và vạch ra quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi
hàng hóa chính là quy luật giá trị. Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị địi hỏi hao
phí lao động cá biệt phải thấp hơn hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết, trong
lưu thông quy luật giá trị yêu cầu phải trao đổi ngang giá.
Trong kinh tế hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động đó là: thứ nhất, điều tiết
sản xuất và lưu thơng hàng hóa; thứ hai, tự phát kích thích lực luợng sản xuất phát
triển; thứ ba, tu phát phân hóa người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo đồng thời
lựa chọn một cách tự nhiên những người sản xuất và kinh doanh giỏi trong kinh tế
hàng hóa. Với những cống hiến như vậy, có thể nói rằng, C.Mác đã đạt tới đỉnh cao
trong học thuyết giá trị - lao động. Cho đến nay, chưa có một sự phát triển thêm nào
trong lĩnh vực này.
2. Học thuyết giá trị thặng dư:
Trên cơ sở học thuyết giá trị - lao động, C.Mác giải quyết hệ thống các phạm trù
và quy luật kinh tế khác. Trước hết, ông xây dựng học thuyết về giá trị thặng dư, vạch
rõ nguồn gốc, bản chất của giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư là một bộ phận giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do
công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để hiểu sâu hơn bản chất của sự bóc
lột giá trị thặng dư. C.Mác đã nghiên cứu trình độ và quy mơ bóc lột của tư bản đối với
lao động làm thuê qua tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Ông cũng đã nghiên cứu và chỉ ra hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng
du tương đối. Trong đó, phương pháp sản xuất giá trị thặng du tương đối là tinh vi
nhất, nó che giấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tu bản.
=> Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. V.I.
Lenin đánh giá cao học thuyết giá trị thặng duư của C.Mác. Theo ơng, đó là viên đá
tảng của học thuyết kinh tế của C.Mác, nó trở thành lý luận sắc bén cho giai cấp công
nhân trong công cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
3. Học thuyết tư bản:
C.Mac bổ sung một sự phân biệt mà thường bị lẫn với khái niệm của Ricardo.
Trong học thuyết kinh tế chính trị của C.Mác, tư bản lưu động là khoản đầu tư của nhà
tư bản vào lực lượng sản xuất, là nguồn tạo ra giá trị thặng dư. Nó được coi là "lưu
động" vì lượng giá trị mà nó tạo ra khác với lượng giá trị nó tiêu dụng, có nghĩa là tạo
ra giá trị mới. Nói một cách khác, tư bản cố định là khoản đầu tư vào yếu tố sản xuất
không phải con người như máy móc, nhà xưởng, những tư bản, mà theo Marx, chỉ tạo
ra lượng giá trị để thay thế chính bản thân chúng. Nó được coi là cố định theo nghĩa
giá trị đầu tư ban đầu và giá trị thu hồi ở dạng các hàng hóa do chúng tạo ra là khơng
đổi.
Tác phẩm chính của ơng là "Phê bình chủ nghĩa kinh tế chính trị" trong ba tập
của "Tư bản" trong đó ông chỉ ra bản chất của sự tích lũy tư bản trong chủ nghĩa tư
bản, sự hình thành xã hội có giai cấp hiện đại và q trình tập trung tư bản cũng được
phân tích, suy luận cả về mặt kinh tế vi mô và vĩ mô. C.Mác cũng phân tích những
khuyết điểm của trường phái kinh tế học cổ điển của Adam Smith và David Ricardo
trong việc giải thích một số hiện tượng kinh tế. Học thuyết về giá trị là phần quan
trọng nhất trong những phân tích này.
Chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang xã hội khơng có giai cấp trong chủ nghĩa cộng
sản – thông qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa xã hội – là chủ đề của học thuyết cách
mạng của C.Mác. Chủ nghĩa cộng sản là sự kết thúc của lịch sử xã hội có giai cấp, mở
đầu cho lịch sử của xã hội phi giai cấp và tự do. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp
trong nội bộ dân tộc khơng cịn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời
mất theo. Dựa trên các phân tích kinh tế - xã hội mà C.Mác và Ăngghen cho rằng sẽ có
một xã hội khơng có giai cấp được quyết định bởi lịch sử là xã hội cộng sản. Hai ông
cho rằng đó là một xu hướng đang diễn ra tại Châu Âu, một xã hội mới đang dần hình
thành từ chủ nghĩa tư bản như một bước tiến hóa của xã hội lồi người. Đó là một tầm
nhìn về tương lai Châu Âu được phong trào công nhân và nhiều chính trị gia cánh tả
chia sẻ.
4. Học thuyết về tiền công
Sức lao động và hai điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa: Theo C.Mác:
“Sức lao động, đó là tồn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con người,
trong nhân cách sinh động một con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm
cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”. Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động
cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng khơng phải bất kì điều kiện nào, sức lao
động cũng là hàng hóa.
Cũng như mọi loại hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính:
giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị hàng hóa sức lao động, cũng do thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Nhưng sức lao động
chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người
cơng nhân phải tiêu dùng một lượng tiêu dùng sinh hoạt nhất định về ăn, mặc, ở, học
nghề.v.v. Ngồi ra người lao động cịn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và
con cái của anh ta nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản
xuất ra một cách liên tục.
Biểu hiện bề ngoài của đời sống xã hội tư bản, công nhân làm việc cho nhà tư
bản, công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nhất định, sản xuất ra một lượng
hàng hóa hay hồn thành một số cơng việc nào đó thì nhà tư bản trả cho công nhân
một số tiền nhất định gọi là tiền cơng. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng rằng
tiền công là giá cả của lao động. Sự thật thì tiền cơng khơng phải là giá cả hay giá trị
của lao động, vì lao động khơng phải là hàng hóa. Vậy bản chất của tiền cơng trong
chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả
của sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngồi thành giá cả của lao động.
Tiền cơng đã che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian
lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao
động khơng được trả cơng, do đó tiền cơng che đậy mất bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản.
5. Học thuyết về tích lũy tư bản
Tích lũy tư bản, trong kinh tế chính trị Mác - Lênin, là việc biến một bộ phận giá
trị thặng dư trở lại thành tư bản, còn trong các lý luận kinh tế học khác, nó đơn giản là
sự hình thành tư bản (tăng lượng vốn dưới hình thức tư bản cố định và lưu kho của
chính phủ và tư nhân)
Đặc trưng của tái sản xuất tư bản chủ nghĩa là tái sản xuất mở rộng. Muốn vậy,
cần phát triển một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm. Việc biến giá trị
thặng dư trở lại tư bản gọi là tích lũy tư bản. Như vậy, thực chất của tích luỹ tư bản là
tư bản hóa giá trị thặng dư.
Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư và tư bản tích luỹ
chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tồn bộ tư bản. Q trình tích lũy đã làm cho quyền sở
hữu trong nền kinh tế hàng hóa biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa, nhưng
sự biến đổi đó khơng vi phạm quy luật giá trị. Động lực thúc đẩy tích luỹ tư bản là quy
luật giá trị thặng dư và cạnh tranh.
C.Mác chỉ ra các nhân tố quyết định quy mơ của tích lũy tư bản :
- Mức độ bóc lột sức lao động: do cắt xén vào tiền công của công nhân, do tăng
cường độ lao động và kéo dài ngày lao động.
- Trình độ năng suất lao động xã hội (nhân tố quan trọng quyết định quy mơ của
tích lũy)
- Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng ( sự phục
vụ không công của máy móc)
Quy mơ của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá
trị thặng dư bóc lột được và quy mơ tích lũy ngày càng lớn.
C.Mác đã phân tích quy luật chung của tích lũy tư bản và xu hướng lịch sử của
sự tích lũy tư bản. ơng cho rằng, trong q trình tích lũy, tư bản lớn lên về lượng thơng
qua tích tụ và tập trung tư bản, đồng thời cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng tăng lên. Đây
là vấn đề có tính quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Trong điều kiện cấu tạo hữu cơ của tư bản nâng cao, tích lũy tư bản tất yếu dẫn
đến nạn thất nghiệp và bần cùng hóa giai cấp vơ sản làm cho mâu thuẫn cơ bản của
chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc hơn.
Cùng với nạn nhân khẩu thừa tương đối, q trình tích lũy dẫn đến bần cùng hóa
giai cấp vơ sản. Ơng chỉ ra ngun nhân sâu xa, hình thức và xu hướng vận động của
tình trạng này. Theo ơng, tốc độ và quy mơ tích lũy càng tăng, thì giai cấp tư sản giàu
lên nhanh chóng, cịn giai cấp vơ sản ngày càng bị bần cùng và thất nghiệp.
Ơng phân biệt hai hình thức bần cùng hóa giai cấp vơ sản là bần cùng hóa tương
đối và bần cùng hóa tuyệt đối. Bần cùng hóa tương đối giai cấp vô sản: biểu hiện ở tỷ
trọng thu nhập của giai cấp công nhân trong thu nhập quốc dân ngày càng giảm xuống,
còn tỷ trọng thu nhập của giai cấp các nhà tư bản không ngừng tăng lên. Sự bần cùng
hóa tuyệt đối giai cấp vơ sản: biểu hiện ở mức sống của họ trực tiếp giảm xuống do
tiền công thực tế giảm xuống, mức tăng lương chậm hơn mức tăng nhu cầu cần thiết,
chậm hơn mức tăng giá trị sức lao động.
C.Mác đã chỉ rõ xu hướng lịch sử của tích lũy tư bản, theo ơng chủ nghĩa tư bản
ra đời trên cơ sở dung bạo lực để tước đoạt của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là
nơng dân. Q trình đó đã biến chế độ tư hữu nhỏ dựa trên lao động cá nhân thành chế
độ sở hữu tư bản chủ nghĩa dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê, biến sản xuất nhỏ
lạc hậu, phân tán thành sản xuất lớn, tập trung. Đó là sự phủ định chế độ tư hữu của
những người sản xuất nhỏ.
Khi phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản đã hình thành thì q trình tích lũy và
cạnh tranh dẫn đến tư bản sản xuất được tập trung ngày càng lớn, do đó sản xuất được
xã hội hóa cao hơn, lực lượng sản xuất được phát triển mạnh mẽ hơn => mâu thuẫn
giữa tính xã hội của sản xuất với chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa phát triển => thay thế
xã hội tư bản bằng xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là xu hướng lịch sử của tích
lũy tư bản, xu hướng tạo ra những tiền đề vật chất và tiền đề xã hội cao cho sự phủ
định đối với chủ nghĩa tư bản.
KẾT LUẬN
Học thuyết kinh tế của C.Mác mang tính chất nhất quán, logic, khoa học. Trên cơ
sở thực tiễn sinh động của chủ nghĩa tư bản đã phát triển đầy đủ, trên cơ sở kế thừa có
phê phán những tỉnh hoa của thời đại và với tài năng, trí tuệ của mình C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thành công trong việc xây dựng học thuyết kinh tế của mình, các ơng
đã đưa kinh tế chính trị đạt tới đỉnh cao của nhân loại - đó là một học thuyết vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính cách mạng.