Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGUYÊN NHÂN dẫn đến THÀNH CÔNG của CÁCH MẠNG THÁNG tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.29 KB, 14 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ VIỆT NAM

Đề tài:
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THÀNH CÔNG CỦA CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM
Giảng Viên Phụ Trách: PGS.TS.Trần Thuận
Sinh viên thực hiện: Trần Duy Luân
Pháp danh: Thích Giác Minh Chuyển
Mã sinh viên: TX 6230
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ VIỆT NAM

Đề tài:
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THÀNH CÔNG CỦA CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM
Giảng Viên Phụ Trách: PGS.TS.Trần Thuận
Sinh viên thực hiện: Trần Duy Luân
Pháp danh: Thích Giác Minh Chuyển


Mã sinh viên: TX 6230
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2021


MỤC LỤC


A LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Cách mạng tháng Tám còn gọi là tổng khởi nghĩa tháng Tám là tên gọi ngành sử học
chính thống tại Việt Nam hiện nay dùng để chỉ việc phong trào Việt Minh tiến hành
khởi nghĩa chống Đế quốc Nhật Bản, buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính quyền
trung ương và các địa phương và buộc Bảo Đại phải thoái vị trong tháng 8 năm 1945.
Việc chuyển giao quyền lực được Chính phủ Đế quốc Việt Nam thực hiện cơ bản
trong hịa bình, ít có đụng độ dù xảy ra tranh chấp với lực lượng Nhật, Đại Việt, Hòa
Hảo,... ở một số địa phương. Trừ một số địa phương tỉnh lỵ như Hải Ninh (nay thuộc
Quảng Ninh), Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên nằm trong tay các đảng phái
khác như Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng,... và quân Tưởng Giới Thạch (Trung
Quốc); chỉ trong 10 ngày, cơ sở chính quyền Việt Minh đã được thiết lập trên toàn bộ
các tỉnh lỵ trên khắp Việt Nam (muộn nhất 28/8: Đồng Nai Thượng, Hà Tiên), hầu hết
địa phương trong cả nước. Một số nơi có khó khăn hơn như Hà Giang, quân Tưởng
Giới Thạch bức rút quân Nhật (29/8) và giải phóng ln tỉnh này, Cao Bằng (giành
chính quyền 21/8 nhưng sau đó qn Tưởng tràn vào), Lạng Sơn (giành chính quyền
sau đó quân Tưởng Giới Thạch tràn vào, tháng 10 mới thành lập chính quyền cách
mạng), Vĩnh Yên (Quốc dân Đảng nắm giữ), Hải Ninh – Móng Cái (Việt Nam Cách
mệnh Đồng minh Hội nắm), một số địa bàn ở Quảng Ninh (do Đại Việt, Việt Nam
Cách mệnh Đồng minh Hội nắm), ở Đà Lạt (quân Nhật còn kháng cự mạnh như ngày

3/10)...Kết quả của cuộc cách mạng là ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc
bản Tun ngơn Độc lập Việt Nam, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
đồng thời cũng chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại suốt 2.000 năm trong
lịch sử Việt Nam.Đó cũng là lý do mà học viên chọn đề tài “Những ngyên nhân dẫn
đến thắng lợi cách mạng tháng tám ” để nghiêm cứu.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên chọn nghiên cứu với phương pháp phân tích,so sánh và tổng hợp từ đó đi
đến kết luận để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
3.Nội dung nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu các thành quả từ năm 1986 đến
nay trên bình diện cơ bản nhất.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung,Nội dung gồm 03 chương có 09 mục và 04 tiểu mục.
Phần kết luận & Tài liệu tham khảo

4


A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1. Bối cảnh thế giới:
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật đánh lại phe Đồng
Minh gồm Anh, Pháp, Liên Xơ. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến (trong đó
có Việt Minh, Pathet Lào, Issarak Campuchia tại Đông Dương.
Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Chiến tranh thế giới thứ hai, Chính phủ Vichy của
Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc Kỳ.
Ngay lập tức, quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường
Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến
lược quân sự của Nhật nhằm thống trị toàn bộ Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc

đại thắng của Đức tại châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại
Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc hải quân và không
quân Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài Gịn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đơng của
Anh).Thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa
chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn, Xô-viết Nghệ
Tĩnh nhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan thực hiện
cuộc Binh biến Đô Lương cũng thất bại
Vào tháng 5 năm 1941, các lực lượng ái quốc, trong đó nịng cốt là Đảng Cộng sản
Đơng Dương, do Hồ Chí Minh dẫn đầu, tập hợp tại một địa điểm gần biên giới Việt–
Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía Đồng Minh giành độc lập cho Việt Nam,
gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh, thường được gọi tắt là Việt Minh. Tổ chức này
xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt–Trung.
Tại châu Âu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng 8,
Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 15 tháng
8, Nhật hồng tun bố đầu hàng vơ điều kiện. Qn Nhật tại Việt Nam dao động
nhưng không tan rã, thậm chí vẫn giữ ngun khí giới và các chốt phịng thủ. Tuyên
bố Potsdam của Anh, Mỹ và Trung Hoa Dân quốc gửi Nhật ngày 26 tháng 7 khơng nói
rõ phần lãnh thổ nào của Đông Dương sẽ do ai giải giới vũ khí mà chỉ nói các vùng
lãnh thổ do Nhật Bản chiếm được bằng vũ lực sẽ được các nước đồng minh vào giải
giới. Tuyên bố cũng không nhắc đến việc vùng nào do ai giải giới mà chỉ nói là phe
Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh) sẽ tham gia giải giới.[2] Tuy nhiên, Thủ tướng
Nhật lúc đó là Suzuki tuyên bố Tuyên bố Potsdam không ràng buộc thêm bất cứ nghĩa
vụ nào với Nhật Bản so với Tun bố Cairo trước đó. Thậm chí phía Nhật đã bác bỏ
Tuyên bố Potsdam.[3] Tới 10/08/1945, phía Nhật mới chấp nhận Tuyên bố Potsdam.
[4]
1.2. Bối cảnh trong nước:
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang
tên Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (một trong những tiền thân của Quân đội
Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến
khu. Trước khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng

đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc.

5


Trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, giành quyền kiểm sốt
tồn bộ Đơng Dương, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"
nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ
chức đấu tranh để thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên
khởi nghĩa giành chính quyền).Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến
tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ
để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân phá các kho
thóc Nhật để lấy gạo phát cho dân đói. Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải
quyết được nạn đói là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đi
theo Việt Minh[1]. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu,
thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra
trên tồn quốc, đó là Cách mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự
tham gia của hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước chỉ
trong khoảng mười ngày. Trước tình hình đó, Nhật bàn giao cho Khâm sai Bắc Kỳ,
Phan Kế Toại, bộ máy hành chính địa phương, Sở Bảo An, Sở Mật thám trung ương,
Sở Kiểm duyệt và một số cơng sở khác. Nhật chỉ giữ quyền kiểm sốt Ngân hàng
Đơng Dương và Phủ Tồn quyền.[5] Đầu tháng 8/1945, cán bộ Việt Minh Đồn Xn
Tín được giao nhiệm vụ gặp Phan Kế Toại để nắm bắt tư tưởng và vận động ơng ủng
hộ Việt Minh, đồng thời thăm dị thái độ của Chính phủ Trần Trọng Kim[6] Sau đó,
Khâm sai Phan Kế Toại gặp Nguyễn Khang, người do Xứ ủy Bắc Kỳ cử đến. Ông đề
nghị Việt Minh tham gia Chính phủ Bảo Đại và ngừng các hoạt động chống Nhật
nhưng Nguyễn Khang bác bỏ.[7]

6



CHƯƠNG 2: DIỄN BIẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
2.1.Diễn biến ở Hà Nội.
Sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các
ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít
tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự
vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên
bố: Tổng khởi nghĩa! Chỉ đạo khởi nghĩa ở Hà Nội có Nguyễn Khang, Trần Tử Bình,
Nguyễn Quyết.Trong điện gửi về Tokyo, Đại sứ Nhật tại Đông Dương xác nhận:
"Chiều ngày 19, Đại sứ đã 'được mời' đến dự cuộc gặp với các lãnh đạo Etsumei (Việt
Minh) và đã tham gia bàn bạc với những người đó, được coi như là các nhà chức trách
chính thức."[8]
2.2.Diễn biến tại Huế
Ngày 17 tháng 8 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt quốc
dân, nhưng bởi sự ủng hộ của người dân, cuộc mít tinh đã biến trở thành cuộc tuần
hành ủng hộ lực lượng Việt Minh. Ngày 23/8, khởi nghĩa ở Huế giành thắng lợi. Chỉ
đạo khởi nghĩa có Nguyễn Chí Thanh và Tố Hữu. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp
của lực lượng Thanh niên tiền tuyến (Thanh niên Phan Anh), đây vốn là bộ phận bảo
vệ trị an của chính phủ Trần Trọng Kim nhưng khi cách mạng nổ ra đã quay sang ủng
hộ Việt Minh.Theo ơng Phạm Khắc Hịe, ngun Tổng lý Ngự tiền văn phịng của
triều Nguyễn thì cho đến những ngày cuối cùng, Trần Trọng Kim vẫn ra sức giữ ngôi
báu cho nhà Nguyễn nhưng đành chịu bất lực vì các thành viên nội các do ông ta
thành lập đều muốn từ chức và quay sang ủng hộ Việt Minh[9]:"Rõ ràng là Trần Trọng
Kim đã hạ quyết tâm phục vụ quan thầy Nhật đến cùng… Ngày 17/8, chính phủ họp.
Ơng Trần Đình Nam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, phát biểu: "Toàn dân thắt chặt đoàn kết
chung quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất, tức là Việt Minh, làm cho nước ngồi
khơng thể giở thủ đoạn "chia để trị" ra được nữa. Vậy, tôi đề nghị chúng ta rút lui
ngay, nhường hẳn quyền bính cho Việt Minh. Theo tơi nghĩ thì cả Hồng đế cũng nên
rút lui". Câu nói này làm cho Trần Trọng Kim nhảy dựng người lên, nghiêm khắc lên

án Trần Đình Nam dám địi nhà vua bỏ ngơi báu. Một cuộc tranh luận sơi nổi dấy
lênCác bộ trưởng có thiện chí đều xin từ chức. Chính phủ Trần Trọng Kim khơng thể
tồn tại được. Ơng Trần Trọng Kim có muốn duy trì nó cũng khơng được. Ơng đành
ấm ức chấp nhận thực tế phũ phàng chứ không phải tự nguyện nhường quyền cho Việt
Minh.Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập sau cuộc cách mạng
tháng 8 năm 1945 là kết quả của cuộc đấu tranh lâu đài, gian khổ, đầy hy sinh của
nhân dân Việt Nam chống đế quốc Pháp, Nhật và tay sai, chứ đâu phải là một chính
phủ chuyển tiếp êm thấm. Càng khơng phải là nhờ thiện chí của ơng Thủ tướng Trần
Trọng Kim!
2.3.Diễn biến tại miền Nam
Ở Sài Gòn, hành động chuyển giao quyền lực có ý nghĩa biểu tượng quan trọng là lời
cam kết ngày 22 tháng 8 của Thống chế Terauchi với Trần Văn Giàu và Phạm Ngọc
Thạch - hai đại diện cao cấp của Việt Minh - về việc qn Nhật khơng can thiệp nếu
Việt Minh giành chính quyền. Ông Terauchi còn trao kiếm cá nhân và khẩu súng tùy
thân cho đại diện của Việt Minh để làm tin[10]
7


CHƯƠNG 3:NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
3.1.Sự lãnh đạo của đảng và chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Sự lãnh đạo đó trước hết là sự hoạch định đúng đắn Cương lĩnh, đường lối cách mạng.
Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trở về nước. Người đã cùng
Trung ương Đảng phát triển, bổ sung đường lối giải phóng dân tộc, một tư tưởng lớn
đã được xác định từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (2-1930). Sự phát triển về đường
lối được nêu bật tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ
trì. Nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới
lợi ích và sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Tập hợp, đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc,
phát triển lực lượng chính trị trong Mặt trận Việt Minh, từ đó xây dựng, phát triển lực
lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng. Đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền, xây dựng Nhà nước cộng hịa dân chủ Việt Nam. Chú trọng

phát triển tình thế cách mạng và nắm bắt thời cơ. Xây dựng Đảng vững mạnh bảo đảm
sự thống nhất nhận thức và hành động trong tồn Đảng. Nội dung cơ bản đó của
đường lối tiếp tục được phát triển sáng tạo, cụ thể hóa tại Hội nghị Thường vụ Trung
ương (2-1943), Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đ.C.S.Đ.D Nhật-Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945) và nhất là Hội nghị toàn quốc của Đảng
ở Tân Trào - Tuyên Quang (14 - 15-8-1945). Đường lối cách mạng đúng đắn đã dẫn
dắt phong trào cách mạng của toàn dân tộc phát triển mạnh mẽ bảo đảm đi đến thắng
lợi.Đảng coi trọng phát triển thực lực cách mạng, giải quyết đúng đắn các mối quan hệ
giữa nhân tố chủ quan, khách quan, thời cơ và nguy cơ. Đảng nhận thấy rõ, cách mạng
của ta phải do ta tự làm lấy, vì vậy phải có sức mạnh. “Dù sao chỉ có thực lực của ta
mới quyết định được sự thắng lợi”. Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, đồng thời Đảng coi
trọng sự ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, khi xác định cách mạng Việt Nam đứng về
phe Đồng minh chống phát-xít. Tháng 8-1942, Hồ Chí Minh sang Trung Quốc để liên
lạc và tranh thủ sự giúp đỡ của lực lượng Đồng minh, chống quân Nhật xâm lược. Đầu
năm 1945, Người lại sang Trung Quốc với sứ mệnh đó. Yếu tố bên ngồi là quan
trọng, song Hồ Chí Minh cho rằng sự đồng tâm hiệp lực của dân ta mới là quyết định.
Người kêu gọi: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào
hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cùng các nhà lãnh
đạo Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng phân tích
sâu sắc tình hình trong nước và chiến tranh thế giới thứ II để đi đến khẳng định: “Lúc
này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Thời cơ thuận lợi chính là lúc cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân dân Việt Nam
phát triển mạnh mẽ trên khắp cả nước từ miền núi, nông thôn đồng bằng đến đô thị;
quân phiệt Nhật tuyên bố đầu hàng các nước Đồng minh ngày 15-8-1945 và chính
quyền phong kiến, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim suy yếu, hoang mang cực điểm;
Trung ương Đảng và các tổ chức đảng trong cả nước đã sẵn sàng đưa toàn dân vào
hành động cách mạng với nguyên tắc chỉ đạo: tập trung, thống nhất, kịp thời. Khi thời
cơ chín muồi cũng là lúc xuất hiện nguy cơ cần phải ngăn chặn, vượt qua. Thực dân
Pháp lợi dụng sự thất bại của Nhật, tìm cách quay lại khơi phục địa vị cũ ở Đông

Dương như trước ngày 9-3-1945. Các nước Đồng minh theo phân công của Hội nghị
8


Pôt-xđam (Đức) tháng 7-1945 vào giải giáp quân Nhật nhưng có âm mưu xâm chiếm
và chia cắt nước Việt Nam. Việc giành chính quyền thành cơng trọn vẹn trong nửa
cuối tháng 8-1945 là mẫu mực tuyệt vời về nghệ thuật chớp thời cơ và do đó đã ngăn
chặn được nguy cơ mới đe dọa vận mệnh của dân tộc.Sự lãnh đạo tập trung, thống
nhất của Trung ương có ý nghĩa quyết định toàn cục, đồng thời cần phải nhấn mạnh
tới tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao của đảng bộ các địa phương, của
những cán bộ, đảng viên tiêu biểu. Chỉ với gần 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo
hơn 20 triệu đồng bào cả nước làm nên chiến cơng có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Lịch
sử mãi mãi ghi công những cán bộ, đảng viên kiên trung cùng sự hy sinh, chiến đấu
của toàn dân. Khởi nghĩa ở Hà Nội 19-8-1945 với vai trò của các đồng chí: Nguyễn
Khang, Trần Tử Bình, Nguyễn Huy Khôi, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Quyết, Nguyễn
Duy Thân… Cuộc khởi nghĩa ở Huế 23-8-1945 có sự lãnh đạo của Tố Hữu, Nguyễn
Chí Thanh… Khởi nghĩa ở Sài Gịn 25-8-1945 gắn liền với vai trị của Bí thư Xứ ủy
Nam Kỳ Trần Văn Giàu và nhiều đồng chí khác. Đảng bộ và các đồng chí lãnh đạo
các địa phương khác cũng đã chủ động hành động như thế. Sự vùng dậy của cả một
dân tộc vì độc lập, tự do với những người cộng sản dẫn đầu mãi mãi là hình tượng cao
đẹp của cuộc Cách mạng Tháng Tám.Bài học về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách
mạng Tháng Tám có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn đối với các thời kỳ cách
mạng tiếp theo, nhất là với công cuộc đổi mới hiện nay. Đổi mới bắt đầu từ sự khởi
xướng và hoạch định đường lối từ Đại hội VI của Đảng (12-1986). Trải qua 30 năm
đổi mới, đường lối, Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển trên
cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đường lối đúng đắn, Đảng đã lãnh đạo xây
dựng, phát triển đất nước đạt được những thành tựu to lớn, rất quan trọng. Hiện nay,
cơ hội cho sự phát triển đất nước là rất lớn khi ta đang đi trên con đường đúng với sự
lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng và Nhà nước; thế và lực của đất nước đã tăng

lên rất nhiều; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả.Đảng cũng thẳng thắn
chỉ rõ những nguy cơ và thách thức trên con đường đổi mới. Đó là nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa cả trong nhận thức và hành động. Nền kinh tế cịn có những
mặt yếu kém, quy mơ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh còn thấp.
Tham nhũng, lãng phí, sự suy thối về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống của một
bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn như mong muốn. Sự chống phá của
các thế lực thù địch rất quyết liệt với âm mưu “diễn biến hịa bình”, thúc đẩy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Tình hình đó địi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, trách
nhiệm cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn
Đảng về mọi mặt, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, kiểu mẫu như mong
muốn của Bác Hồ. Chỉ như vậy, Đảng mới xứng đáng với sự kính trọng, tin cậy của
nhân dân và tồn dân tộc, thực hiện được sứ mệnh vẻ vang, lãnh đạo đẩy mạnh đổi
mới toàn diện, đồng bộ, xây dựng, phát triển bền vững đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
3.2.Truyền thống yêu nước,chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Trở về thời đại các vua Hùng dựng nước, ngày nay cịn tìm thấy các di chỉ văn hóa
Phùng Ngun, Đồng Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn... (có niên đại xa nhất cách đây 40003500 năm), rất nhiều công cụ bằng đồng, cùng những vũ khí thơ sơ để tự vệ: lưỡi cày,
lưỡi búa, mũi tên, lưỡi dao, giáo, rìu, dao găm và những mảnh giáp che thân bằng
đồng...Sự phát triển của đồ đồng đã chấm dứt thời kỳ tồn tại hàng vạn năm của công
9


xã nguyên thủy trước đó, thời kỳ mà con người sống hồn tồn cịn phụ thuộc vào tự
nhiên để đi vào thời kỳ mới: thời kỳ con người bắt đầu có ý thức với cuộc sống, với
cộng đồng, với sản xuất. Việc con người biết trồng trọt, chăn nuôi, biết dùng súc vật
để kéo cày, biết làm lúa nước, làm thủy lợi, cùng với việc xuất hiện một số ngành
nghề mới (thủ công, trồng dâu nuôi tằm, luyện đồng, rèn sắt...) đã tạo ra tiền đề ổn
định cộng đồng, nhờ đó cũng kéo theo cả sự phát triển của văn hóa... Có thể nói sức
mạnh của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc, với cơ sở cộng đồng đoàn kết, quốc gia
thống nhất của nền văn minh bản địa, đã tạo cho cộng đồng người Việt có sức mạnh

để chiến thắng giặc ngoại xâm và chinh phục thiên nhiên trong suốt quá trình lịch sử.
Nước Văn Lang bước vào thế kỷ III trước công nguyên là thời kỳ những đời cuối cùng
của thời đại Hùng Vương. Đây là lúc sản xuất và văn hóa đang trên đà phát triển. Đồ
đồng thau phát triển cực thịnh tạo điều kiện quá độ sang thời kỳ đồ sắt. Nông nghiệp,
thủ công nghiệp đều phát triển hơn trước. Diện tích đất đai được khai phá mở rộng ở
miền núi và trung du, đồng bằng, dân số đơng thêm. Trung tâm văn hóa và kinh tế có
xu thế dời từ vùng trung du xuống miền đồng bằng. Đó cũng là lúc mà phương Bắc
đang có những biến đổi lớn. Thời Chiến quốc kết thúc, nhà Tần thống nhất Trung
Quốc (221 trước công nguyên). Tần Thủy Hồng lên ngơi hồng đế với tư tưởng "bình
thiên hạ" và chủ nghĩa bành trướng bắt đầu được đẩy mạnh. Nhà Tần liên tục phát
quân xâm lược phương Nam. Đối với đất Việt phương Nam thời đó, chống ngoại xâm
và xây dựng đất nước là một nhu cầu cấp bách. Trên cơ sở nền kinh tế đã phát triển
hơn và trước nguy cơ xâm lược từ phương Bắc, xuất hiện nhu cầu hợp nhất những bộ
tộc gần nhau về địa vực, huyết thống, trình độ phát triển kinh tế và văn hóa. Đó là cơ
sở dẫn tới sự hợp nhất giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt và sự ra đời nước Âu Lạc
vững mạnh hơn.
Cuộc đấu tranh giành quyền tự chủ, tiến tới xây dựng quốc gia phong kiến độc lập (từ
cuối thế kỷ II trước công nguyên đến đầu thế kỷ X). Triệu Đà sáp nhật đất Âu lạc vào
Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 trước công
nguyên, nhà Hán chiếm được Nam Việt, đổi vùng đất Âu lạc thành Giao Châu có 7
quận với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận là thái thú. Đế chế Hán áp đặt ách
thống trị và bóc lột tàn bạo, nặng nề lên dân Âu Lạc. Đặc biệt nguy hiểm là chủ
trương Hán hóa dân Việt và biến đất Việt thành đất Hán. Song các cư dân Việt không
chịu khuất phục. Từ đây cho đến đầu thế kỷ X, mặc dầu tương quan lực lượng rất
chênh lệch, nhân dân ta vẫn không ngừng đấu tranh giành quyền tự chủ của dân tộc.
Công cuộc dựng nước và giữ nước trong thời kỳ phong kiến tập quyền thịnh trị của
dân tộc (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV)
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ của
phương Bắc, tự xưng vương, lập nên nước độc lập ngang hàng với phương Bắc. Cổ
Loa (kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương) được chọn lại làm kinh đơ.

Điều đó càng chứng tỏ ý chí lưu giữ truyền thống dựng nước và giữ nước lâu đời của
tổ tiên ta.
Nhưng sự nghiệp củng cố nền độc lập và thúc đẩy chế độ phong kiến phát triển từ sau
Ngơ Quyền vẫn ở trong tình trạng bị ngoại xâm đe dọa. Trong thư gửi Đinh Toàn (con
nối ngơi Đinh Tiên Hồng), vua Tống đã nói rõ việc "lấy lại Giao Châu bị mất" vì cuối
đời Đường "nhiều khó khăn chưa kịp khu xử". Đất nước ta lại bị đe dọa. Đã vậy Đinh
10


Tồn lại cịn nhỏ. Trước tình hình đó, Thái hậu Dương Vân Nga đã biết đặt quyền lợi
quốc gia, quyền lợi cộng đồng lên trên quyền lợi dòng họ, trao ngơi vua cho Thập đạo
tướng qn Lê Hồn, vì mục đích giữ vững và bảo tồn chủ quyền quốc gia.
Đầu năm 981, quân Tống do Hầu Nhân Bảo hùng hổ kéo vào nước ta. Theo gương
Ngô Quyền lúc trước, quân dân ta đã đóng cọc trên sơng Bạch Đằng và mai phục
đường bộ. Cuối mùa xuân 981, quân xâm lược Tống bị đại bại. Lại một lần nữa truyền
thống giữ nước được phát huy. Sau nhà Đinh, nhà Tiền Lê đánh giặc giữ nước, phát
huy truyền thống của cha ông, rồi đến nhà Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đơ từ vùng
núi non hiểm trở (Ninh Bình) địa thế chật hẹp ở Hoa Lư về Đại La (Hà Nội) và đổi tên
là thành Thăng Long. Điều này chứng tỏ thế mới của một quốc gia độc lập mà Lý
Công Uẩn đã nêu trong Chiếu dời đơ: "Đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính
kế lâu dài cho con cháu mai sau".Nhà Lý bắt tay vào xây dựng đất nước với quy mô
lớn. Năm 1042, Lý Thái Tông cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta:
Bộ Hình thư. Năm 1054, nhà Lý đặt tên nước là Đại Việt. Năm 1070 lập Quốc Tử
Giám, năm 1075 mở khoa thi đầu tiên chọn nhân tài. Từ đây là thời kỳ củng cố nền
độc lập, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa xây dựng đất nước thành một nhà nước phong
kiến tập quyền ngày càng vững mạnh, thời kỳ phát triển của dân tộc Việt Nam cả về
kinh tế, chính trị, văn hóa, qn sự... Song, từ giữa thế kỷ XIV, triều Trần lún sâu vào
con đường ăn chơi vơ độ, lịng dân phân tán. Trong đời sống chính trị, kinh tế và xã
hội của đất nước, nhiều mặt đòi hỏi phải cải cách, phải thay đổi, nhưng nhà Trần đã tỏ
ra bất lực. Trong khi đó nhà Minh lại có ý đồ xâm lược nước ta. Hồ Quý Ly lập ra

triều Hồ năm 1400 để thay thế nhà Trần. Sau khi xưng đế, ơng có chú trọng đến việc
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nhiều cải cách trong đời sống xã
hội... ra sức chuẩn bị lực lượng để chống nguy cơ xâm lược của nhà Minh. Từ thế kỷ
XV đến trước khi Pháp xâm lược Việt Nam (1858). Vào khoảng nửa sau thế kỷ XV,
chế độ phong kiến tập quyền Việt Nam phát triển mạnh mẽ vào thời Lê Thánh Tông.
Sự phát triển ấy có mặt tích cực là đã khẳng định và củng cố những thành quả của sự
nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược
nước ta đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược
nước ta. Sau những cuộc chiến đấu rời rạc, yếu kém, thiếu tự tin, bọn phản động trong
giới cầm quyền nhà Nguyễn đã vứt bỏ ngọn cờ dân tộc, lần lượt ký những điều ước,
hòa ước đầu hàng, rồi cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp. Nhân dân ta lại bị chủ
nghĩa thực dân Pháp nô dịch. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược cho đến khi giới
cầm quyền phản động nhà Nguyễn đầu hàng, với truyền thống yêu nước, rất nhiều lực
lượng gồm các văn thân, sĩ phu yêu nước và các tầng lớp nhân dân đã lần lượt đứng
lên đấu tranh chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp. Đây là một chặng đường đầy
gian nan của dân tộc. Lực lượng chủ yếu của dân tộc lúc bấy giờ là giai cấp nơng dân
bị mịn mỏi và kiệt quệ bởi các cuộc chiến tranh liên miên từ thời Nam - Bắc triều, rồi
Đàng Trong - Đàng Ngoài, bởi chính sách bóc lột kinh tế, đàn áp xã hội của nhà
Nguyễn. Trong khi đó thì kẻ thù lại là một lực lượng mạnh thuộc một phương thức sản
xuất cao hơn hẳn phương thức sản xuất phong kiến Việt Nam đương thời, và giới cầm
11


quyền thống trị nhanh chóng vứt bỏ ngọn cờ dân tộc, đầu hàng Pháp. Trong hồn cảnh
đó, các lực lượng chống Pháp trên cơ sở một tinh thần yêu nước mãnh liệt đã tự mình
chiến đấu rất kiên cường, song cuối cùng các cuộc đấu tranh đều bị nhấn chìm trong
bể máu. Song truyền thống yêu nước của dân tộc mà họ tiếp nối vẫn mãi mãi sống
động, sự kiên cường dũng cảm của các anh hùng nghĩa sĩ mãi mãi lưu truyền. Ngay
sau khi ra đời (1930), Đảng ta đã tuyên truyền, giác ngộ, xây dựng lực lượng cho cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Qua các phong trào 1930-1931, 1936-1939,

Đảng ta đã tập hợp quần chúng, tôi luyện họ trong cuộc đấu tranh cách mạng, phát
triển lực lượng mọi mặt của nhân dân ta, chuẩn bị đón thời cơ giành lại độc lập tự do
cho Tổ quốc.Với đường lối chiến lược đúng đắn, với những chính sách kịp thời và
linh hoạt, nhất là từ sau Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5-1941), cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945 đã thành công. Cách mạng tháng Tám (1945) ở Việt Nam
là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân điển hình ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến do giai cấp công nhân lãnh đạo. Thắng lợi ấy đã đưa dân tộc Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng
lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ của giai cấp công nhân,
kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là thắng lợi
của đường lối phát huy truyền thống dân tộc với sức mạnh của thời đại, tài tình tạo
thời cơ, nắm vững thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2-91945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại vườn hoa Ba Đình
(Hà Nội), khai sinh ra nước Cộng hịa dân chủ Việt Nam. Người trịnh trọng tuyên bố:
"Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước
Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên
chế độ dân chủ cộng hòa". "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Bản
Tuyên ngôn độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nó chấm dứt
chính thể qn chủ và chế độ thực dân áp bức. Nó mở ra một kỷ ngun mới dân chủ
cộng hịa. Đó là bản Tun ngôn độc lập thứ ba của dân tộc sau bản Tun ngơn độc
lập thời Lý và Bình Ngơ đại cáo thời Lê Lợi - Nguyễn Trãi.

12


KẾT LUẬN
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công mau lẹ do nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt,
khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện

cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạoĐảng có phương
pháp, chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp, linh hoạt; nhận thức được thời cơ,
chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước- Cách mạng Tháng Tám thành công là do tinh thần u
nước, đồn kết, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta, không chịu sống mãi
kiếp nơ lệ của người dân mất nước; một lịng đi theo Đảng và được Đảng lãnh đạo qua
các cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm
đấu tranh cực kỳ gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao
đồng bào, chiến sĩ đã khơng hề tiếc máu xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập
dân tộc.- Cách mạng Tháng Tám được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những
thuận lợi nhất định. Chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đánh bại, phong trào đấu
tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế giới
phát triển mạnh. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu
tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử
dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra
đời - Nhà nước cơng nơng đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong
kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát
xít. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nơ lệ trở thành người dân một nước độc lập, làm
chủ vận mệnh của mình. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong kiến trở
thành một nước độc lập, tự do và dân chủ. Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành một
đảng cầm quyền. Từ đây, đất nước, xã hội, dân tộc và con người Việt Nam bước vào
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.Cách mạng
Tháng Tám là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa
Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây cịn là q trình phát triển tất yếu
của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường,
sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hịa quyện với chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hịa bình, dân chủ và tiến bộ
xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám

cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực
dân áp bức, thống trị.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1^ Chống giặc đói, GS ĐẶNG PHONG, Báo Tuổi Trẻ, 07/03/2005
2^ Potsdam Declaration, Proclamation Defining Terms for Japanese Surrender, Issued,
at Potsdam, ngày 26 tháng 7 năm 1945
3^ Frank, Richard B. (1999). Downfall: the End of the Imperial Japanese Empire.
New York: Penguin. ISBN 978-0-14-100146-3. trang 234
4^ Japan accepts Potsdam terms, agrees to unconditional surrender, www.history.com
5^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 302, 307
6^ “Từ Hỏa Lò đến Phủ Khâm sai Bắc Bộ”. Báo điện tử Nhân dân. Truy cập 8 tháng 2
năm 2015.
7^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 301, 302
8^ Dẫn lại theo Lê Trọng Nghĩa, "Các Ủy ban nhân dân cách mạng ra mắt ở Hà Nội
sau Khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám", in trong: 19-8: Cách mạng là sáng tạo, Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam, 1995, tr. 94.
sách:
(1), Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr.562.
(2), Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tr.289.
(3), (5), Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, tr.2
(4), Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.


14



×