1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An sinh xã hội(ASXH) là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm
vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động
bất thường về kinh tế, xã hội và mơi trường; vừa góp phần khơng ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Vì vậy, ASXH có vị trí rất
quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia nhằm
thực hiện quyền cơ bản của con người, thực hiện bình đẳng và cơng bằng xã
hội, góp phần thực hiện một xã hội hài hịa, đồng thuận, khơng có sự loại trừ
và phát triển bền vững.
Hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thối kinh tế toàn cầu đặt ra
nhiều thách thức đối với toàn thế giới. Tác động tiêu cực về mặt xã hội của
cuộc khủng hoảng và tình trạng đói nghèo ngày càng gia tăng đòi hỏi xử lý
nhiều vấn đề cả ở vĩ mô và vi mô, cả ở tầm quốc gia và khu vực. Mặt khác,
yêu cầu phát triển bền vững còn đòi hỏi phải xử lý thoả đáng các vấn đề liên
quan đến an ninh năng lượng, lương thực, môi trường và các lĩnh vực an ninh
phi truyền thống khác. Quyết tâm và nỗ lực cải cách của mỗi nền kinh tế là vơ
cùng thiết yếu, song điều đó chưa đủ để đảm bảo cuộc sống tốt đẹp ở mỗi
quốc gia, mà cần phải phối hợp đồng bộ các chính sách và tăng cường hợp
tác, liên kết cả ở các cấp độ khu vực và toàn cầu trong vấn đề giải quyết
những khó khăn, khắc phục nguy cơ rủi ro cho người dân trong đời sống. Do
vậy, việc thiết lập một mạng ASXH bền vững đủ sức chống đỡ với các rủi ro
xã hội không chỉ là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia mà còn là sự quan
tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.
Ở Việt Nam, xây dựng, hồn thiện và thực hiện hệ thống chính sách
ASXH hội là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đồng thời thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước. Đại hội IX của Đảng đã hình
2
thành định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước là: “tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường…” [42, tr.89]. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định nhiệm vụ: “Xây dựng hệ thống
ASXH đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến
tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc
làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ
cao…” [43, tr.102]. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng
chỉ rõ: “phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm ASXH, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu,
vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm” [44, tr.181].
Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã bước vào
nhóm nước “đang phát triển có thu nhập trung bình” và tiếp tục đẩy mạnh
“cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “…phát triển kinh
tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ
vững ổn định chính trị - xã hội” và “ Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều
kiện chăm sóc sức khỏe nhân dân” [44, tr.188-189]. Bảo đảm ASXH trở thành
một trong những vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, là mục
tiêu và động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội XHCN ở nước ta.
Với quan điểm đó, từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm
xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống các chính sách xã hội, coi đây vừa là
mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ thống pháp luật và chính sách ASXH
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Diện thụ hưởng chính sách ngày càng
mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát triển các lĩnh vực xã
3
hội ngày càng lớn, được tăng cường từ ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã
hội khác. Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm
nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp
người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, cơng tác gia đình và bình đẳng giới. Ðời
sống vật chất và tinh thần của người có cơng, người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lịng tin của nhân dân và sự ổn định
chính trị - xã hội. Nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc
gia đi đầu trong việc thực hiện một số Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém
kéo dài, chậm được khắc phục. Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững,
tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có cơng cịn
thấp. Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; vệ
sinh, an tồn thực phẩm chưa được kiểm sốt chặt chẽ. Tỷ lệ người tham gia
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp. Ðời sống của một bộ phận người có
cơng, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cịn rất khó khăn, chưa bảo
đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở và sử
dụng nước sạch. Chênh lệch các chỉ số về ASXH giữa miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước cịn lớn…
Là một tỉnh nằm ở phía Đơng Bắc Thủ đơ Hà Nội, đang trong q trình
đơ thị hóa nhanh, cùng với những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế, Bắc
Ninh cũng có nhiều vấn đề đặt ra trong lĩnh vực xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, việc thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn tỉnh trong những năm
qua đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân tỉnh và các cấp ủy, chính quyền địa phương đã có nhiều chủ trương, chính
sách, chương trình, đề án cụ thể hóa việc thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về bảo đảm ASXH như mở rộng các đối tượng tham gia
BHXH, BHYT; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm và nâng
4
cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân; coi trọng công tác đào tạo nghề, giải
quyết việc làm cho người lao động, thực hiện tốt chế độ đối với người có
cơng và các đối tượng chính sách khác như: quan tâm thực hiện tốt các phong
trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia
đình có cơng với nước, người cao tuổi, người già cô đơn, trẻ mồ côi, cơ nhỡ,
người khuyết tật… Đặc biệt, tỉnh đã tạo được nguồn lực để mở rộng các đối tượng
thụ hưởng chính sách ASXH cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước…
Tuy nhiên, cùng với khó khăn chung, việc thực hiện chính sách ASXH
trên địa bàn Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể: tạo việc làm và giảm
nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo cịn có nguy cơ sảy ra;
mức trợ cấp ưu đãi người có cơng và trợ cấp xã hội còn thấp; chất lượng giáo
dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng cơng tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với
người nghèo; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao; tỷ lệ người tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp; đời sống của một bộ phận người có
cơng, người nghèo vẫn cịn khó khăn….
Xuất phát từ thực tế nêu trên, học viên chọn vấn đề “Tỉnh ủy Bắc Ninh
lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay” làm
đề tài luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, với mong muốn góp phần nhỏ bé trong việc làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách ASXH ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
An sinh xã hội là đề tài thu hút sự nghiên cứu của nhiều học giả trong và
ngoài nước trong những năm gần đây. Đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu về đề tài này đã được công bố, như:
2.1. Sách, đề tài khoa học
- “Giáo trình an sinh xã hội” của Nguyễn Văn Định (2008), Nxb Đại
học kinh tế Quốc dân.
5
- “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”,
của Đinh Công Tuấn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008.
- “Nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh trên đường đổi mới”
của Trần Văn Túy, Nxb Thống kê Hà Nội tháng 8-2008.
- “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam” của GS,TS Mai Ngọc Cường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- “Lý thuyết và mơ hình an sinh xã hội(Phân tích thực tiễn ở Đồng Nai)”
của nhóm tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền,
Nguyễn Anh Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- “Nơng nghiệp, nông dân, nông thôn trong đổi mới ở Việt Nam- Một số
vấn đề Lý luận và thực tiễn” của Tô Huy Rứa. Tạp chí Cộng sản số 794 -tháng
12-2008.
- “Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Hải Hữu -Chuyên đề 8
-báo cáo đánh giá 20 năm đổi mới, Hà Nội tháng 4-2006.
- “Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội với nơng dân nước ta hiện
nay” của Nguyễn Hữu Dũng. Tạp chí Cộng sản số 794, tháng 12-2008.
- “Việc làm cho hộ nông dân thiếu đất sản xuất, vấn đề và giải pháp”
của Bùi Ngọc Thanh. Tạp chí Cộng sản, tháng 12-2009.
- “Góp phần đổi mới và hồn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta
hiện nay” của Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến. Nxb Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội 1996.
- “Giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư sau khi
Nhà nước thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp tập trung tại Bắc Ninh trong
những năm tới”. Đề tài khoa học cấp tỉnh do Vũ Đức Quyết làm chủ nhiệm.
2.2. Các bài báo khoa học
- “Tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững nông nghiệp và nông
thôn” của Vũ Trọng Hồng, Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 10-2008.
- “Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) trên lĩnh vực
lao động, thương binh và xã hội” của Nguyễn Thị Kim Ngân, Tạp chí Cộng
sản số 795 tháng 1-2009.
6
- “Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Đỗ
Văn Quân (2009), Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 1, tháng 3-2009.
- “Hệ thống an sinh xã hội và chính sách đối với cán bộ, công chức” của
ThS Bùi Xuân Dự, Thông tin Những vấn đề lý luận phục vụ lãnh đạo số 8 (42009);
- “Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và định
hướng phát triển của Nguyễn Hữu Dũng”, Tạp chí ĐHQGHN, số 26, năm 2010.
- “Vai trị của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với an sinh
xã hội của đất nước” của Lê Bạch Hồng, Tạp chí Cộng sản số 2-2010;
- “15 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế góp phần bảo
đảm an sinh xã hội đất nước” của Hồng Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2010;
- “Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một
nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020” của
Nguyễn Tấn Dũng, Tạp chí Cộng sản tháng 9-2010;
-“Về chính sách an sinh xã hộitrọng điểm của Trung Quốc” của Bùi Sỹ
Lợi, Thông tin những vấn đề chính trị - xã hội số 48 (11-2010).
2.3. Luận văn, luận án
- “An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Mai Ngọc Anh: Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2009.
- “Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh”, Luận án tiến sĩ kinh tế của
nghiên cứu sinh Nguyễn Tiến Nhường, 2010.
Có thể khẳng định, các cơng trình, đề tài, bài viết nêu trên đã đề cập đến
vấn đề an sinh xã hội ở nhiều góc độ và các tiếp cận khác nhau để phục vụ
mục đích của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình, đề tài nào nghiên
cứu một cách cụ thể, có hệ thống về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với việc thực
hiện chính sách ASXH.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
7
Trên cơ sở làm rõ những cơ sở lý luận liên quan đến đề tài, đánh giá
thực trạng Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH trong
những năm qua; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng, luận văn đề xuất phương
hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy
Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách ASXH đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến sự lãnh đạo của Tỉnh
ủy Bắc Ninh đối với việc thực hiện chính sách ASXH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đời sống, ASXH ở tỉnh Bắc Ninh và thực
trạng Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH từ năm 2005 đến
năm 2012; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng, rút ra những kinh nghiệm cần thiết.
- Dự báo những thuận lợi, khó khăn, đề xuất mục tiêu, phương hướng và
những giải pháp lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh
đối với thực hiện chính sách ASXH.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH
của Tỉnh ủy Bắc Ninh (bao gồm các chính sách: bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y
tế; bảo hiểm thất nghiệp: trợ giúp xã hội; chính sách đối với người có cơng;
chính sách xóa đói, giảm nghèo) từ năm 2005 đến năm 2012. Phương hướng
và giải pháp đề xuất đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
8
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Đảng và xây dựng Đảng nói
chung, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, trong đó có
những quan điểm về lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng ASXH và sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách ASXH.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng
thời sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lịch sử, logic; điều tra,
khảo sát; thống kê, so sánh; trao đổi, tổng kết thực tiễn…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với việc thực hiện chính sách ASXH.
- Góp phần đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh
đối với việc thực hiện chính sách ASXH; chỉ rõ nguyên nhân, rút ra những
kinh nghiệm từ thực tiễn.
- Đề xuất các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
và các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với việc
thực hiện chính sách ASXH trên địa bàn đến năm 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy, chính quyền và các ngành
chức năng trên địa bàn đối với việc thực hiện chính sách ASXH.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy ở trường chính trị tỉnh Bắc Ninh và ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
10
Chương 1
TỈNH ỦY BẮC NINH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC NINH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN
SINH XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC NINH
1.1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và là cửa ngõ phía
Đơng Bắc của Thủ đơ Hà Nội. Bắc Ninh có địa giới hành chính tiếp giáp với
các tỉnh: phía Bắc tiếp giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đơng Nam tiếp giáp tỉnh Hải
Dương, phía Nam tiếp giáp tỉnh Hưng Yên và phía Tây tiếp giáp với Thành
phố Hà Nội. Theo số liệu thống kê năm 2012 tỉnh Bắc Ninh có diện tích tự
nhiên 822,7km2 với tổng dân số 1.079.913 người.
Vùng đất trù phú nơi đây khi xưa vốn là “xứ Kinh Bắc”, nổi tiếng với nhiều
làng nghề và các lễ hội dân gian phong phú diễn ra hàng năm. Vào năm 1822, xứ
Kinh Bắc được Nhà Nguyễn đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng 10-1962,
theo Nghị quyết của Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỉnh Bắc Ninh
sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đó “Bắc Ninh” chỉ cịn là tên
của một đơn vị hành chính trong tỉnh Hà Bắc và có tên gọi là Thị xã Bắc Ninh.
Ngày 06-11-1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa IX, kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết tái lập tỉnh Bắc Ninh, theo đó Bắc
Ninh hoạt động theo địa giới hành chính mới từ ngày 01-01-1997 với 08 đơn
vị hành chính trực thuộc: gồm 06 huyện, 01 thành phố và 01 thị xã (huyện
Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong, Gia Bình, Lương Tài, Thuận Thành, thành phố
Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn); toàn tỉnh có 126 xã, phường, thị trấn (trong đó
100 xã, 16 phường, và 10 thị trấn). Dân số năm 2012 là 1.079.913 người
(trong đó dân số sống ở nơng thơn 797.564 người, chiếm 73,8%); mật độ dân số
trung bình 1.313 người/km2.
11
Bắc Ninh ở vị trí thuận lợi về giao thơng đường bộ và đường không. Các
tuyến đường huyết mạch: Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường sắt
Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Quảng Ninh nối liền Bắc Ninh với các trung tâm
kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam, với cảng
hàng không quốc tế Nội Bài và liên thông với hệ thống các trục đường quốc
lộ đến với mọi miền trong cả nước.
Bắc Ninh không giàu về tài ngun khống sản và cũng ít tài ngun rừng,
nhưng vơ cùng phong phú về tài nguyên nhân văn. Đây là một trong những miền
quê “địa linh nhân kiệt”, một trong những nơi hội tụ nhiều nhất các di tích lịch
sử, văn hóa. Tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu, các loại hình nghệ thuật dân gian
gắn liền với các lễ hội, các làng nghề truyền thống. Đặc biệt, các làn điệu dân ca
quan họ đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi cùng với các cơ chế và giải pháp phát triển
kinh tế hợp lý, Bắc Ninh đã và đang khai thác các tiềm năng hiện có của tỉnh
để trở thành một trung tâm kinh tế- văn hóa phụ trợ, một thành phố vệ tinh
quan trọng cho Hà Nội và là một điểm nhấn trong tam giác kinh tế trọng điểm
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Nơi đây vừa là thị trường tiêu thụ, vừa là
khu vực cung cấp nguồn nhân lực, sản phẩm nông sản, vật liệu xây dựng,
hàng thủ công mỹ nghệ… cho các tỉnh thành trong vùng đồng bằng Sông
Hồng và các vùng lân cận. Cùng với việc khai thác lợi thế của các làng nghề
thủ cơng truyền thống, Bắc Ninh đang có nhiều chính sách thu hút đầu tư, mở
rộng về quy mơ sản xuất, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm tạo
thành các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công
nghiệp làng nghề nhằm cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại
chỗ, trong nước và xuất khẩu. Song song với việc phát triển công nghiệp, Bắc
Ninh đang tập trung khai thác hiệu quả diện tích đất nơng nghiệp- nguồn tài
ngun đất chiếm hơn 60% tổng diện tích tự nhiên- bằng việc hình thành và
phát triển các vùng cây, con có giá trị thương mại theo hướng chuyên canh.
Tỉnh đang từng bước đưa chăn ni trở thành một ngành chính tạo nguồn
12
nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản, góp phần làm thay
đổi diện mạo nơng thơn theo hướng hiện đại hóa.
Với mục tiêu phát triển tồn diện, Bắc Ninh luôn chú trọng vào việc
phát triển con người và các vấn đề xã hội, nâng cao trình độ dân trí và mức
sống của nhân dân. Phát huy truyền thống cần cù, khéo léo, năng động sáng
tạo của người dân Kinh Bắc, nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng lao động, kỹ
năng giao tiếp cho lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi
mới, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy là tỉnh có diện tích nhỏ nhất vùng đồng bằng Sơng Hồng và cũng
là tỉnh có diện tích và dân số nhỏ nhất so với cả nước, nhưng Bắc Ninh có tốc
độ tăng trưởng GDP bình qn hàng năm đạt 15,1%, là tỉnh đứng tốp đầu của
cả nước và đứng thứ hai các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Về môi trường đầu tư, chỉ số năng lực cạnh tranh (CPI) cấp tỉnh năm
2008 của Bắc Ninh là 59,57, đứng thứ 16 trong số 63 tỉnh, thành trên toàn
quốc, đến năm 2012 chỉ số CPI là 62,26 đứng thứ 10 toàn quốc và là tỉnh dẫn
đầu đồng bằng Bắc Bộ và khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nhiều tập đồn
cơng nghiệp lớn như Canon, Nippon Steell, Nikon Seiki, Sumsung, Sentec,
Nokia… đã đầu tư, mở cơ sở sản xuất tại Bắc Ninh.
Nhờ phát huy những lợi thế về vị trí địa lý của tỉnh và những truyền thống
nhân văn tốt đẹp, kết hợp với việc chủ động tìm tịi và khai thác những cơ hội
phát triển, Bắc Ninh đang từng bước khẳng định vị thế của mình trong khu vực
đồng bằng Sơng Hồng nói riêng và cả nước nói chung.
Trong những năm qua kinh tế Bắc Ninh liên tục tăng trưởng với tốc độ
cao, tổng sản phẩm giai đoạn 2005 - 2010 tăng bình qn 15,1%/năm, trong
đó giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18,3%; thương mại- dịch vụ tăng 19,1%;
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 1,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh
theo hướng tích cực: tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng từ 47,1% năm 2005
lên 64,8% năm 2010, dịch vụ giảm từ 27,2% xuống còn 24,2%; tỷ trọng nơng
nghiệp giảm từ 25,7% xuống cịn 11% [36, tr.15].
13
Đến năm 2012, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 77,82%, dịch vụ
16,57%; nông lâm và thủy sản 5,61% (thời điểm tách tỉnh năm 1997 tỷ trọng
3 khu vực này tương ứng là 23,8% - 31,2%- 40,5%). Cơ cấu GDP theo thành
phần kinh tế năm 2012: kinh tế nhà nước là 14%; kinh tế ngoài nhà nước là 51%,
kinh tế đầu tư nước ngoài là 33,9% (năm 1997 cơ cấu tương ứng là 25,8% 72,6% -1,6%). GRDP bình quân đầu người năm 2012 đạt 3.211 USD, gấp 10,9
lần năm 1997 và 6,1 lần năm 2005.
Cơ cấu lao động có nhiều biến động theo hướng giảm lao động ngành
nông nghiệp tăng tỷ lệ lao động cho công nghiệp, dịch vụ. Trong tổng số
616.798 lao động của toàn tỉnh, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 51%; lao
động ở khu vực nông thôn chiếm 74,57%; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động
khu vực nông thôn chiếm hơn 80,5%.
Cơ cấu nhân lực theo trình độ chun mơn kỹ thuật chuyển dịch theo
hướng khá tích cực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, tỷ trọng người
lao động chưa qua đào tạo trong thành phần lao động tham gia các ngành kinh
tế quốc dân giảm dần, người lao động qua đào tạo các trình độ và đặc biệt là
người lao động có trình độ từ đại học trở lên tăng cao với tốc độ tương đối
nhanh. Tỷ lệ người lao động chưa qua đào tạo giảm dần từ 76% năm 2005
xuống còn 67% năm 2010 và năm 2012 chỉ còn 49%;
Ngay sau ngày tái lập, tỉnh đã chú trọng quan tâm tới công tác quy hoạch
đô thị đến nay đã hồn thành quy hoạch tổng thể các khu đơ thị trong tồn
tỉnh và định hướng khơng gian các tuyến đường quốc lộ đi qua tỉnh. Cùng với
việc trên đã tiến hành quy hoạch các thị trấn, thị xã, thành phố theo hướng
hiện đại. Trong hơn 15 năm qua tỉnh đã nâng cấp thị xã Bắc Ninh lên thành
phố loại 3 (1-2006), huyện Từ Sơn lên thị xã (tháng 9-2008), đang tập trung
xây dựng một số thị trấn lên đô thị loại 4 như: phố mới (Quế Võ), thị trấn Chờ
(Yên Phong), nâng cấp một số xã lên phường như: Võ Cường, Vạn An, Vân
Dương, Hạp Lĩnh (thành phố Bắc Ninh) và xây dựng hàng chục khu đô thị
mới ở các huyện, thị xã, thành phố. Những kết quả đó đã góp phần tạo cho
Bắc Ninh bộ mặt đơ thị khang trang và có nhiều khởi sắc được nhân dân và
14
bạn bè xa gần ghi nhận. Nhưng điều đặc biệt hơn là đã đóng góp quan trọng
cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng thương
mại- dịch vụ, công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, nhất là những thành tựu về phát triển
kinh tế đã góp phần khơng nhỏ để Bắc Ninh thực hiện tốt các chính sách ASXH,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.
1.1.2. Tỉnh ủy Bắc Ninh - đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
1.1.2.1. Khái quát về Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX về việc điều
chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, ngày 1-1-1997, tỉnh Bắc Ninh được tái
lập và hoạt động theo địa giới hành chính mới trên cơ sở chia tách tỉnh Hà Bắc
thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 5 đảng bộ
huyện là: Yên Phong, Thuận Thành, Gia Lương, Tiên Sơn, Quế Võ và Đảng bộ
thị xã Bắc Ninh; 3 đảng bộ trực thuộc là: Đảng bộ Công an, Đảng bộ Quân sự,
Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh.
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh là Đảng bộ có truyền thống yêu nước và cách
mạng, là q hương của các đồng chí Ngơ Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng
Quốc Việt, Lê Quang Đạo và nhiều lãnh đạo tiền bối khác của Đảng... Đảng
bộ có trên 4 vạn đảng viên đã được rèn luyện, thử thách và ngày càng trưởng
thành trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là
những thuận lợi hết sức cơ bản để Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh tập trung lãnh đạo
các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh.
Từ khi tái lập Tỉnh đến nay, Đảng bộ Tỉnh Bắc Ninh đã qua 04 kỳ Đại hội.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV được tiến hành từ
ngày 14 đến ngày 17-10-1997, Đại hội đã bầu 39 đồng chí tham gia Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 20012005 được tiến hành trọng thể từ ngày 3 đến ngày 5-1-2001. Đại hội đã bầu
45 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
15
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 20052010 được tiến hành trọng thể từ ngày 14 đến ngày 16-12-2005. Đại hội đã
bầu 49 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 20102015 được tiến hành trọng thể từ ngày 23 đến ngày 25-09-2010. Đại hội đã
bầu 53 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Hiện nay đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 46.871 đảng viên (tính đến 30 -112012), được tổ chức thành 12 đảng bộ trực thuộc, bao gồm 8 đảng bộ các
huyện, thành phố, thị xã; 01 đảng bộ Quân sự; 01 đảng bộ Công an; 01 đảng
bộ khối các cơ quan; 01 đảng bộ khối doanh nghiệp. Tổng số có 603 tổ chức
cơ sở đảng; có 1.873 chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở. Ban chấp hành đảng bộ
khóa XVIII có 53 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 14 đồng chí.
Kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên năm 2012 có: tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh 72,9%; tổ
chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiêm vụ 15,2%; tổ chức cơ sở đảng hoàn
thành nhiệm vụ 5,5%; tổ chức cơ sở đảng yếu kém 1,2%; đánh giá, phân loại
chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở: chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 81,8%; chi bộ
hoàn thành tốt nhiệm vụ 12,6%; chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 5,3%; chi bộ yếu
kém 0,3% (Phụ lục số 17).
Trong 5 năm, từ năm 2008 – 2012, toàn đảng bộ kết nạp được 6.478
đảng viên mới, trong đó năm 2012 kết nạp 1.436 đảng viên; tuổi đời bình
quân của đảng viên mới được kết nạp là 30,2 tuổi. Tuy cán bộ trẻ đã được
chú trọng, song tuổi bình qn tồn đảng bộ cịn khá cao: 48,6 tuổi.
1.1.2.2. Đặc điểm, vị trí, vai trị của Tỉnh ủy Bắc Ninh
- Đặc điểm :
Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh có 53 đồng chí, trong đó nữ có 04 đồng
chí chiếm 7,5%; cán bộ trẻ dưới 40 tuổi là 5 đồng chí chiếm 9,4%. Trình độ
đội ngũ tỉnh ủy viên ngày càng được nâng lên: về trình độ chuyên mơn : tiến
sĩ 09 đồng chí chiếm 16,98% ; thạc sĩ 20 đồng chí, chiếm 37,73%; đại học 24
16
đồng chí, chiếm 45,28%; về trình độ lý luận : 100% các đồng chí trong BCH
đảng bộ tỉnh có trình độ cao cấp hoặc cử nhân về chính trị. Đai đa số các đồng
chí tỉnh ủy viên là người địa phương, trưởng thành từ cơ sở.
Ban Thường vụ gồm 14 đồng chí, trong đó trình độ Tiến sĩ có 04 đồng
chí, chiếm 28,57%; trình độ Thạc sĩ 04 đồng chí, chiếm 28,57% ; đại học 06
đồng chí, chiếm 42,85%. Về trình độ lý luận: 100% các đồng chí trong Ban
Thường vụ Tỉnh ủy có trình độ cao cấp hoặc cử nhân về chính trị.
- Vị trí, vai trị của Tỉnh ủy Bắc Ninh
Là cơ quan, hạt nhân lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ đại hội,
Tỉnh ủy Bắc Ninh đã lãnh đạo phát huy tốt truyền thống quê hương, truyền
thống cách mạng và truyền thống của mỗi đảng bộ, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo
toàn diện các nhiệm vụ chính trị đặt ra, phát huy tốt vai trị là hạt nhân lãnh đạo
của hệ thống chính trị. Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của
cấp ủy, chính quyền các cấp, sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong tỉnh, đời sống nhân dân đã có nhiều đổi thay; Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân
dân vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ và giành được những thành tựu toàn
diện, rất đáng trân trọng; đó là nền tảng vững chắc và là điều kiện thuận lợi để
tiếp tục phát huy, đẩy mạnh sớm hồn thành sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa, đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành một tỉnh phát triển nhanh và bền vững. Vai trò
to lớn và quan trọng về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với những thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng của Đảng bộ Tỉnh đã được thực tiễn chứng minh. Đường lối
đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã được Tỉnh ủy
quán triệt, cụ thể hóa và lãnh đạo nhân dân vận dụng, tổ chức thực hiện đạt nhiều
thắng lợi trên thực tiễn. Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy là nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; những thành tựu
và yếu kém ln gắn liền với vai trị, trách nhiệm của Tỉnh ủy và những ưu,
khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh,
đặc biệt là lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH, Tỉnh ủy Bắc Ninh tiếp thu
17
các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước để lãnh đạo tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, biến chủ trương,
đường lối, định hướng đó thành hiện thực. Tỉnh ủy tổ chức động viên, huy
động tiềm năng, sức người, sức của để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, các
chương trình, mục tiêu, định hướng đã đề ra.
Là cấp trên trực tiếp của các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố và tương
đương, Tỉnh ủy có vai trị và trách nhiệm to lớn trong việc lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH. Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng
suốt và kịp thời của Tỉnh ủy là nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của Đảng bộ tỉnh. Nâng cao chất lượng lãnh đạo của Tỉnh ủy trong giai
đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, hội nhập, nhất là năng lực
lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã hội là một nhiệm vụ bức thiết trọng tâm.
1.1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh ủy Bắc Ninh
- Chức năng của Tỉnh ủy
Chức năng chủ yếu của Tỉnh ủy Bắc Ninh cũng như các tỉnh, thành ủy
trực thuộc Trung ương đó là lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị đối với
tồn bộ hệ thống chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh. Là cơ quan lãnh đạo của
đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ đại hội, Tỉnh uỷ lãnh đạo đảm bảo cho các hoạt động
xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp của tỉnh có chất lượng và hiệu quả; đảm bảo cho
các lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh phát triển theo đúng đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ là việc đề ra chủ trương, quyết định, cụ thể
hoá các chủ trương, quyết định đó, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám
sát các tổ chức đảng, đảng viên trong thực hiện các chủ trương, quyết định
của tỉnh uỷ và sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm, kể cả việc kiểm tra,
giám sát việc chuẩn bị ra quyết định và ban hành quyết định.
18
Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xã hội có đặc điểm riêng, mỗi tổ
chức lại có chức năng nhiệm vụ khác nhau. Sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với
từng tổ chức, từng lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung và phương thức khác
nhau. Bởi vậy, cùng xuất phát từ nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất của
cơng việc, đặc điểm cụ thể để xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phù
hợp. Chức năng lãnh đạo của Tỉnh uỷ là sự lãnh đạo chính trị, tức là Tỉnh uỷ
lãnh đạo các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu bằng các chủ
trương, nghị quyết, quyết định, định hướng; lãnh đạo bằng công tác kiểm tra,
giám sát của Tỉnh ủy đảm bảo cho các hoạt động của các tổ chức, lĩnh vực đó
theo đúng định hướng XHCN; tỉnh uỷ khơng can thiệp quá sâu, không bao
biện làm thay công việc cụ thể của các tổ chức, mà lãnh đạo phát huy vai trò,
chủ động, sáng tạo của các tổ chức và đội ngũ cán bộ đảng viên của mình hoạt
động trong các tổ chức đó để hoạt động đạt kết quả cao.
Giai đoạn hiện nay, việc lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội trở thành
nhiệm vụ trung tâm, chủ yếu và quan trọng nhất của Đảng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với Tỉnh ủy Bắc Ninh, một trong những
chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội hiện nay đó là hướng mạnh vào lãnh đạo đẩy mạnh CNH, HĐH phấn
đấu đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020.
- Nhiệm vụ của Tỉnh ủy Bắc Ninh
Điểm 1, Điều 19, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội lần thứ XI quy
định “Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành
uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên” [45, tr.32]. Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Trung
ương, Tỉnh ủy Bắc Ninh có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo Đảng bộ và nhân dân
trong tỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh; bảo đảm phát triển
kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phịng - an ninh; xây dựng đảng, chính quyền,
19
mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh; lãnh đạo chính
quyền làm tốt chức năng quản lý nhà nước theo pháp luật. Thể hiện thông qua
các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chủ trương, định hướng, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể nhân dân vững mạnh; chuẩn bị và ra các nghị quyết
chuyên đề trên từng lĩnh vực, cụ thể hóa đến từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, đồng thời lãnh đạo đạt hiệu qủa trên thực tiễn.
+ Lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân tỉnh, các đảng bộ trực thuộc triển khai thực hiện các
nghị quyết của tỉnh uỷ, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh về phương hướng,
nhiệm vụ, mục tiêu, các biện pháp lớn về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Lãnh đạo các ban tham mưu và các cơ quan
chức năng triển khai thực hiện các nghị quyết của tỉnh uỷ về công tác xây
dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể nhân dân.
+ Quán triệt và lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc của
Đảng và Nghị quyết đại biểu Đảng bộ tỉnh; các chương trình hành động, kế
hoạch thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ
đến các đảng bộ trực thuộc. Tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các
nghị quyết, quyết định của Trung ương, của tỉnh về cán bộ và công tác cán bộ
tại địa phương. Triệu tập đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh; chuẩn bị văn kiện đại
hội và dự kiến nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ và các chức
danh chủ chốt của Tỉnh khoá mới.
+ Lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ
luật và hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ; của các tổ chức đảng, đảng
viên trong các đảng bộ trực thuộc và những đảng viên là cán bộ thuộc diện
Tỉnh uỷ quản lý.
20
1.1.3. Chính sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh - quan niệm, vai trò
1.1.3.1. Quan niệm về an sinh xã hội và chính sách an sinh xã hội
- Quan niêm về an sinh xã hội
An sinh xã hội (Social security) luôn được coi là một trong những vấn đề cốt
lõi của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử
cụ thể có quan niệm khác nhau đối với sự phát triển hệ thống ASXH. Có thể khái
quát một số cách tiếp cận chủ yếu về ASXH trên thế giới như sau:
Theo Otto Von Bismack (1815 -1898): ASXH được thực hiện dựa trên trụ cột
là Bảo hiểm xã hội gắn với yếu tố lao động. Chế độ bảo hiểm xã hội được áp dụng
bắt buộc với một mức lương cụ thể, mức đóng góp và mức trả bảo hiểm xã hội
được tính căn cứ vào tiền lương và được quản lý bởi các đối tác xã hội.
Theo W.H.L. Beveridge, nhà kinh tế và xã hội học người Anh (18791963): ASXH là sự đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc và
đảm bảo một lợi tức khi người ta khơng cịn sức làm việc nữa. Những người
theo trường phái này quan niệm, hệ thống ASXH hoạt động dựa trên ba
nguyên tắc: bao phủ toàn diện (mọi người lần đầu được hưởng ASXH), mức
chi trả tương đương và quản lý tập trung, thống nhất.
Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ, ASXH được hiểu là sự đảm bảo của
xã hội nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho
con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.
Trong Hiến chương Đại Tây Dương, ASXH được hiểu là sự đảm bảo
thực hiện quyền con người trong hịa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di
chuyển, phát triển chính kiến trong khuôn khổ pháp luật; được bảo vệ và bình
đẳng trước pháp luật; được học tập, làm việc và nghỉ ngơi; có nhà ở; được
chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh
sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già,...
Theo Ngân hàng thế giới (WB): ASXH được xây dựng trên mơ hình
quản lý rủi ro xã hội. Triết lý của mơ hình này là mọi cá nhân, mọi gia đình,
21
mọi cộng đồng đều phải chịu những rủi ro nhất định do thiên tai hay những
biến động trong đời sống kinh tế - xã hội gây ra. Chính những rủi ro này là
nguyên nhân gây ra nghèo khổ. Người nghèo là những người chịu nhiều rủi ro
nhất so với các thành phần xã hội khác và ít có điều kiện tiếp cận các công cụ
và phương tiện cho phép họ đối mặt với rủi ro. Vì vậy, cần xây dựng cơ chế
ASXH dành cho người nghèo để hạn chế tình trạng bấp bênh của họ, tạo cho
họ các phương tiện để thoát nghèo. Theo quan điểm mới dựa trên khái niệm
quản lý rủi ro, hệ thống ASXH được hiểu là tồn bộ các chính sách nhà nước
nhằm giúp đỡ các cá nhân, các gia đình và các nhóm xã hội quản lý các rủi ro
của mình và cung cấp hỗ trợ cho những người nghèo khổ nhất.
Cùng với cách tiếp cận về ASXH như trên, chúng ta còn thường gặp trên
sách báo trong và ngoài nước các cách tiếp cận khác về phạm trù có liên quan.
Có thể nêu một số cách tiếp cận sau đây:
Thứ nhất, khái niệm "Trợ giúp xã hội" (Social Assistance). Trợ giúp xã
hội được dùng gần với phạm trù ASXH. Sự khác nhau cơ bản giữa ASXH và
trợ giúp xã hội là sự trợ giúp xã hội sử dụng phần lớn nguồn tài chính từ ngân
sách nhà nước. Trong hoàn cảnh của Việt Nam, thuật ngữ trợ giúp xã hội được
dùng để chỉ những trợ giúp từ nguồn ngân sách nhưng không bao gồm các đối
tượng bảo trợ xã hội và cứu trợ xã hội.
Thứ hai, khái niệm "Phúc lợi xã hội" (Social Welfare). Phúc lợi xã hội
trong một số trường hợp là khái niệm để chỉ những chính sách mang tính xã
hội dùng tiền từ ngân sách nhà nước để phục vụ miễn phí cho các thành viên
trong cộng đồng, xã hội. Ví dụ, các khoản chi từ ngân sách nhà nước trực tiếp
cho người dân về giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...
Thứ ba, khái niệm "Cứu trợ xã hội" (Social Relief). Đối tượng của cứu
trợ xã hội là những người gặp rủi ro vì những nguyên nhân khách quan như
thiên tai, dịch bệnh... Về khái niệm này, định nghĩa và phạm vi, đối tượng áp
dụng ở Việt Nam tương đối thống nhất với quốc tế.
Thứ tư, khái niệm "Lưới an toàn xã hội" (Social Safety Nets). Khái niệm
này là để chỉ các chính sách mang tính an tồn - ngắn hạn, áp dụng trong
22
những hồn cảnh và thời điểm nhất định chứ khơng mang tính an sinh - dài
hạn, nghĩa là khơng áp dụng thường xuyên và lâu dài. Nó chỉ đóng vai trò bảo
vệ cuối cùng, đảm bảo cho thành viên trong xã hội khơng bị rơi xuống mức
mà xã hội đó cho là khơng an tồn, nhưng chỉ mang tính chất tạm thời chứ
không thể bám vào lưới lâu dài. Người được bảo vệ phải được trả trở lại với
những chế độ mang tính lâu dài và ổn định.
Lưới an tồn xã hội ở một số nước ASEAN áp dụng gồm 4 cấu phần cơ
bản sau: (1) đảm bảo an ninh lương thực, tránh để xảy ra nạn đói; (2) đảm bảo
giáo dục không bị ngắt quãng do ảnh hưởng về tài chính của khủng hoảng; (3)
đảm bảo những yêu cầu tối thiểu về chăm sóc y tế; (4) chính sách tạo việc làm
và thu nhập thay thế tạm thời cho những người bị mất việc do khủng hoảng.
Thứ năm, khái niệm về "Bảo vệ xã hội" (Social Protection). Theo ILO thì
bảo vệ xã hội là khái niệm rộng bao gồm hệ thống bảo hiểm xã hội, những
nhu cầu cơ bản của ASXH về giáo dục tiểu học, chỗ ăn ở (tối thiểu), nước
sinh hoạt, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Hiện nay, theo ILO,
khái niệm bảo vệ xã hội còn bao gồm cả nội dung về an tồn lao động.
Ở nước ta, phạm trù ASXH cịn khá mới mẻ và có nhiều cách hiểu
khác nhau. Khái niệm này lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi bàn về
giải quyết những vấn đề xã hội, Văn kiện viết: “Từng bước mở rộng vững
chắc hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo
hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân...“ [42, tr.212]. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục làm rõ: “Đổi mới hệ
thống bảo hiểm xã hội, đa dạng hóa hình thức bảo hiểm và phù hợp với
kinh tế thị trường; xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện tốt chế
độ bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh lao động” [ 43, tr.216]. Đại
hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng đã nhấn mạnh: “Thực
hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ASXH trong từng
bước và từng chính sách phát triển”, Đại hội xác định:
23
Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y
tế, Bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh
hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất
là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc rủi
ro trong cuộc sống. Tăng tỷ lệ người lao động tham gia các hình
thức Bảo hiểm [44, tr.184].
Là một khái niệm mới, nên trong giới học giả trong nước cịn có những ý
kiến khác nhau. Một số tác giả đặt vấn đề ASXH theo nghĩa rộng hơn quan
niệm của ILO.
Chẳng hạn, tác giả Bùi Thế Cường viết: “hệ thống ASXH mở rộng và
phát triển theo tiến trình lịch sử, nó phụ thuộc vào động thái các nhu cầu xã
hội thiết yếu của con người và biến đổi cơ cấu xã hội”. Ngày nay, người ta
thường kể ra một số vấn đề chủ chốt của hệ thống ASXH như dân số và gia
đình, đào tạo nghề nghiệp và công ăn việc làm, thu nhập và các cơ cấu đảm
bảo tiêu dùng của dân cư, giáo dục và chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm và trợ
giúp xã hội, mơi trường.
Theo Hồng Chí Bảo viết trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đề tài KX 02,
02/2006-10: ASXH là sự an toàn của cuộc sống con người, từ cá nhân đến
cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho sự phát triển của con người và xã hội.
ASXH là những bảo đảm xã hội cho con người tồn tại (sống) như một con
người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân tính trong hoạt
động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang nhân cách.
ASXH bao hàm trong nó cả những đảm bảo về an ninh để con người sống,
làm việc, thực hiện được những nhu cầu, lợi ích chính đáng, hợp lý của mình
trong qúa trình phát triển; con người nhận được từ xã hội những bảo đảm về
cuộc sống, những bảo vệ trước những rủi ro, bất trắc, những tình huống bất
thường đe dọa hoặc phá hủy trạng thái bình n, quyền sống và sự thu hưởng
lợi ích của họ. Với cách hiểu như thế, tác giả cho rằng, các vấn đề của ASXH
có thể được hình dung với 4 phương diện hợp thành trong cơ cấu nội dung
24
của nó là: xóa đói giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; trợ cấp xã hội; ưu đãi xã hội;
và phúc lợi xã hội.
Bên cạnh đó, trong một số bài viết khác, mặc dù chưa đưa ra khái niệm
cụ thể nhưng cũng có xu hướng thiên về thừa nhận định nghĩa ASXH của ILO
để phân tích ASXH ở Việt Nam.
Theo tác giả Mạc Văn Tiến: theo tiếng Anh, ASXH thường được gọi là
Social Security và khi dịch ra tiếng Việt, ngoài ASXH thì thuật ngữ này cịn
được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã hội, an tồn xã hội,...
với những ý nghĩa khơng hồn tồn tương đồng nhau. Theo nghĩa chung nhất,
Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền con người được sống trong
hịa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khn
khổ pháp luật; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có
việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh
sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già... theo nghĩa này thì tầm bao phủ của
Social Security rất lớn và vì vậy, khi dịch ra tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên
cũng là điều dễ hiểu. Theo nghĩa hẹp, Social Security là sự đảm bảo thu nhập và
một số điều kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị
giảm hoặc mất thu nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ em mồ cơi, người tàn tật, người nghèo
đói và những người bị thiên tai địch họa.
Từ đó tác giả cho rằng: về cấu trúc trên giác độ khái quát nhất, ASXH
gồm những bộ phận cơ bản là: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, trợ cấp gia
đình; các chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội khác bằng nguồn vốn cộng
đồng [84, tr.26].
Tổng hợp các ý kiến trên về ASXH, chúng ta có thể thấy, ASXH là khái
niệm mở có thể tiếp cận phạm trù này dưới hai giác độ là theo nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, ASXH là sự đảm bảo thực hiện các quyền để con
người được bình an, an ninh, an tồn và an khang trong xã hội. Điều đó có
25
nghĩa là họ được sống trong hịa bình; được bảo vệ về thân thể và nhân cách;
được bình đẳng trước pháp luật; được hịa nhập vào cộng đồng; được có cơng
ăn việc làm, có nơi cư trú, có quyền đi lại, học tập để cho họ phát triển đầy đủ
nhân cách và tài năng của một con người trong xã hội, được hưởng phúc lợi
do xã hội mang lại; được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sinh sống
thiết yếu khi mất sức lao động, lúc già yếu hoặc bị rủi ro, tai nạn trước sự biến
động do kinh tế, tự nhiên, xã hội mang lại hoặc cho những người nghè, người
già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, những người yếu thế...
Theo nghĩa hẹp, ASXH là sự đảm bảo thu nhập và một số điều kiện thiết
yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm hoặc mất thu
nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho
những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế,
những người bị thiên tai địch họa,...Cách tiếp cận theo nghĩa hẹp này phù hợp
với cách tiếp cận của ILO.
Bản chất của ASXH là tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp cho
tất cả các thành viên xã hội trong trường hợp bị giảm, bị mất thu nhập hay gặp
phải những rủi ro khác.
- Quan niệm về chính sách an sinh xã hội:
Đến nay, cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP) chưa đưa ra một khái
niệm cụ thể nào về chính sách ASXH. Trong báo cáo “khn khổ xây dựng hệ
thống ASXH tổng thể ở Việt Nam” do các chuyên gia (Patricia Jusino, 1996)
của UNDP đưa ra trong hội thảo khoa học năm 2005 tại Việt Nam, thì ASXH
bao gồm 3 thành tố quan trọng đó là: Bảo hiểm xã hội; Trợ giúp xã hội; Trợ
cấp xã hội. Theo cách phân tích của các chun gia của UNDP thì Bảo hiểm y
tế, Bảo hiểm thất nghiệp được ghép chung vào hợp phần Bảo hiểm xã hội.
Từ các tài liệu khác nhau cho thấy chính sách ASXH là một khái niệm
động, nó có thể thay đổi theo thời gian và theo không gian, theo điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội chung của thế giới và từng nước, khu vực.