Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng hóa xuất nhập khẩu ở hải quan việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 84 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán
trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia
độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là
thuế quan (Customs duty). Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là công cụ rất quan
trọng để mỗi nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao
hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn lịch
sử và điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với
nhiều mục tiêu khác nhau.
Trong giai đoạn khoảng 10 năm gần đây thuế xuất khẩu, nhập khẩu vẫn
là nguồn thu quan trọng cho ngân sách của Việt Nam, trung bình, chiếm
khoảng 15-20% thu ngân sách khơng bao gồm thu từ dầu thơ. Ngồi ra cơng
cụ thuế xuất khẩu, nhập khẩu còn được sử dụng nhằm quản lý doanh nghiệp ở
tầm vĩ mô, bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng người tiêu dùng,…
Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu không những chỉ ảnh hưởng đến
nguồn thu của ngân sách nhà nước mà còn là vấn đề đạo đức ảnh hưởng đến
kinh tế, xã hội. Khi công cụ quản lý bằng thuế giảm tính hiệu lực khơng cịn
phát huy tác dụng của nó sẽ cịn làm ảnh hưởng đến quan hệ thương mại trong
và ngoài nước. Đặc biệt, đối với Việt nam hiện nay hiện tượng chuyển giá hay
khai thuế suất thấp các nguyên liệu nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi (FID) khơng những làm thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
mà còn cả thuế nội địa và tạo sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh
nghiệp cũng là một vấn đề rất nóng.


Hiện nay, tình trạng thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng trở
nên tinh vi hơn thông qua nhiều hình thức gian lận về số lượng, chủng loại,
chất lượng, thuế suất, trị giá khai báo, xuất xứ... Việc này xuất phát một phần


từ quá trình hội nhập quốc tế của Hải quan Việt Nam để thúc đẩy sự phát triển
theo hướng hiện đại, áp dụng những chuẩn mực và thông lệ tiên tiến của hải
quan thế giới. Để thực hiện các cam kết quốc tế như tham gia khối mậu dịch
tự do các nước ASEAN, tham gia công ước HS về phân loại hàng hóa xuất
nhập khẩu, tham gia Hiệp định trị giá GATT/WTO để xác định trị giá hàng
hóa xuất nhập thì bắt buộc Việt Nam phải tn thủ các quy định của các tổ
chức, hiệp hội hoặc các hiệp định trên. Trong khi đó, việc nội luật hóa các
cam kết quốc tế, phương thức triển khai thực hiện các quy trình, quy chế
nghiệp vụ, đặc biệt là sự phối kết hợp giữa các ngành, trong nội bộ ngành Hải
quan còn chưa tốt.
Trong những hành vi gian lận gây thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
như việc khai thấp trị giá tính thuế, lợi dụng các chính sách ưu đãi về xuất xứ
hàng hóa hay gian lận về thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì gian lận qua
việc phân loại, áp mã thuế hàng hóa nhập khẩu vào mã số có thuế suất thấp là
nhiều nhất và gây thất thu lớn nhất. Theo số liệu thống kê của Trung tâm Phân
tích phân loại- Tổng cục Hải Quan, trong hai năm 2011, 2012, Trung tâm đã
tiến hành tiếp nhận khoảng 25.000 yêu cầu phân tích phân loại mặt hàng xuất
nhập khẩu. Kết quả phân loại đã làm thay đổi khoảng 50% mã số hàng hóa
theo khai báo của chủ hàng. Trong đó, thay đổi theo hướng tăng thuế suất
khoảng 18,9%; theo hướng giảm thuế suất khoảng 7,5%; còn lại là đổi mã số
nhưng không đổi thuế suất khoảng 23,5%. Hoặc theo kết quả kiểm tra sau thông
quan của hải quan, năm 2012 đã tiến hành kiểm tra 2569 cuộc kiểm tra trong đó
phát hiện vi phạm về mã số hàng hóa là 726 vụ (chiếm hơn 28%), đề nghị truy
thu 196 tỷ đồng do sai phạm qua mã số hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.


Chính vì vậy ngày 21/12/2011, Bộ Tài chính ra chỉ thị 05/CT-BCT với
nội dung: “Thực hiện thường xuyên việc rà soát, kiểm tra áp dụng thuế suất
đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu để hướng dẫn áp dụng thống nhất
từ khâu dự toán đến khâu thực hiện thu, khơng để xảy ra tình trạng áp dụng

mức thuế suất khác nhau đối với cùng mặt hàng gây thất thoát nguồn thu ngay
từ khâu dự toán” nhằm tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác chống thất
thu ngân sách tập trung vào việc xác định thuế suất.
Trên cơ sở đó việc thực hiện đề tài: Thất thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu qua mã số hàng hóa xuất nhập khẩu ở Hải quan Việt Nam có ý nghĩa
về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nội dung thất thu thuế cũng như liên quan đến các vấn đề quản lý thu
thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã được một số đề tài nghiên cứu trước đây như:
- Đề tài: “Một số giải pháp về quản lý chống thất thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Luận án thạc sĩ của Phan Duy
Bình, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000.
- Đề tài: “Các giải pháp tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu trong tiến trình gia nhập AFTA của Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của
Nguyễn Danh Hưng, Học viện Tài chính năm 2003.
- Đề tài: “Đổi mới quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của
ngành Hải quan hiện nay”, Luận án thạc sĩ của Trần Thành Tơ, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2006.
- Đề tài: “Hồn thiện cơ chế quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu ngành Hải quan”, Luận văn thạc sỹ kinh tế của Dương Phú Đông, Đại
học Kinh tế Quốc dân năm 2008;
- Đề tài: “Quản lý thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn", Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thu Hương, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2010.


Các đề tài trên có đề cập ở mức độ nhất định về công tác quản lý thuế,
chống thất thu thuế nói chung và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói riêng.
Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua
mã số hàng hóa xuất nhập khẩu ở Hải quan Việt Nam hiện nay thì chưa có

cơng trình khoa học nào dưới dạng luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ về đề tài
này được cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích làm rõ bản chất việc thất thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu qua mã số khai báo hàng hóa xuất nhập khẩu là như thế nào, từ đó
đánh giá thực trạng việc thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng
hóa xuất nhập khẩu và đưa ra các giải pháp nhằm chống thất thu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, vai trò, tác động của thất thu thuế xuất nhập khẩu,
từ đó nêu ra các nhân tố ảnh hưởng đến chống thất thu thuế xuất nhập khẩu.
- Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn về chống thất thu của một số nước
trên thế giới.
- Đánh giá thực trạng việc thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số
hàng hóa xuất nhập khẩu trong thời gian qua, đưa ra các nguyên nhân và
những vấn đề bức xúc cần giải quyết.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chống thất thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu qua mã số hàng hoá xuất nhập khẩu trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thất thu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng hóa xuất nhập khẩu cùng những quan hệ
kinh tế xã hội có liên quan tới thực trạng trên.


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu việc thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã
số hàng hóa xuất nhập khẩu tại Hải quan Việt Nam.

Thời gian: từ năm 2008 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lich sử. Để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử
dụng các phương pháp truyền thống của kinh tế chính trị Mác Lênin như trừu
tượng hóa khoa học, lơ gíc gắn với lịch sử cùng các phương pháp hệ thống
hoá, thống kê, so sánh, tổng hợp, phân tích nhằm tiếp cận đối tượng nghiên
cứu một cách có hệ thống.
Luận văn kết hợp nghiên cứu lý luận chung có liên quan đến thuế xuất
khẩu, nhập khẩu; tổng kết kinh nghiệm chống thất thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu qua mã số hàng hóa của một số nước trên thế giới.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Đánh giá thực trạng công tác thu và thất thu thuế xuất khẩu, nhập
khẩu qua mã số hàng hóa xuất nhập khẩu, đưa ra nguyên nhân và giải pháp có
tính khả thi nhằm tăng số thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu cho Việt Nam trong
thời gian tới và tạo cơng bằng trong kinh doanh hàng hố xuất nhập khẩu.
- Có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà xây dựng chính sách
thuế, cán bộ quản lý, thực thi liên quan đến cơng tác tính thuế, thu thuế xuất
khẩu, nhập khẩu trong ngành hải quan.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Việc nghiên cứu, đánh giá tình trạng thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
qua mã số hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ở Hải quan Việt Nam có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Là cơ sở để nhà nước ban hành những chủ trương chính sách
về thuế xuất khẩu, nhập khẩu phù hợp với quá trình xây dựng và phát triển đất


nước trong từng thời kỳ. Đồng thời, đề ra những giải pháp có hiệu quả trong
cơng tác chống thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói chung và chống thất
thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng hóa nói riêng trong giai đoạn
tới đây.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày thành 3 chương, 9 tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẤT THU THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU QUA MÃ SỐ HÀNG HÓA TẠI VIỆT NAM
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Thất thu thuế
Thất thu thuế là một hiện tượng thực tế khách quan vốn có của bất
kỳ hệ thống thuế khố nào. Nó phản ánh hai mặt của một vấn đề: lợi ích
của nhà nước và lợi ích của người nộp thuế. Trên thực tế thì hai lợi ích này
thường mâu thuẫn với nhau, nhà nước ln có khuynh hướng tăng nguồn
thu từ thuế, trong khi đó người nộp thuế ln mong muốn càng giảm số
thuế phải nộp càng nhiều càng tốt. Hay nói cách khác, ở đâu có thuế khố
thì ở đó có thất thu.
Thất thu thuế biểu hiện, diễn biến rất đa dạng và phức tạp tuỳ theo điều
kiện của nền kinh tế - xã hội của một quốc gia, song có thể khái quát hóa
thành hai dạng là thất thu thực tế và thất thu tiềm năng.
Thất thu thực tế, có nghĩa là có nhiều khoản thu được quy định rõ ràng
trong các luật thuế, song do nhiều nguyên nhân số tiền đó khơng được tập
trung vào ngân sách nhà nước đúng quy định. Thất thu tiềm năng, bao hàm cả
trường hợp “lách thuế” có nguyên nhân từ kẽ hở của luật pháp hoặc sự bng
lỏng quản lý, có nghĩa là thực tế có nhiều nguồn thu cần thiết phải động viên
vào ngân sách nhưng lại khơng thu được, vì chưa có quy định của luật pháp.
Trên thực tế, thất thu thuế là một vấn đề khó giải quyết triệt để bởi đặc
tính mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và của người nộp thuế. Tuy nhiên,
chúng ta vẫn có những giải pháp để giảm thiểu tình trạng này. Để hạn chế thất

thu thì cần có một chính sách thuế và phương thức quản lý phù hợp với tình
hình phát triển của nền kinh tế, đảm bảo hài hoà lợi ích kinh tế giữa nhà nước


và người nộp thuế. Ngược lại, có thể nói nguyên nhân gây thất thu bắt nguồn
từ một chính sách thuế và phương thức quản lý không phù hợp với sự phát
triển của nền kinh tế.
1.1.2. Đặc điểm của thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
1.1.2.1. Khái niệm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thường có tên gọi chung là thuế quan
(Custom duty). Đây là loại thuế mà các nước sử dụng đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu tại cửa khẩu nhằm huy động nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, bảo hộ sản xuất và can thiệp vào hoạt động ngoại thương, buôn bán trao
đổi hàng hóa giữa các quốc gia. Vai trị của thuế xuất khẩu, nhập khẩu đều có
nét tương đồng với các loại thuế gián thu khác. Tuy nhiên, sự xuất hiện của
thuế xuất khẩu, nhập khẩu lại bắt nguồn từ yêu cầu điều chỉnh sự vận động
của hàng hóa giữa các quốc gia có chủ quyền, nó là một bộ phận trong chính
sách kinh tế đối ngoại của mỗi nước, nên thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng có
những nét riêng về mặt nội dung, vai trò, cũng như cách thức hành thu. Thông
qua việc quy định mức thuế suất cụ thể đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu thể hiện chính sách khuyến khích hoặc bảo hộ sản xuất trong nước, huy
động nguồn thu cho ngân sách nhà nước và kiểm sốt hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu.
1.1.2.2. Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu có thể được hiểu đơn giản là số
lượng thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải được nộp vào ngân sách nhà nước theo
luật định nhưng thực tế là bị chiếm dụng bởi các tổ chức, cá nhân có hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu chiếm dụng. Để hiểu rõ hơn về khái niệm thất thu thuế
ta có các giả thiết sau:
- T: là tổng số thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp cho nhà nước

- Ti: là số thuế xuất khẩu, nhập khẩu loại hàng hóa i phải nộp cho nhà nước.


- Qi: là tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu loại i.
- Pi: là trị giá tính thuế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu loại i.
- ti: thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu ứng với mỗi đơn vị hàng hóa
loại i.
Ta có:

Ti= Pi*Qi*ti;

T= ∑Ti

Nếu gọi T’ là tổng số thuế xuất khẩu, nhập khẩu thực tế thu được cho
ngân sách nhà nước thì: T - T’ = k.
Khi đó k được gọi là số thất thu thuế. Như vậy, số thất thu thuế là chênh
lệch giữa số thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp vào ngân sách với số thực tế
thu được.
Thực tế, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng như các chính sách
thuế hầu như khơng tính được hết những khoản phát sinh về thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trong nền kinh tế. Do vậy, số thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ
bao gồm cả khoản thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu tiềm năng của nền kinh
tế đáng lẽ được nộp vào nguồn thu của ngân sách nhà nước nhưng lại không
được huy động.
Việc khơng tính đến tiềm năng của nền kinh tế là luôn tồn tại ở mỗi
quốc gia do nền kinh tế ln ln vận động và biến đổi. Điều này nói lên khả
năng hoạch định chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu của từng quốc gia.
Nếu hoạch định tính tới yếu tố này và dự trù được chính xác thì khả năng thất
thu sẽ thấp hơn. Do vậy, để hạn chế tình trạng thất thu cần có q trình hoạch
định chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu khoa học chính xác để giảm biên

độ dao động của nền kinh tế so với dự tính.
Qua đó, ta có thể đưa ra khái niệm thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
như sau: Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là những khoản thuế về các hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu không được nộp đúng và đủ vào ngân sách nhà


nước và những khoản thu cần thiết phải động viên vào ngân sách nhưng lại
chưa được quy định trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
1.1.2.3. Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu
Theo công thức trên, thuế xuất khẩu, nhập khẩu của hàng hóa i được
xác định: Ti= Pi*Qi*ti. Như vậy, có ba nhân tố ảnh hưởng đến số thuế đó là
trị giá tính thuế, lượng hàng hóa và thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu của
hàng hóa i.
Việc cố ý hoặc vô ý áp sai mức thuế suất đáng nhẽ phải chịu của hàng
hóa loại i sẽ dẫn đến sai lệch số thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp. Nếu áp
mức thuế suất cao hơn mức thuế suất phải nộp thì ngân sách nhà nước sẽ tăng
thu, nhà nước là người được hưởng lợi và ngược lại nếu áp mức thuế suất
thấp hơn, đối tượng nộp thuế sẽ được hưởng lợi. Ngoài ra việc áp mức thuế
suất cao hơn mức thuế suất phải nộp dễ gây đến tâm lý bất bình và không tin
tưởng vào luật pháp của đối tượng nộp thuế. Sự việc này có thể gây ra tình
trạng cố tình tìm cách trốn thuế trong các lần xuất khẩu , nhập khẩu tiếp theo
và làm tăng tình trạng thất thu thuế. Trong thực tế, xảy ra cả trường hợp các
đối tượng nộp thuế tự áp mức thuế suất thấp hơn hoặc cao hơn so với mức
quy định của nhà nước. Hiện tượng này có thể được lý giải do việc phân loại,
áp mã hàng hóa và áp mức thuế suất cho hàng hóa XNK khơng hề đơn giản.
Khó khăn xuất phát từ chính sự phức tạp, đa dạng của hàng hóa và khơng phải
tất cả các nhà xuất nhập khẩu đều hiểu hết được về bản chất, thành phần, cơng
dụng của hàng hóa. Mặt khác, hệ thống những văn bản hướng dẫn, những quy
định về áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu (mã thuế của hàng hóa xuất khẩu,

nhập khẩu) để xác định thuế suất cũng phức tạp khơng kém. Để phân loại, áp mã
đúng hàng hóa XNK địi hỏi phải có những am hiểu nhất định về hàng hóa cũng
như có kiến thức, kinh nghiệm về phân loại, áp mã hàng hóa XNK.


Trường hợp đối tượng nộp thuế do vơ tình, hay cố ý tự khai báo mã số
thuế hàng hóa khơng đúng dẫn đến nộp mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập
khẩu thấp hơn quy định cũng như việc cơ quan hải quan khơng phát hiện
được hay cố tình áp lại mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu thấp hơn quy
định đều dẫn đến việc thất thu thuế.
Như vậy, thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu là khoản thuế bị thất thu do việc áp mức thuế suất thuế xuất
khẩu, nhập khẩu thấp hơn so với quy định của nhà nước.
1.1.2.4. Phân loại thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Phân loại theo nguyên nhân thất thu, ta có thất thu do nguyên nhân chủ
quan, có nghĩa là các khoản thất thu thuế phát sinh do đối tượng nộp thuế cố
tình trốn tránh nghĩa vụ thuế. Như khai sai chủng loại hàng hóa để được
hưởng mức thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu; kê khai trị giá tính thuế thấp
hơn giá trị thực thanh tốn; hàng hóa nhập khẩu để gia cơng hàng hóa cho
nước ngồi hoặc sản xuất hàng xuất khẩu nhưng kê khai định mức cao hơn
định mức tiêu hao thực tế, phần chênh lệch đem tiêu thụ nội địa không khai
báo với cơ quan hải quan; làm giả chứng nhận xuất xứ (C/O) để được hưởng
thuế suất ưu đãi thấp; lợi dụng chính sách ân hạn nộp thuế nhập khẩu, sau khi
nhập khẩu hàng hóa đã bỏ trốn…Thất thu do nguyên nhân khách quan, có
nghĩa là các khoản thuế bị thất thu do chịu sự tác động ngoài dự kiến của các
chính sách thuế hoặc do các lỗ hổng của chính sách thuế dẫn tới tranh chấp về
mã số thuế, trị giá tính thuế, các chính sách ưu đãi thuế giữa đối tượng nộp
thuế với cơ quan hải quan. Đặc biệt, đối với những hàng hóa chưa được định
danh cụ thể trong Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu hoặc những hàng hóa
khơng có các tiêu chí rõ ràng để xác định, phân biệt dẫn tới phát sinh số thuế

phải nộp bổ sung sau khi hàng hóa được thơng quan. Việc thay đổi chính sách


(điều chỉnh tăng thuế) đột ngột sau khi doanh nghiệp đã ký hợp đồng nhập
khẩu, mở thư tín dụng (L/C), hàng hóa đã bốc lên địa điểm làm thủ tục kiểm
tra hải quan, ký hợp đồng cung cấp cho các đơn vị trong nước cũng dẫn tới
phát sinh khoản tiền thuế ngồi dự kiến.
Theo tính chất của khoản thuế bị thất thu, có thể chia thành hai loại là
khoản thất thu có khả năng thu hồi và khoản thuế khơng có khả năng thu hồi.
Thất thu có khả năng thu hồi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao, do các
doanh nghiệp nợ thuế vẫn tiếp tục hoạt động bình thường; các khoản nợ chờ
xác định chính xác số thuế phải nộp hoặc số nợ nhỏ của các doanh nghiệp
chây ỳ, có thể giải quyết dứt điểm nếu tổ chức xử lý cương quyết; các khoản
nợ doanh nghiệp đã ký biên bản truy thu và cam kết nộp; …Khoản tiền thuế
thất thu khơng có khả năng thu hồi là các khoản thuế phải truy thu mà đối
tượng nộp thuế khơng có khả năng nộp thuế do các doanh nghiệp nợ thuế
khơng cịn nguồn vốn để nộp, doanh nghiệp giải thể, phá sản hoặc làm ăn thua
lỗ; khoản tiền thuế cơ quan hải quan khơng thể kiểm sốt được do doanh
nghiệp tự giải thể, bỏ trốn.
Cách thức phân loại thất thu thuế nhập khẩu cho chúng ta thấy mỗi loại
thất thu và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là rất
khác nhau. Việc phân loại thất thu thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý
và đề ra các biện pháp quản lý, thu hồi thuế nhập khẩu cho phù hợp.
1.1.3. Tác hại của thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thất thu thuế xuất nhập khẩu có thể ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh
tế của một quốc gia. Bởi thuế xuất nhập khẩu tác động mạnh vào nguồn thu
của ngân sách nhà nước, định hướng tiêu dùng, khuyến khích sản xuất trong
nước phát triển, định hướng quan hệ quốc tế và hoạt động ngoại thương. Dưới
đây sẽ xem xét tác động tiêu cực của thất thu thuế xuất nhập khẩu trên một số
phương diện, cụ thể:



1.1.3.1. Giảm thu ngân sách và quyền kiểm soát của chính phủ
Chi tiêu của chính phủ: Để thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế
trong nền kinh tế thị trường, chắc chắn chính phủ sẽ phải chi tiêu thường
xuyên hơn và ngày càng tăng. Các chi tiêu của chính phủ tập trung chính vào
việc đảm bảo an ninh, chủ quyền quốc gia, bảo vệ an toàn và trật tự xã hội và
đặc biệt là chi tiêu phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế quốc dân. Một phần quan trọng nhất của chi tiêu ngân sách nhà
nước là chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư khoa học công nghệ,
chi cho giáo dục đào tạo và nhiều hoạt động khác. Đối với các nước phát
triển, số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chiếm một tỷ trọng không
đáng kể (thường 1-5%) trong tổng thu ngân sách nhà nước. Do vậy, thất thu
thuế XNK không ảnh hưởng quá lớn đến chi tiêu của Chính phủ. Tuy nhiên, ở
các nước đang phát triển, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng
đáng kể trong tổng thu ngân sách và giữ vai trò quyết định đến chi tiêu của
Chính phủ. Ở Việt Nam, thuế xuất khẩu, nhập khẩu chiếm khoảng 15-20% thu
ngân sách trong khoảng những năm vừa qua. Do vậy, thất thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trong khi loại thuế này lại đóng góp phần lớn vào ngân sách chắc
chắn sẽ làm cho các khoản chi tiêu của chính phủ bị hạn chế, dẫn đến tình
trạng mất cân đối nguồn ngân sách. Từ đây, để đảm bảo chi tiêu, chính phủ
phải đi vay nợ trong dân, vay nợ nước ngồi nếu khơng sẽ bắt buộc phải cắt
giảm chi ngân sách. Điều này sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như lạm phát cao, kinh
tế trì trệ, mất ổn định và đôi khi dẫn đến lệ thuộc về kinh tế và chính trị đối
với các nước khác.
Suy giảm, thậm chí có thể mất kiểm sốt của chính phủ đối với một số
lĩnh vực của nền kinh tế: Thuế xuất khẩu, nhập khẩu ngoài việc quan trọng
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước cịn là cơng cụ của chính phủ giúp
kiểm soát hoạt động ngoại thương, thực hiện bảo hộ sản xuất trong nước,



khuyến khích sản xuất xuất khẩu. Khi tình trạng gian lận thuế xuất khẩu, nhập
khẩu trở lên phổ biến, thất thu lớn đồng nghĩa là sự điều tiết, định hướng nền
kinh tế của chính phủ khơng có hiệu quả. Chính sách thuế XNK không đem
lại hiệu quả như mong muốn hoặc mất tác dụng, chính phủ khơng thể kiểm
sốt được các hoạt động ngoại thương, và các chính sách của Chính phủ sẽ
khơng đem lại hiệu quả.
1.1.3.2. Mơi trường kinh doanh
Trước hết, thất thu thuế ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng
hóa trên thị trường nội địa. Tình trạng cùng một loại hàng hóa nhưng lại
được áp các mức thuế suất khác nhau gây đến việc giá thành của cùng một
loại mặt hàng được bán ở các địa điểm khác nhau với các mức giá khác
nhau, điều này làm giảm sự tin cậy của khách hàng về chất lượng của sản
phẩm. Khách hàng sẽ không biết tin là đâu là hàng nhập khẩu thật, đâu là
hàng nhái, hàng kém chất lượng. Hàng thật khơng bán được vì người tiêu
dùng nghĩ đó là hàng giả với giá bán cao, hàng giả cũng ngày càng ít người
sử dụng vì chất lượng kém. Kết quả là mặc dù thị trường nội địa rất đa
dạng về hàng hóa nhưng người tiêu dùng vẫn chuộng hàng xách tay hoặc
sang các thị trường khác để mua hàng.
Thứ hai, doanh nghiệp nào trốn được thuế nhập khẩu sẽ có điều kiện
bán giá thấp hơn hoặc chí ít nếu bán bằng giá sẽ có lợi nhuận cao hơn dẫn đến
sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh cùng một
loại mặt hàng. Đối với hàng hóa xuất khẩu cũng tương tự, doanh nghiệp nào
gian lận được thuế xuất khẩu sẽ có nhiều lợi nhuận hơn hoặc có thể thu mua
hàng xuất khẩu với giá cao hơn sẽ tạo cạnh tranh không lành mạnh giữa các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cùng một loại hàng hóa. Việc quản lý
lỏng lẻo của nhà nước gây thất thu thuế xuất XNK còn làm suy giảm niềm tin
của các doanh nghiệp vào hoạt động quản lý của các cơ quan quản lý nhà



nước dẫn đến tình trạng uy tín, coi thường các cơ quan này. Môi trường kinh
doanh không công bằng là một nhân tố quan trọng khiến các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu đi sai hướng kinh doanh và giảm sức hút đối với các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài. Nguy hiểm hơn là có những doanh nghiệp lợi dụng
điều này liên kết lại với nhau để chuộc lợi, làm lũng đoạn thị trường kinh
doanh trong nước.
Thứ ba, môi trường kinh doanh khơng tốt sẽ làm giảm đầu tư nước
ngồi vào nội địa đặc biệt đối với ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Nhà nước
khuyến khích các doanh nghiệp nước ngồi đầu tư, sản xuất trong nước cho
hàng hóa tiêu dùng cần thiết bằng cách đặt ra mức thuế nhập khẩu tương
đối cao đối với các loại hàng hóa trên (như đồ điện tử, điện lạnh, đồ nội
thất, quần áo, thường có mức thuế suất nhập khẩu từ 15-30%..). Lợi dụng
chính sách này, một số doanh nghiệp tìm cách “nhập lậu”, trốn phải nộp
mức thuế suất cao và núp bóng hàng ngoại “xách tay” giá rẻ cạnh tranh
trực tiếp với hàng của các doanh nghiệp sản xuất nước ngoài đặt tại nội địa.
Điều này vừa gây thất thu thuế lớn cho nhà nước vừa gây thiệt hại về kinh
tế cho các nhà đầu tư nước ngoài, suy giảm niềm tin vào các cơ quan quản
lý nhà nước. Nếu tình trạng này diễn ra thường xuyên, lâu dài chắc chắn
làm suy giảm niềm tin của các nhà đầu tư nước ngồi và có thể tạo ra sự rút
lui và tháo chạy của những nhà đầu tư muốn làm ăn chân chính và tạo cơ
hội cho những nhà đầu tư chụp dật. Vòng xoay này sẽ lại ngày càng làm ra
tăng sự mất cân đối, tạo ra môi trường kinh doanh không lạnh mạnh và tất
yếu dẫn đến việc suy giảm đầu tư.
Trên thực tế hiện nay đã có dấu hiệu cho thấy sự thất vọng về môi
trường kinh doanh ở Việt Nam và sức cạnh tranh đang gia tăng của các thị
trường khác trong khu vực. Theo khảo sát của Euro Charm, có tới 45% số
doanh nghiệp được khảo sát cho rằng các thị trường khác trong ASEAN là


điểm kinh doanh tốt hơn VN; trong khi đó có 37% cho rằng thị trường VN ở

mức trung bình và chỉ có 18% tin tưởng VN ở nhóm dẫn đầu.
1.1.3.3. Tác động đến công bằng xã hội
Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu ảnh hưởng đến công bằng xã hội.
Bởi thông qua thuế xuất khẩu, nhập khẩu, nhà nước sẽ huy động được một
phần nguồn thu của người kinh doanh hàng xuất nhập khẩu đồng thời tiến
hành các biện pháp quản lý vĩ mô đối với các hoạt động này. Các doanh
nghiệp kinh doanh những mặt hàng giống nhau thì phải nộp thuế như nhau,
như thế mới đảm bảo được tính cơng bằng trong nền kinh tế. Việc sử dụng
thuế XNK nhằm tạo mơi trường bình đẳng cho tất cả mọi đối tượng tham gia
hoạt động thương mại hơn so với sử dụng hạn ngạch XNK. Tuy nhiên, nếu
công tác quản lý khơng tốt dẫn đến tình trạng những mặt hàng giống nhau có
thuế suất khác nhau sẽ tạo bất bình đẳng, thiếu cơng bằng trong xã hội. Điều
này khơng khác gì với chính sách hạn ngạch XNK khi các cơng ty lâu năm có
quan hệ thân thuộc với chính phủ sẽ xin được hạn ngạch nhiều hơn.
Đặc biệt, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, với những ưu
điểm như tăng cường khả năng cạnh tranh, tạo tính độc lập tự chủ cho các đơn
vị thành phần kinh tế, tạo ưu thế cho người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản
phẩm ngày càng tốt hơn, chất lượng cao hơn, đa dạng phong phú hơn. Thì bên
cạnh nó cũng chứa đầy tính tiêu cực, đặc biệt làm cho người bị vật chất hóa,
chạy theo lợi nhuận có những nguồn thu nhập bất chính kếch xù, tạo ra sự
phân hóa ngày càng nhanh chóng người giàu và người nghèo trong xã hội,
gây bất bình đẳng ảnh hưởng đến trật tự an ninh quốc gia.
1.1.3.4. Phạm trù đạo đức
Bất cứ việc thực hiện một chính sách pháp luật nào cũng tồn tại những
tổ chức, cá nhân không chấp hành nghiêm túc. Với việc thi hành Luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng vậy, ln có các cá nhân vì lợi ích riêng mà
không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm túc. Thực tế, có nhiều cá


nhân phải đứng trước vành móng ngựa, kể cả doanh nghiệp và cả cán bộ của

cơ quan nhà nước, cấu kết với nhau gây thất thoát cho nền kinh tế. Đặc biệt,
các nhân viên hải quan- đối tượng trực tiếp tiếp xúc với doanh nghiệp xuất
nhập khẩu. Do vậy, việc phải giáo dục, trau dồi đạo đức cho cán bộ hải quan,
người trực tiếp tiếp xúc và có chức trách nhiệm vụ trong việc quản lý các hoạt
động xuất nhập khẩu là cần thiết và thường xuyên.
Đối với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, thực hiện nghiêm
túc nghĩa vụ nộp thuế là cách thể hiện văn hóa doanh nghiệp, tạo uy tín đối
với xã hội, trên thương trường và cơ hội hợp tác, kinh doanh sẽ ngày càng mở
rộng. Doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế là thực hiện tốt nghĩa vụ,
trách nhiệm với nhà nước, với xã hội và qua đó thể hiện đạo đức kinh doanh một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa doanh nghiệp. Hành động vừa
mang tính nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước vừa đảm bảo quyền lợi cho
doanh nghiệp, đồng thời đem lại các lợi ích cho người khác, cho đất nước, xã
hội, thì đó là hành động có đạo đức. Ngược lại, đạo đức kinh doanh địi hỏi
các doanh nghiệp đảm bảo lợi ích của nhà nước, thực hiện tốt các nghĩa vụ
đối với nhà nước - trong đó có nghĩa vụ thuế.
Tình trạng thất thu thuế xảy ra nhiều chứng tỏ lỗ hổng trong hệ thống
pháp luật cũng như chất lượng công tác tổ chức quản lý thu thuế của nhà nước
chưa tốt. Điều này có thể làm cho những doanh nghiệp có đạo đức kinh doanh
tốt, nộp thuế đúng, đủ bị tổn thất và thậm chí bị phá sản. Trong khi những
doanh nghiệp giỏi luồn lách, khơng có đạo đức kinh doanh tốt thì vẫn tồn tại
và phát triển.
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỐNG THẤT THU THUẾ XUẤT
KHẨU, NHẬP KHẨU QUA MÃ SỐ HÀNG HÓA

Thuế chiếm một tỷ trọng rất lớn trong ngân sách của mỗi quốc gia, do
vậy chống thất thu thuế là vấn đề luôn được quan tâm của tất cả các quốc gia.


Đối với các nước đang phát triển và kém phát triển, tỷ lệ thuế xuất nhập khẩu
đóng góp vào ngân sách nhà nước là rất lớn (ở Philipin là 22,4%, ở Băng La

Đét là 35,6%, Việt Nam dao động 15-20% trong giai đoạn 2008-2010) cho
nên chống thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một nhiệm vụ cực kỳ quan
trọng. Thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu qua mã số chính là số lượng thuế
khơng được nộp vào ngân sách nhà nước do việc khai báo, áp mã thuế hàng
hóa xuất khẩu, nhập khẩu có mức thuế suất thấp hơn so với quy định hoặc do
tác động ngoài dự kiến của chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Do vậy, để
chống thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu quả phải tìm ra đúng các
nhân tố ảnh hưởng, cản trở quá trình này. Tức là, tìm ra các nhân tố dẫn đến
việc phân loại áp mã hàng hóa sai, cũng như các sai sót khi xây dựng chính
sách xuất nhập khẩu.
1.2.1. Tính chất phức tạp của việc phân loại theo Hệ thống hài hịa
mơ tả và mã hóa hàng hóa
Hệ thống hài hịa mơ tả và mã hóa hàng hóa (HS) là một danh mục đa
mục đích được sắp xếp thành 21 phần và 96 chương. Trong đó nêu ra các
nguyên tắc phân loại, áp mã số hàng hóa XNK, danh mục mơ tả về tính chất,
thành phần, cấu tạo, công dụng và hệ thống mã số hàng. Theo đó, hàng hóa
thường được phân loại, áp mã theo bản chất của chúng (đôi khi phân loại theo
thành phần và mục đích sử dụng) và phù hợp với các quy tắc phân loại, các
chú giải, các quy định mang tính pháp lý của danh mục HS. Danh mục HS
được xây dựng để áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa nhưng lại khơng được
mơ tả một cách dễ hiểu, rõ ràng theo ngôn ngữ phổ thông sử dụng hàng ngày.
Sự mơ tả hàng hóa trong Danh mục HS mang tính kỹ thuật, học thuật và đơi
khi rất khó hiểu trừ các chuyên gia chuyên ngành. Ví dụ như từ “máy vi tính”
thường dùng trong thương mại được mơ tả và phân loại vào nhóm có tên gọi
là “Máy xử lý dữ liệu tự động” trong danh mục HS. Do vậy, để phân loại hàng


hóa chính xác ln cần thiết có sự trợ giúp kỹ thuật của các chuyên gia
chuyên ngành. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến
tình trạng phân loại, áp mã hàng hóa khơng chính xác. Thơng thường các

doanh nghiệp XNK mơ tả, áp mã hàng hóa theo cảm tính của họ và tất nhiên
sẽ lựa chọn mã số có thuế suất thấp nhất trong các mã số có thể. Kết quả này
dẫn đến đến việc thất thu thuế xuất nhập khẩu khi cơ quan hải quan khơng thể
kiểm tra hết hồ sơ hoặc hàng hóa.
1.2.2. Áp lực thời gian thơng quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Hiện nay, trong xu hướng hội nhập kinh tế đang đặt ra cho các cơ quan
hải quan những yêu cầu bức xúc. Ðó là phải thơng quan nhanh hàng hóa. Ðịi
hỏi này nhằm giúp doanh nghiệp giảm chi phí tiền bạc, thời gian, công sức và
nhất là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đảm
bảo thông quan nhanh nhưng vẫn phải đảm bảo kiểm tra, kiểm soát được
chặt chẽ, thu đúng thu đủ thuế cho nhà nước là hai chiều trái ngược nhau và
khó thực hiện. Để thực hiện được song song hai mục tiêu trên, hầu hết hải
quan các nước trên thế giới chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”. Tức là,
cho phép doanh nghiệp tự khai báo, tự chịu trách nhiệm về hàng hóa của
mình và hải quan sẽ căn cứ vào các thơng tin đó làm thủ tục cho thơng
quan hàng hóa mà khơng cần kiểm tra hồ sơ và hàng hóa. Hải quan sẽ kiểm
tra sau thông quan “hậu kiểm” nếu thấy cần thiết sau khi hàng hóa đã được
thơng quan và doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm thi hành các quyết định
kiểm tra sau thơng quan. Đây chính là kẽ hở có thể dẫn đến các hình thức
gian lận thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu qua mã số hàng hóa. Do áp
lực thời gian thơng quan (khoảng 10- 15 phút một lô hàng) nên việc kiểm
tra mã số hàng hóa theo khai báo của doanh nghiệp chắc chắn sẽ khơng thể
đảm bảo chính xác. Mặt khác, lợi dụng chính sách này nhiều doanh nghiệp
sẽ cố tình khai sai, gian lận thuế qua mã số vì biết chắc chắn rằng cơ quan


hải quan không thể kiểm tra sau thông quan hết số lượng hàng hóa được
thơng quan mà chưa kiểm tra trước đó.
1.2.3. Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước,
khuyến khích xuất khẩu

Ở mỗi quốc gia, ở mỗi giai đoạn phát triển, tuỳ vào chiến lược của từng
thời kỳ mà nhà nước đề ra chính sách thuế phù hợp để có thể khuyến khích
xuất khẩu, hoặc nhập khẩu. Nhất là đối với các nước có nền kinh tế chưa phát
triển, các doanh nghiệp cịn non trẻ thì việc bảo hộ sản xuất là rất cần thiết
ngay cả khi tự do hố thương mại tăng lên thì những lĩnh vực cơ bản của nền
kinh tế vẫn cần được bảo hộ. Bảo hộ tạo cơ sở cho các doanh nghiệp trong
nước có thời gian để học hỏi kinh nghiệm, khoa học công nghệ của nước
ngồi, cải thiện tình hình sản xuất của mình, nâng cao khả năng cạnh tranh
với các mặt hàng khác.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ thường được Chính phủ sử
dụng để để điều tiết các hoạt động xuất nhập khẩu, để bảo hộ sản xuất trong
nước và khuyến khích xuất khẩu qua việc định ra một mức thuế suất hợp lý.
Bảo hộ tức là đặt mức thuế suất nhập khẩu thấp với các linh kiện, nguyên phụ
liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc khơng có và mức thuế suất cao đối
với các loại hàng hóa trong nước đã sản xuất được. Tuy nhiên việc này khơng
hề đơn giản, vì các dịng thuế (mơ tả hàng hóa) phải thực theo quy định của
HS, khơng tự tiện thêm vào được. Nếu khơng tính tốn kỹ thì ngồi việc gây
thất thu thuế cịn khơng đạt được mục đích bảo hộ sản xuất trong nước. Ví dụ,
chính phủ muốn ưu đãi cho mặt hàng “Xe oto trọng tải trên 50 tấn phù hợp sử
dụng trong hầm mỏ” để khuyến khích cho cơng nghiệp khai thác mỏ, sẽ chi
tiết thêm dòng thuế này trong Biểu thuế XNK và để ở mức thuế suất 0%; các
loại ô tô tải khác để ở mức thuế suất 50%. Tuy nhiên, do loại xe này cũng có
thể được sử dụng vận chuyển trong các cơng trình khai thác đá, cơng trình xây


dựng khác. Do đó, các nhà nhập khẩu sẽ nhập các loại loại xe ô tô dùng trong
hầm mỏ để hưởng ưu đãi thuế và bán ra ngoài thị trường. Điều này vừa gây
thất thu thuế cho nhà nước vừa khơng quản lý được việc khẩu mặt hàng này.
Do đó, bảo hộ khơng đi đơi với kiểm tra, kiểm sốt hoặc bảo hộ không đúng
sẽ gây thất thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu.

Bên cạnh đó thuế xuất nhập khẩu cịn có tác dụng khuyến khích sản
xuất trong nước phát triển. Bởi từ chính sách bảo hộ mà tạo mơi trường thuận
lợi cho các doanh nghiệp trong nước, ít cạnh tranh hơn, thị phần trong nước
nhiều hơn. Các doanh nghiệp có cơ hội hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường
có động lực hơn để sản xuất kinh doanh. Tạo cho doanh nghiệp một thời gian
chuẩn bị trước khi bước vào cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
1.2.4. Yêu cầu thu ngân sách nhà nước
Khi ngân sách bị thiếu hụt, chính phủ sẽ đánh thuế nhập khẩu cao vào
hàng hóa nhập khẩu đặc biệt là hàng tiêu dùng và hạn chế các trường hợp
được ưu đãi miễn thuế, giảm thuế. Chính sách này dẫn đến sự gia tăng về gian
lận trốn thuế và bn lậu dưới mọi hình thức do kích thích các doanh nghiệp
dùng mọi biện pháp để trốn thuế vì lợi nhuận thu được là rất cao (do mức thuế
suất cao). Đặc biệt, gian lận qua mã số sẽ tăng lên nhiều vì đây là hình thức
gian lận khó bị phát hiện nhất do sự phức tạp, đa dạng của hàng hóa cũng như
tỷ lệ bị cơ quan hải quan phát hiện ra là thấp nhất. Mặt khác, khi thuế suất
cao, nhu cầu sử dụng sẽ giảm đi dẫn đến số lượng hàng hóa nhập khẩu giảm
và số lượng thuế thu được cũng sẽ giảm. Do vậy, phải cân nhắc và tính tốn
kỹ khi dùng biện pháp tăng mức thuế suất để tăng ngân sách.
1.2.5. Năng lực và đạo đức của cán bộ hải quan
Để phân loại, áp mã hàng hóa xuất nhập khẩu chính xác địi hỏi các cán
bộ hải quan làm công tác phân loại, áp mã hàng hóa ngồi việc hiểu biết về
các quy định về phân loại, áp mã cần phải có những kiến thức, hiểu biết nhất


định về hàng hóa. Đó là những hiểu biết về hóa chất, dược phẩm, về y tế, điện
tử, cơ khí,.. ví dụ như phân loại mặt hàng điện tử mà không biết được nguyên
tắc hoạt động, kết cấu mạch điện, cơng dụng thì chắc chắn sẽ khó có thể phân
loại chính xác. Do đó, nếu trình độ về phân loại, áp mã cũng như các kiến
thức chuyên ngành của cán bộ hải quan không thường xuyên được đào tạo,
cập nhật thì rất khó phát hiện sự khai báo sai của doanh nghiệp. Hơn nữa, do

sự phát triển khoa học công nghệ nên hàng hóa liên tục được cải tiến, kết hợp
và liên tục được làm mới nên các hình thức về gian lận trốn thuế qua mã cũng
liên tục phải được cập nhật cho những cán bộ hải quan mới đảm bảo được yêu
cầu về công việc. Đạo đức của cán bộ hải quan cũng là một vấn đề rất quan
trọng, nếu hải quan thông đồng, bắt tay với các doanh nghiệp để trốn thuế
hoặc tư vấn cho doanh nghiệp “lách thuế” qua các chính sách thuế, các quy
định thì việc phát hiện, ngăn chặn không hề đơn giản.
1.2.6. Lợi nhuận của doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp hoạt động với mục đích đầu tiên và cơ bản
nhất là lợi nhuận. Chính yếu tố này sẽ khiến nhiều doanh nghiệp có thể bất
chấp nguy hiểm để thu được lợi nhuận cao. Nếu hình phạt khơng đủ sức răn
đe, sự kiểm tra giám sát của các cơ quan bảo vệ pháp luật không nghiêm sẽ là
điều kiện để các hành vi gian lận, trốn thuế xảy ra thường xuyên hơn. Việc
phân loại, áp mã đúng hàng hóa xuất nhập khẩu là một việc khó đối với cả hải
quan và doanh nghiệp nên họ thường lợi dụng việc này để khai báo hàng hóa
ở mức có thuế suất thấp. Theo quy định hiện hành của Luật Thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, hành vi cố ý hoặc vô ý trốn thuế sẽ chịu các mức phạt khác
nhau. Nếu xác định là hành vi vơ ý trốn thuế thì chỉ bị truy thu số thuế còn
thiếu, nhưng nếu xác định được là hành vi cố ý thì ngồi việc bị truy thu thuế
cịn bị xử phạt với mức từ 1-3 lần số thuế còn thiếu. Việc xác định hành vi
trốn thuế qua mã số là vơ tình hay cố ý là rất khó và mang tính áp đặt nên


doanh nghiệp thường chọn cách thức trốn thuế xuất nhập khẩu qua mã số.
Đây chính là nhân tố lớn nhất cản trở quá trình chống thất thu thuế xuất khẩu,
nhập khẩu.
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ CHỐNG THẤT THU THUẾ
XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU QUA MÃ SỐ HÀNG HÓA XUẤT KHẨU,
NHẬP KHẨU


1.3.1. Kinh nghiệm của Hải quan Mỹ
Để thuận lợi cho doanh nghiệp, cán bộ hải quan trong việc xuất nhập
khẩu hàng hóa cũng như tránh thất thu thuế xuất nhập khẩu, Hải quan Mỹ
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, xây dựng hệ thống Biểu thuế quan của Hợp chủng quốc Hoa
kỳ (Harmonized Tariff Shedule - HTS ) mới từ năm 1989 theo như khuyến
nghị của WCO. Hệ thống này được rất nhiều nước trong khu vực sử dụng.
Hầu hết, các mức thuế đưa ra đều được tính theo phương pháp tỷ lệ phần trăm
trị giá hàng nhập khẩu. Riêng hàng nơng sản và hàng chế xuất thì thuế được
tính theo phương pháp tuyệt đối (thuế tính theo số lượng hàng nhập khẩu).
Một số hàng thì chịu cả hai loại đánh thuế trên. Cách đánh thuế như vậy tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý cũng như tránh gian lận trốn thuế đối
với những loại hàng hóa khó xác định giá trị nhập khẩu thực như nông sản,
hải sản, thịt,..
Hai là, ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, nâng cao chất lượng việc
thống kê hàng hóa và nâng cao hệ thống đánh giá mức độ rủi ro đối với
từng loại nhóm hàng. Hải quan Mỹ đã xây dựng thành công hệ thống cơ
sở dữ liệu phong phú và đặc biệt đây là một hệ thống mở, dễ dàng tra cứu
trên mạng internet. Hệ thống này được cập nhật thường xuyên, khi cần
tìm kiếm một mặt hàng bất kì người sử dụng chỉ cần điền tên mặt hàng đó
vào ơ Search, sau đó kết quả sẽ cho thấy một loạt các quan điểm phân loại


của các mặt hàng tương tự như mô tả mà người sử đụng đưa ra. Cơ sở dữ
liệu này bao gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, từ đơn giản đến phức tạp,
đồng thời cũng có những giải thích, trích dẫn các quy tắc, điều luật phân
loại cụ thể.
Ba là, hệ thống tra cứu trực tuyến này thực sự hữu dụng cho nhiều đối
tượng. Tại các nơi trực tiếp làm thủ tục thơng quan hàng hóa, các cán bộ hải
quan địa phương có thể tra cứu sau đó so sánh với mã số doanh nghiệp khai

báo, giảm thiểu việc sai lệch mã số. Hơn nữa, các cán bộ hải quan cũng có
thể tham khảo các quy tắc và căn cứ phân loại đi kèm để giải thích cho các
doanh nghiệp. Điều này tránh được các khiếu nại, kiện cáo không đáng có
cũng như giúp doanh nghiệp hiểu hơn về việc phân loại hàng hóa, tránh sai
phạm trong những lần xuất nhập khẩu tiếp theo. Ngồi ra, việc khơng hạn
chế đối tượng truy cập vào hệ thống cũng tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu tra cứu, tham khảo các quan điểm phân loại
liên quan tới mặt hàng họ dự tính xuất khẩu, nhập khẩu, tránh việc vơ tình
khai báo sai mã số thuế.
Trên thực tế, có rất nhiều hệ thống tra cứu mã số hàng hóa tương tự
như của Mỹ tại các quốc gia khác. Tuy nhiên, hệ thống của Mỹ được đánh
giá là một trong những hệ thống thuận tiện, đầy đủ và mức độ cập nhật
thường xuyên nhất.
Trong khi thực hiện các quy định của Hải quan, doanh nghiệp Mỹ còn
thường xuyên liên hệ và trao đổi thông tin với cơ quan Hải quan để nhận được
những hướng dẫn chính xác nhất liên quan đến hoạt động nhập khẩu hàng hố
nói chung và xác định mã số thuế hàng hóa nói riêng.
1.3.2. Kinh nghiệm của Hải quan Ấn Độ
Bên cạnh những giải pháp phổ biến trên thế giới để giảm thiểu tình
trạng thất thu thuế qua mã số hàng hóa. Ấn Độ có một số giải pháp riêng


trong việc đơn giản hóa thủ tục cũng như tránh sai phạm về khai báo mã số.
Để thuận lợi và đơn giản cho việc phân loại, áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu, Biểu thuế xuất nhập khẩu của Ấn độ được thiết kế có một số nhóm
riêng dành cho hàng nhập khẩu dự án, hành lý và hàng nhập khẩu bưu chính.
Nếu thỏa mãn một số điều kiện theo điều luật, mọi loại hàng hóa nhập khẩu
(trừ một số mặt hàng đặc biệt) với những mục đích kể trên đều được phân loại
vào những nhóm mã số thuế riêng với mức thuế suất định sẵn. Điều này đảm
bảo thời gian phân loại áp mã hàng hóa nhanh chóng và chính xác hơn phân

loại từng mục hàng theo bản chất mặt hàng vào những mã số riêng rẽ.
Tuy nhiên, để đảm bảo việc phân loại theo một số mục đích như nhập
khẩu cho dự án, hành lý và hàng nhập khẩu bưu chính như vậy, Ấn Độ đã xây
dựng một hệ thống quy trình chặt chẽ để quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện nghiêm túc, đúng luật.


×