Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Tỉnh ủy bắc ninh lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.49 KB, 113 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An sinh xã hội (ASXH) là hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm
vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động
bất thường về kinh tế, xã hội và mơi trường; vừa góp phần không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Vì vậy, an sinh xã hội có vị
trí rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia
nhằm thực hiện quyền cơ bản của con người, thực hiện bình đẳng và cơng
bằng xã hội, góp phần thực hiện một xã hội hài hịa, đồng thuận, khơng có sự
loại trừ và phát triển bền vững.
Hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thối kinh tế tồn cầu đặt ra
nhiều thách thức đối với toàn thế giới. Tác động tiêu cực về mặt xã hội của
cuộc khủng hoảng và tình trạng đói nghèo ngày càng gia tăng đòi hỏi xử lý
nhiều vấn đề cả ở vĩ mô và vi mô, cả ở tầm quốc gia và khu vực. Mặt khác,
yêu cầu phát triển bền vững còn đòi hỏi phải xử lý thoả đáng các vấn đề liên
quan đến an ninh năng lượng, lương thực, môi trường và các lĩnh vực an ninh
phi truyền thống khác. Quyết tâm và nỗ lực cải cách của mỗi nền kinh tế là vô
cùng thiết yếu, song điều đó chưa đủ để đảm bảo cuộc sống tốt đẹp ở mỗi
quốc gia, mà cần phải phối hợp đồng bộ các chính sách và tăng cường hợp
tác, liên kết cả ở các cấp độ khu vực và toàn cầu trong vấn đề giải quyết
những khó khăn, khắc phục nguy cơ rủi ro cho người dân trong đời sống. Do
vậy, việc thiết lập một mạng an sinh xã hội bền vững đủ sức chống đỡ với các
rủi ro xã hội không chỉ là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia mà còn là sự
quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế.
Ở Việt Nam, xây dựng, hoàn thiện và thực hiện hệ thống chính sách an
sinh xã hội là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đồng thời thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ xã hội, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước. Đại hội IX của Đảng đã hình


2


thành định hướng chiến lược để phát triển bền vững đất nước là: “tăng trưởng
kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường…” [29, tr.89]. Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định nhiệm vụ: “Xây dựng hệ thống
an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội,
tạo việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động
trình độ cao…” [30, tr.102]. Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XI
của Đảng chỉ rõ: “phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh
tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo,
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn,
suy giảm” [31].
Sau hơn 25 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới, Việt Nam đã “bước vào
nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình” và tiếp tục đẩy mạnh “cơng
nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: phát triển kinh tế nhanh,
bền vững, đồng thời “thực hiện có hiệu quả tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo
đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển” [31]. Bảo
đảm an sinh xã hội trở thành một trong những vấn đề trung tâm trong chiến
lược phát triển đất nước, là mục tiêu và động lực của sự nghiệp xây dựng xã
hội XHCN ở nước ta.
Với quan điểm đó, từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống các chính sách xã hội, coi đây
vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã
hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hệ thống pháp luật và chính sách
an sinh xã hội ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Diện thụ hưởng chính
sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát



3
triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường từ ngân sách nhà
nước và các nguồn lực xã hội khác. Các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành
tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có cơng, giáo
dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, cơng tác
gia đình và bình đẳng giới. Ðời sống vật chất và tinh thần của người có cơng,
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lịng
tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội. Nước ta được Liên hợp quốc
công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số Mục
tiêu Thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, lĩnh vực xã hội vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém
kéo dài, chậm được khắc phục. Tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững,
tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao. Mức trợ cấp ưu đãi người có cơng cịn
thấp. Chất lượng cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa,
vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao và giảm chậm; vệ
sinh, an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ. Tỷ lệ người tham gia
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp. Ðời sống của một bộ phận người có
cơng, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn cịn rất khó khăn, chưa bảo
đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở và sử
dụng nước sạch. Chênh lệch các chỉ số về an sinh xã hội giữa miền núi, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước cịn lớn…
Là một tỉnh nằm ở phía Đơng Bắc Thủ đơ Hà Nội, đang trong q trình
đơ thị hóa nhanh, cùng với những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế, Bắc
Ninh cũng có nhiều vấn đề đặt ra trong lĩnh vực xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh trong những
năm qua đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh và các cấp ủy, chính quyền địa phương đã có nhiều chủ trương,
chính sách, chương trình, đề án cụ thể hóa việc thực hiện chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước về bảo đảm an sinh xã hội như mở rộng các đối


4
tượng tham gia BHXH, BHYT; đẩy mạnh cơng tác xóa đói giảm nghèo, tạo
việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân; coi trọng công tác
đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện tốt chế độ đối
với người có cơng và các đối tượng chính sách khác như: quan tâm thực hiện
tốt các phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, gia đình có cơng với nước, người cao tuổi, người già cô đơn, trẻ mồ
côi, cơ nhỡ, người khuyết tật… Đặc biệt, tỉnh đã tạo được nguồn lực để mở
rộng các đối tượng thụ hưởng chính sách an sinh xã hội cao hơn so với mặt
bằng chung của cả nước…
Tuy nhiên, cùng với khó khăn chung của cả nước, việc thực hiện chính
sách an sinh xã hội trên địa bàn Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế, cụ thể: tạo
việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo cịn có
nguy cơ sảy ra. Mức trợ cấp ưu đãi người có cơng cịn thấp. Chất lượng giáo
dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; chất lượng cơng tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với
người nghèo; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao. Tỉ lệ người tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp. Ðời sống của một bộ phận người có
cơng, người nghèo vẫn cịn khó khăn….
Xuất phát từ thực tế nêu trên, học viên chọn vấn đề “Tỉnh ủy Bắc Ninh
lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội trong giai đoạn hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, với mong muốn góp phần nhỏ bé trong việc làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp tăng cường sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách an sinh xã hội ở
địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

An sinh xã hội là đề tài thu hút sự nghiên cứu của nhiều học giả trong và
ngoài nước trong những năm gần đây. Đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên
cứu về đề tài này đã được công bố, như:


5
2.1. Sách, đề tài khoa học
- “Giáo trình an sinh xã hội” của Nguyễn Văn Định (2008), Nxb Đại
học kinh tế Quốc dân.
- “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”,
của Đinh Công Tuấn (chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008.
- “Nông thôn, nông nghiệp và nông dân Bắc Ninh trên đường đổi mới”
của Trần Văn Túy, Nxb Thống kê Hà Nội tháng 8-2008.
- “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam” của GS,TS Mai Ngọc Cường, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- “Lý thuyết và mơ hình an sinh xã hội (Phân tích thực tiễn ở Đồng
Nai)” của nhóm tác giả Phạm Văn Sáng, Ngô Quang Minh, Bùi Văn Huyền,
Nguyễn Anh Dũng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
- “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong đổi mới ở Việt Nam- Một số
vấn đề Lý luận và thực tiễn” của Tơ Huy Rứa. Tạp chí Cộng sản số 794 -tháng
12-2008.
- “Phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với bối cảnh kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Nguyễn Hải Hữu -Chuyên đề 8
-báo cáo đánh giá 20 năm đổi mới, Hà Nội tháng 4-2006.
- “Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội với nông dân nước ta hiện
nay” của Nguyễn Hữu Dũng. Tạp chí Cộng sản số 794, tháng 12-2008.
- “Việc làm cho hộ nông dân thiếu đất sản xuất, vấn đề và giải pháp”
của Bùi Ngọc Thanh. Tạp chí Cộng sản, tháng 12-2009.
- “Góp phần đổi mới và hồn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta
hiện nay” của Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến. Nxb Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội 1996.
- “Giải pháp chuyển đổi nghề nghiệp, đào tạo việc làm cho dân cư sau
khi Nhà nước thu hồi đất phát triển các khu công nghiệp tập trung tại Bắc
Ninh trong những năm tới”. Đề tài khoa học cấp tỉnh do Vũ Đức Quyết làm
chủ nhiệm.


6
2.2. Các bài báo khoa học
- “Tăng trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững nông nghiệp và nông
thôn” của Vũ Trọng Hồng, Tạp chí Cộng sản số 22 tháng 10-2008.
- “Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) trên lĩnh vực
lao động, thương binh và xã hội” của Nguyễn Thị Kim Ngân, Tạp chí Cộng
sản số 795 tháng 1-2009.
- “Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Đỗ
Văn Quân (2009), Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 1, tháng 3-2009.
- “Hệ thống an sinh xã hội và chính sách đối với cán bộ, công chức” của ThS
Bùi Xuân Dự, Thông tin Những vấn đề lý luận phục vụ lãnh đạo số 8 (4-2009);
- “Hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam: Thực trạng và định hướng
phát triển của Nguyễn Hữu Dũng”, Tạp chí ĐHQGHN, số 26, năm 2010.
- “Vai trị của chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với An sinh
xã hội của đất nước” của Lê Bạch Hồng, Tạp chí Cộng sản số 2-2010;
- “15 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế góp phần bảo
đảm an sinh xã hội đất nước” của Hoàng Minh, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2010;
- “Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một
nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020” của
Nguyễn Tấn Dũng, Tạp chí Cộng sản tháng 9-2010;
-“Về chính sách an sinh xã hội trọng điểm của Trung Quốc” của Bùi Sỹ
Lợi, Thơng tin những vấn đề chính trị - xã hội số 48 (11-2010).
2.3. Luận văn, luận án

- “An sinh xã hội đối với nông dân trong điều kiện kinh tế thị trường ở
Việt Nam”, Mai Ngọc Anh: Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 2009.
- “Chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh”, Luận án tiến sĩ kinh tế của
nghiên cứu sinh Nguyễn Tiến Nhường, 2010.
Có thể khẳng định, các cơng trình, đề tài, bài viết nêu trên đã đề cập đến
vấn đề an sinh xã hội ở nhiều góc độ và các tiếp cận khác nhau để phục vụ


7
mục đích của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình, đề tài nào nghiên
cứu một cách cụ thể, có hệ thống về sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những cơ sở lý luận liên quan đến đề tài, đánh giá
thực trạng Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội
trong những năm qua; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng, luận văn đề xuất
phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách an sinh xã hội đến năm 2020.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan đến sự lãnh đạo của Tỉnh
ủy Bắc Ninh đối với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng đời sống, an sinh xã hội ở tỉnh Bắc Ninh
và thực trạng Tỉnh ủy Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội
từ năm 2005 đến năm 2012; chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng, rút ra những
kinh nghiệm cần thiết.
- Dự báo những thuận lợi, khó khăn, đề xuất mục tiêu, phương hướng và
những giải pháp lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh
đối với thực hiện chính sách an sinh xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh
xã hội của Tỉnh ủy Bắc Ninh (bao gồm chính các sách bảo hiểm xã hội, bảo


8
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, chính sách đối với người có
cơng, chính sách xóa đói, giảm nghèo) từ năm 2005 đến năm 2012. Phương
hướng và giải pháp đề xuất đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về Đảng và xây dựng Đảng nói
chung, Đảng lãnh đạo các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội, trong đó có
những quan điểm về lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội nói riêng.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là thực trạng vấn đề an sinh xã hội và sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với thực hiện chính sách an sinh xã hội.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng
thời sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lịch sử, logic; điều tra,
khảo sát; thống kê, so sánh; tổng kết thực tiễn; trao đổi, tọa đàm…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về sự lãnh đạo

của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- Góp phần đánh giá đúng thực trạng sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh
đối với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội; chỉ rõ nguyên nhân, rút ra
những kinh nghiệm từ thực tiễn.
- Đề xuất các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ
và các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bắc Ninh đối với việc
thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn đến năm 2020.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


9
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các cấp ủy, chính quyền và các ngành
chức năng trên địa bàn đối với việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong
nghiên cứu, giảng dạy ở trường chính trị tỉnh Bắc Ninh và ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


10


11
Chương 1
TỈNH ỦY BẮC NINH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC NINH VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN
SINH XÃ HỘI Ở TỈNH BẮC NINH

1.1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh
Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm trong tam
giác kinh tế trọng điểm Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh và là cửa ngõ phía
Đơng Bắc của Thủ đơ Hà Nội. Bắc Ninh có địa giới hành chính tiếp giáp với
các tỉnh: phía Bắc tiếp giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đơng Nam tiếp giáp tỉnh Hải
Dương, phía Nam tiếp giáp tỉnh Hưng Yên và phía Tây tiếp giáp với Thành
phố Hà Nội. Theo số liệu thống kê năm 2012 tỉnh Bắc Ninh có diện tích tự
nhiên 822,7km2 với tổng dân số 1.079.913 người.
Vùng đất trù phú nơi đây khi xưa vốn là “xứ Kinh Bắc”, nổi tiếng với
nhiều làng nghề và các lễ hội dân gian phong phú diễn ra hàng năm. Vào năm
1822, xứ Kinh Bắc được Nhà Nguyễn đổi tên thành tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng
10-1962, theo Nghị quyết của Quốc hội Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
tỉnh Bắc Ninh sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Từ đó “Bắc
Ninh” chỉ cịn là tên của một đơn vị hành chính trong tỉnh Hà Bắc và có tên
gọi là Thị xã Bắc Ninh. Sau đó, đến ngày 6-11-1996, Quốc hội nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 10 đã ra Nghị quyết tái
lập tỉnh Bắc Ninh, theo đó Bắc Ninh hoạt động theo địa giới hành chính mới
từ ngày 01-01-1997 với 08 đơn vị hành chính trực thuộc: gồm 06 huyện, 01
thành phố và 01 thị xã (huyện Quế Võ, Tiên Du, Yên Phong, Gia Bình, Lương
Tài, Thuận Thành, thành phố Bắc Ninh và thị xã Từ Sơn; tồn tỉnh có tổng
126 xã, phường, thị trấn (100 xã, 16 phường, và 10 thị trấn). Dân số năm 2012
là 1.079.913 người (trong đó dân số sống ở nơng thơn 797.564 người, chiếm
73,8%); mật độ dân số trung bình 1.313 người/km2.


12
Bắc Ninh ở vị tri thuận lợi về giao thông đường bộ và đường không. Các

tuyến đường huyết mạch: Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường sắt
Hà Nội- Lạng Sơn, Hà Nội- Quảng Ninh nối liền Bắc Ninh với các trung tâm
kinh tế, văn hóa và thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam, với cảng
hàng không quốc tế Nội Bài và liên thông với hệ thống các trục đường quốc
lộ đến với mọi miền trong cả nước.
Bắc Ninh khơng giàu về tài ngun khống sản và cũng ít tài ngun rừng,
nhưng vơ cùng phong phú về tài nguyên nhân văn. Đây là một trong những miền
quê “địa linh nhân kiệt”, một trong những nơi hội tụ nhiều nhất các di tích lịch
sử, văn hóa. Tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu, các loại hình nghệ thuật dân gian
gắn liền với các lễ hội, các làng nghề truyền thống. Đặc biệt, các làn điệu dân ca
quan họ đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Nhờ vị trí địa lý thuận lợi cùng với các cơ chế và giải pháp phát triển
kinh tế hợp lý, Bắc Ninh đã và đang khai thác các tiềm năng hiện có của tỉnh
để trở thành một trung tâm kinh tế- văn hóa phụ trợ, một thành phố vệ tinh
quan trọng cho Hà Nội và là một điểm nhấn trong tam giác kinh tế trọng điểm
Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Nơi đây vừa là thị trường tiêu thụ, vừa là
khu vực cung cấp nguồn nhân lực, sản phẩm nông sản, vật liệu xây dựng,
hàng thủ công mỹ nghệ… cho các tỉnh thành trong vùng đồng bằng Sông
Hồng và các vùng lân cận. Cùng với việc khai thác lợi thế của các làng nghề
thủ cơng truyền thống, Bắc Ninh đang có nhiều chính sách thu hút đầu tư, mở
rộng về quy mô sản xuất, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm tạo
thành các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công
nghiệp làng nghề nhằm cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại
chỗ, trong nước và xuất khẩu. Song song với việc phát triển công nghiệp, Bắc
Ninh đang tập trung khai thác hiệu quả diện tích đất nơng nghiệp- nguồn tài
ngun đất chiếm hơn 60% tổng diện tích tự nhiên- bằng việc hình thành và
phát triển các vùng cây, con có giá trị thương mại theo hướng chuyên canh.
Tỉnh đang từng bước đưa chăn ni trở thành một ngành chính tạo nguồn



13
nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản, góp phần làm thay
đổi diện mạo nơng thơn theo hướng hiện đại hóa.
Với mục tiêu phát triển tồn diện, Bắc Ninh luôn chú trọng vào việc
phát triển con người và các vấn đề xã hội, nâng cao trình độ dân trí và mức
sống của nhân dân. Phát huy truyền thống cần cù, khéo léo, năng động sáng
tạo của người dân Kinh Bắc, nâng cao năng lực quản lý, kỹ năng lao động, kỹ
năng giao tiếp cho lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi
mới, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy là tỉnh có diện tích nhỏ nhất đồng bằng Sông Hồng và cũng là tỉnh
nhỏ nhất nước, với dân số cũng chỉ hơn một triệu người, nhưng Bắc Ninh có
tốc độ tăng GDP bình qn hàng năm đạt 15,1%, là tỉnh đứng tốp đầu của cả
nước và đứng thứ hai các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Về môi trường đầu tư, chỉ số năng lực cạnh tranh (CPI) cấp tỉnh năm
2008 của Bắc Ninh là 59,57, đứng thứ 16 trong số 63 tỉnh, thành trên toàn
quốc, đến năm 2012 chỉ số CPI là 62,26 đứng thứ 10 toàn quốc và là tỉnh dẫn
đầu đồng bằng Bắc Bộ và khu vực kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Nhiều tập đồn
cơng nghiệp lớn như Canon, Nippon Steell, Nikon Seiki, Sumsung, Sentec,
Nokia… đã đầu tư, mở cơ sở sản xuất tại Bắc Ninh.
Nhờ phát huy những lợi thế về vị trí địa lý của tỉnh và những truyền thống
nhân văn tốt đẹp, kết hợp với việc chủ động tìm tịi và khai thác những cơ hội
phát triển trong thời đại mới, Bắc Ninh đang từng bước khẳng định vị thế của
mình trong khu vực đồng bằng Sơng Hồng nói riêng và cả nước nói chung.
Trong những năm qua kinh tế Bắc Ninh liên tục tăng trưởng với tốc độ
cao, tổng sản phẩm giai đoạn 2005 - 2010 tăng bình qn 15,1%/năm, trong
đó giá trị sản xuất công nghiệp tăng 18,3%; thương mại- dịch vụ tăng 19,1%;
giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 1,2%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh
theo hướng tích cực: tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng từ 47,1% năm 2005
lên 64,8% năm 2010, dịch vụ giảm từ 27,2% xuống cịn 24,2%; tỷ trọng nơng
nghiệp giảm từ 25,7% xuống còn 11% [23, tr.15].



14
Đến năm 2012, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 77,82%, dịch vụ
16,57%; nông lâm và thủy sản 5,61% (thời điểm tách tỉnh năm 1997 tỷ trọng
3 khu vực này tương ứng là 23,8% - 31,2%- 40,5%). Cơ cấu GDP theo thành
phần kinh tế năm 2012: kinh tế nhà nước là 14%; kinh tế ngoài nhà nước là 51%,
kinh tế đầu tư nước ngoài là 33,9% (năm 1997 cơ cấu tương ứng là 25,8% 72,6% -1,6%). GRDP bình quân đầu người năm 2012 đạt 3.211 USD, gấp 10,9
lần năm 1997 và 5,7 lần năm 2005.
Cơ cấu lao động có nhiều biến động theo hướng giảm lao động ngành
nông nghiệp tăng tỷ lệ lao động cho công nghiệp, dịch vụ. Trong tổng số
674.200 lao động của toàn tỉnh, lao động nông nghiệp chiếm trên 50%; tỷ lệ
sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn chiếm hơn 80,5%.
Tỉnh Bắc Ninh có 660.299 lao động đang làm việc trong các ngành
kinh tế, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 51%. Văn hố xã hội chuyển biến
tích cực, đời sống nhân dân trong tỉnh không ngừng được cải thiện.
Cơ cấu nhân lực theo trình độ chun mơn kỹ thuật chuyển dịch theo
hướng khá tích cực phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội, tỷ trọng người
lao động chưa qua đào tạo trong thành phần lao động tham gia các ngành kinh
tế quốc dân giảm dần, người lao động qua đào tạo các trình độ và đặc biệt là
người lao động có trình độ từ đại học trở lên tăng cao với tốc độ tương đối
nhanh. Tỷ lệ người lao động chưa qua đào tạo giảm dần từ 76% năm 2005
xuống còn 67% năm 2010 và năm 2012 chỉ còn 49%;
Ngay sau ngày tái lập tỉnh (01-01-1997), tỉnh đã chú trọng quan tâm tới
công tác quy hoạch đô thị đến nay đã hoàn thành quy hoạch tổng thể các khu
đơ thị trong tồn tỉnh và định hướng khơng gian các tuyến đường quốc lộ đi
qua tỉnh. Cùng với việc trên đã tiến hành quy hoạch các thị trấn, thị xã, thành
phố theo hướng hiện đại. Trong hơn 10 năm qua tỉnh đã nâng cấp thị xã Bắc
Ninh lên thành phố loại 3 (1-2006), huyện Từ Sơn lên thị xã (tháng 9-2008),
đang tập trung xây dựng một số thị trấn lên đô thị loại 4 như: phố mới (Quế

Võ), thị trấn Chờ (Yên Phong), nâng cấp một số xã lên phường như: Võ


15
Cường, Vạn An, Vân Dương, Hạp Lĩnh (thành phố Bắc Ninh) và xây dựng
hàng chục khu đô thị mới ở các huyện, thị xã, thành phố. Những kết quả đó đã
góp phần tạo cho Bắc Ninh bộ mặt đơ thị khang trang và có nhiều khởi sắc
được nhân dân và bạn bè xa gần ghi nhận. Nhưng điều đặc biệt hơn là đã
đóng góp quan trọng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực,
tăng tỷ trọng thương mại- dịch vụ, công nghiệp, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, nhất là những thành tựu về phát triển
kinh tế đã góp phần khơng nhỏ để Bắc Ninh thực hiện tốt các chính sách an sinh
xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân.
1.1.2. Tỉnh ủy Bắc Ninh - đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
Ngày 6-11-1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX, Quốc hội đã ra
Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh trong đó có tỉnh Hà
Bắc (bao gồm Bắc Ninh và Bắc Giang).
Ngày 1-1-1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập và hoạt động theo địa giới
hành chính mới trên cơ sở chia tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc
Giang. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 5 đảng bộ huyện là: Yên Phong, Thuận Thành,
Gia Lương, Tiên Sơn, Quế Võ và Đảng bộ thị xã Bắc Ninh; 3 đảng bộ trực thuộc
là: Đảng bộ Công an, Đảng bộ Quân sự, Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh.
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh là Đảng bộ có truyền thống yêu nước và cách
mạng, là q hương của các đồng chí Ngơ Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng
Quốc Việt, Lê Quang Đạo và nhiều lãnh đạo tiền bối khác của Đảng... Đảng
bộ có trên 4 vạn đảng viên đã được rèn luyện, thử thách và ngày càng trưởng
thành trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là
những thuận lợi hết sức cơ bản để Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh tập trung lãnh đạo
các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh.

Khi tái lập, tình hình kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Ninh đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức: Tốc độ phát triển kinh tế chậm, điểm xuất phát thấp, cơ
cấu kinh tế chưa hợp lý; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1991-


16
1995 chỉ đạt 8,06%; sản xuất nơng nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ
cấu
kinh tế (chiếm 46,4%), năng suất lao động và tỷ suất hàng hóa thấp. Cơng
nghiệp quốc doanh của địa phương còn nhỏ bé (giá trị sản xuất công nghiệp
quốc doanh của địa phương năm 1996 chỉ chiếm 1,8% giá trị sản xuất công
nghiệp tại địa phương); kim ngạch xuất khẩu mới đạt bình quân 13,54
USD/người/năm (bình quân cả nước là 100 USD/người/năm). Kết cấu hạ tầng
kinh tế- xã hội thấp kém: hầu hết các cơng trình giao thông, thủy lợi đều
xuống cấp nghiêm trọng, một số cơng trình đầu tư mới nhưng chưa đồng bộ,
hiệu quả thấp; mạng lưới cung ứng điện chưa đảm bảo kỹ thuật, nguồn điện
năng chưa đáp ứng nhu cầu của sản xuất, nhất là khi xảy ra lũ lụt. Đời sống
của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng nông thôn cịn nhiều khó khăn; số lao
động khơng có việc làm và thiếu việc làm còn nhiều... Đây là những vấn đề
cấp bách, đòi hỏi sự tập trung trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền các cấp, sự nỗ lực của người dân.
Từ khi tái lập Tỉnh đến nay, đảng bộ Tỉnh Bắc Ninh đã qua 04 kỳ Đại hội.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV được tiến hành trọng
thể từ ngày 14 đến ngày 17-10-1997, Đại hội đã bầu 39 đồng chí tham gia
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã quyết định phương hướng, nhiệm
vụ, mục tiêu chủ yếu đến năm 2000. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV, Tỉnh ủy đã ban hành nhiều nghị quyết để tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế như các nghị quyết: về phát triển làng nghề, tiểu
thủ công nghiệp; về xây dựng, phát triển các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp; tăng cường quản lý, khuyến khích các doanh nghiệp ngồi quốc doanh;

cải tạo, nâng cấp đường giao thông nông thôn; chỉ đạo chuyển đổi và thành lập
các hợp tác xã theo Luật hợp tác xã; đẩy mạnh công tác xuất khẩu...
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo hiệu quả của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp,
nỗ lực của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, kinh tế- xã hội của tỉnh tăng


17
trưởng với tốc độ cao, đạt và vượt mục tiêu do Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XV đề ra.
Tháng 8-1999, huyện Gia Lương được chia tách thành hai huyện Gia
Bình và Lương Tài; huyện Tiên Sơn được chia tách thành hai huyện Từ Sơn
và Tiên Du. Đến thời điểm này, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 7 đảng bộ huyện
là: Yên Phong, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài, Tiên Du, Từ Sơn, Quế Võ
và Đảng bộ thị xã Bắc Ninh; 3 đảng bộ trực thuộc là: Đảng bộ Công an, Đảng
bộ Quân sự, Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về việc tiến hành Đại hội
Đảng các cấp, từ ngày 3 đến ngày 5-1-2001, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bắc Ninh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2001- 2005 được tiến hành trọng thể. Đại
hội đã bầu 45 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã đề
ra mục tiêu tổng quát đến năm 2005 là:
Phát huy nội lực, tích cực thu hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp
trong nước và đầu tư nước ngoài phát triển công nghiệp- tiểu thủ
công nghiệp. Từng bước chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng
hóa, hình thành các vùng chun canh và các trung tâm thương mại,
các khu du lịch, khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ. Kết
hợp kinh tế- xã hội với quốc phòng- an ninh, ngăn chặn và đẩy lùi
tiêu cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; xây dựng hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân [23, tr.51,53].
Với mục tiêu phát triển tỉnh Bắc Ninh theo hướng CNH-HĐN, Ban Chấp

hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận về xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, khu
công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh như: Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày
4-5-2001 về “Xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp”; Kết luận số 01-KL/TU ngày 7-5-2002 về “Xây dựng và phát triển
các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, khu công nghiệp


18
làng nghề trên địa bàn tỉnh”; Kết luận số 02-KL/TU ngày 6-11-2002 về “Xây
dựng, phát triển khu công nghiệp”...
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 20052010 được tiến hành trọng thể từ ngày 14 đến ngày 16-12-2005, Đại hội đã
bầu 49 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã đề ra các
nhiệm vụ và giải pháp:
Đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn- coi đây là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
địa phương; đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học- công nghệ
mới vào sản xuất; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội;
tiếp tục phát triển đồng bộ các khu, cụm công nghiệp cùng với việc
quy hoạch các khu đô thị - dân cư - dịch vụ vui chơi giải trí; tăng
cường quản lý nhà nước, quan tâm đẩy mạnh xã hội hóa sự nghiệp
văn hóa- xã hội, tiếp tục xây dựng nền văn hóa mang đậm dấu ấn
truyền thống, lịch sử; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân ca
quan họ, lễ hội, làng nghề truyền thống, di tích lịch sử và cách
mạng, đưa dân ca quan họ trở thành di sản văn hoá phi vật thể đại
diện của nhân loại; tăng cường cơng tác quốc phịng, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, xây dựng thế trận quốc phịng
tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng,

chỉnh đốn Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Phấn
đấu đến năm 2015, Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại [24, tr.556].
Tháng 1-2006, thị xã Bắc Ninh được nâng cấp thành thành phố trực
thuộc tỉnh, một đô thị loại III; ngày 24-9-2008, Từ Sơn được nâng cấp trở
thành thị xã, đô thị loại IV; ngày 26-2-2009, Đảng bộ khối doanh nghiệp được
thành lập. Từ tháng 3-2009, Đảng bộ tỉnh tỉnh Bắc Ninh có 6 đảng bộ huyện


19
là: Yên Phong, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài, Tiên Du, Quế Võ và Đảng
bộ thị xã Từ Sơn, Đảng bộ thành phố Bắc Ninh; 4 đảng bộ trực thuộc là: Đảng
bộ Công an, Đảng bộ Quân sự, Đảng bộ khối các cơ quan tỉnh, Đảng bộ khối
doanh nghiệp tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 20102015 được tiến hành trọng thể Từ ngày 23 đến ngày 25-09-2010, Đại hội đã
bầu 53 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã đề ra
phương hướng chung là:
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân. Tăng cường quốc phịng, an ninh. Tập trung
mọi nguồn lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa. Phát triển
cơng nghiệp cơng nghệ cao, nơng nghiệp phát triển tồn diện theo
hướng hiện đại, bền vững. Xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và an sinh xã hội. Phấn đấu đến năm 2015, cơ
bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại và thành phố
trực thuộc Trung ương vào năm 2020 [25, tr.23].
Hiện nay đảng bộ tỉnh Bắc Ninh có 46.871 đảng viên (tính đến 30 -112012), được tổ chức thành 12 đảng bộ trực thuộc, bao gồm 8 đảng bộ các
huyện, thành phố, thị xã; 01 đảng bộ Quân sự; 01 đảng bộ Công an; 01 đảng
bộ khối các cơ quan; 01 đảng bộ khối doanh nghiệp. Tổng số có 603 tổ chức
cơ sở đảng; có 1.873 chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở. Ban chấp hành đảng bộ

khóa XVIII có 55 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 14 đồng chí.
Kết quả đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên năm 2012 có: tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh 72,9%; tổ
chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiêm vụ 15,2%; tổ chức cơ sở đảng hoàn
thành nhiệm vụ 5,5%; tổ chức cơ sở đảng yếu kém 1,2%; đánh giá, phân loại
chi bộ thuộc đảng bộ cơ sở: chi bộ đạt trong sạch vững mạnh 81,8%; chi bộ


20
hoàn thành tốt nhiệm vụ 12,6%; chi bộ hoàn thành nhiệm vụ 5,3%; chi bộ yếu
kém 0,3%.
Trong 5 năm, từ năm 2008 – 2012, toàn đảng bộ kết nạp được 6.478
đảng viên mới, trong đó năm 2012 kết nạp 1.436 đảng viên; tuổi đời bình
quân của đảng viên mới được kết nạp là 30,2 tuổi. Tuy cán bộ trẻ đã được
chú trọng, song tuổi bình qn tồn đảng bộ cịn khá cao: 48,6 tuổi.
+ Về Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh Bắc Ninh:
- Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh có cơ cấu khá hợp lý, cán bộ trẻ và cán
bộ nữ đã được chú trọng: Tỉnh ủy viên là nữ có 3 đồng chí chiếm 5,45%; cán
bộ trẻ dưới 40 tuổi là 5 đồng chí chiếm 9%.
- Trình độ đội ngũ đảng viên trong BCH đảng bộ tỉnh ngày càng được
nâng lên: trình độ Tiến sĩ 04 đồng chí chiếm 7,5% ; thạc sĩ 20 đồng chí, chiếm
37,73%; đại học 30 đồng chí, chiếm 45,5%; 100% các đồng chí trong BCH
đảng bộ tỉnh có trình độ cao cấp hoặc cử nhân về chính trị.
- Ban Thường vụ gồm 14 đồng chí, trong đó trình độ Tiến sĩ có 04 đồng
chí, chiếm 28,57%; trình độ đại học 10 đồng chí, chiếm 71,42%.
Tóm lại, sau hơn 15 năm tái lập tỉnh, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao,
hiệu quả của Đảng bộ tỉnh, sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân trong tỉnh,
diện mạo tỉnh Bắc Ninh có nhiều khởi sắc, chính trị ổn định, kinh tế- xã hội
phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, quốc phịng - an
ninh và trận tự an tồn xã hội ổn định, hệ thống chính trị ngày càng được củng

cố và hoạt động hiệu quả… Đây là những tiền đề quan trọng để tỉnh Bắc Ninh
hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XVIII, nhiệm kỳ 2010- 2015 đã đề ra.
- Vị trí, vai trị của Tỉnh ủy Bắc Ninh
+ Là hạt nhân, là bộ chỉ huy lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh giữa hai kỳ đại
hội, Tỉnh ủy Bắc Ninh đã lãnh đạo phát huy tốt truyền thống quê hương,
truyền thống cách mạng và truyền thống của mỗi đảng bộ, tập trung lãnh đạo,


21
chỉ đạo tồn diện các nhiệm vụ chính trị đặt ra, phát huy tốt vai trò là hạt nhân
lãnh đạo của hệ thống chính trị. Sau hơn 25 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự cố gắng nỗ lực của cán bộ,
đảng viên và nhân dân trong tỉnh, đời sống nhân dân đã có nhiều đổi thay;
Tỉnh ủy đã lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ và giành
được những thành tựu toàn diện, rất đáng trân trọng; đó là nền tảng vững chắc
và là điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát huy, đẩy mạnh sớm hoàn thành sự
nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa, đưa tỉnh Bắc Ninh trở thành một tỉnh
phát triển nhanh và bền vững. Vai trò to lớn và quan trọng về sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy đối với những thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của Đảng bộ Tỉnh
đã được thực tiễn chứng minh. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo đã được Tỉnh ủy quán triệt, cụ thể hóa và lãnh đạo
nhân dân vận dụng, tổ chức thực hiện đạt nhiều thắng lợi trên thực tiễn. Sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; những thành tựu và yếu kém luôn gắn
liền với vai trò, trách nhiệm của Tỉnh ủy và những ưu, khuyết điểm trong
công tác xây dựng Đảng.
+ Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phịng - an
ninh, đặc biệt là lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội, Tỉnh ủy Bắc
Ninh tiếp thu các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,

pháp luật của Nhà nước để lãnh đạo tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh, biến
chủ trương, đường lối, định hướng đó thành hiện thực. Tỉnh ủy tổ chức động
viên, huy động tiềm năng, sức người, sức của để thực hiện các nhiệm vụ trọng
tâm, các chương trình, mục tiêu, định hướng đã đề ra.
+ Là cấp trên trực tiếp của các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố và
tương đương, Tỉnh ủy có vai trị và trách nhiệm to lớn trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng, lãnh đạo các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có lãnh đạo thực hiện chính sách an sinh xã hội. Sự
lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và kịp thời của Tỉnh ủy là nhân tố quan trọng,


22
quyết định thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh. Nâng cao chất
lượng lãnh đạo của Tỉnh ủy trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đổi mới, hội nhập, nhất là năng lực lãnh đạo các lĩnh vực đời sống xã
hội là một nhiệm vụ bức thiết trọng tâm.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh ủy
- Chức năng của Tỉnh ủy
Chức năng chủ yếu của Tỉnh ủy Bắc Ninh cũng như các tỉnh, thành ủy
trực thuộc Trung ương đó là lãnh đạo nhiệm vụ chính trị đối với tồn bộ hệ
thống chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh. Là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ
tỉnh giữa hai kỳ đại hội, Tỉnh uỷ lãnh đạo đảm bảo cho các hoạt động xây
dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội, nghề nghiệp của tỉnh có chất lượng và hiệu quả; đảm bảo cho các
lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh phát triển theo đúng đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ là việc đề ra chủ trương, quyết định, cụ thể
hoá các chủ trương, quyết định đó, lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám
sát các tổ chức đảng, đảng viên trong thực hiện các chủ trương, quyết định

của tỉnh uỷ và sơ kết, tổng kết rút ra những kinh nghiệm, kể cả việc kiểm tra,
giám sát việc chuẩn bị ra quyết định và ban hành quyết định.
Mỗi tổ chức, mỗi lĩnh vực đời sống xã hội có đặc điểm riêng, mỗi tổ
chức lại có chức năng nhiệm vụ khác nhau. Sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với
từng tổ chức, từng lĩnh vực đời sống xã hội có nội dung và phương thức khác
nhau. Bởi vậy, cùng xuất phát từ nhiệm vụ của tổ chức đó, từ tính chất của
công việc, đặc điểm cụ thể để xác định nội dung, phương thức lãnh đạo phù
hợp. Chức năng lãnh đạo của Tỉnh uỷ là sự lãnh đạo chính trị, tức là Tỉnh uỷ
lãnh đạo các tổ chức, các lĩnh vực đời sống xã hội chủ yếu bằng các chủ
trương, quyết định, định hướng đảm bảo cho các hoạt động của các tổ chức,
lĩnh vực đó theo đúng định hướng XHCN; tỉnh uỷ không can thiệp quá sâu,


23
không bao biện làm thay công việc cụ thể của các tổ chức, mà lãnh đạo phát
huy vai trò, chủ động, sáng tạo của các tổ chức để hoạt động đạt kết quả cao.
Giai đoạn hiện nay, việc lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội trở thành
nhiệm vụ trung tâm, chủ yếu và quan trọng nhất của Đảng trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với Tỉnh ủy Bắc Ninh, một trong những
chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội hiện nay đó là hướng mạnh vào lãnh đạo đẩy mạnh CNH, HĐH phấn
đấu đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại và trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2020
trên cơ sở đó lãnh đạo thực hiện tốt chính sách ASXH..
- Nhiệm vụ của Tỉnh ủy Bắc Ninh
Điểm 1, Điều 19, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội lần thứ XI quy
định “Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành
uỷ) lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên” [32, tr.32]. Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng, hướng dẫn của Trung
ương, Tỉnh ủy Bắc Ninh có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo Đảng bộ và nhân dân
trong tỉnh thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh; bảo đảm phát triển
kinh tế-xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh; xây dựng đảng, chính quyền,
mặt trận tổ quốc và các đồn thể trong sạch, vững mạnh; lãnh đạo chính
quyền làm tốt chức năng quản lý nhà nước theo pháp luật. Thể hiện thông qua
các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chủ trương, định hướng, mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đồn thể nhân dân vững mạnh; chuẩn bị và ra các nghị quyết
chuyên đề trên từng lĩnh vực, cụ thể hóa đến từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, đồng thời lãnh đạo đạt hiệu qủa trên thực tiễn.
+ Lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân tỉnh, các đảng bộ trực thuộc triển khai thực hiện các


24
nghị quyết của tỉnh uỷ về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, các biện pháp
lớn về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Lãnh đạo các ban tham mưu và các cơ quan chức năng triển khai thực hiện
các nghị quyết của tỉnh uỷ về công tác xây dựng Đảng, xây dựng các đoàn thể
nhân dân.
+ Quán triệt và lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc của
Đảng và Nghị quyết đại biểu Đảng bộ tỉnh; các chương trình hành động, kế
hoạch thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy trong nhiệm kỳ
đến các đảng bộ trực thuộc. Tuyên truyền, giáo dục nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
+ Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, các
nghị quyết, quyết định của Trung ương, của tỉnh về cán bộ và công tác cán bộ
tại địa phương. Triệu tập đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh; chuẩn bị văn kiện đại
hội và dự kiến nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ và các chức
danh chủ chốt của Tỉnh khoá mới.

+ Lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ
luật và hoạt động của Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ; của các tổ chức đảng, đảng
viên trong các đảng bộ trực thuộc và những đảng viên là cán bộ thuộc diện
Tỉnh uỷ quản lý.
1.1.3. Chính sách an sinh xã hội và thực hiện chính sách an sinh xã
hội ở tỉnh Bắc Ninh
1.1.3.1. Chính sách an sinh xã hội - quan niệm và đặc điểm
* Khái niệm và đặc điểm an sinh xã hội
Khái niệm an sinh xã hội
An sinh xã hội luôn được coi là một trong những vấn đề cốt lõi của sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể
có quan niệm khác nhau đối với sự phát triển hệ thống an sinh xã hội. Có thể
khái quát một số cách tiếp cận chủ yếu về an sinh xã hội trên thế giới như sau:


25
- Theo Otto Von Bismack (1815 -1898): an sinh xã hội được thực hiện
dựa trên trụ cột là Bảo hiểm xã hội gắn với yếu tố lao động. Chế độ bảo hiểm
xã hội được áp dụng bắt buộc với một mức lương cụ thể, mức đóng góp và
mức trả bảo hiểm xã hội được tính căn cứ vào tiền lương và được quản lý bởi
các đối tác xã hội.
- Theo W.H.L. Beveridge, nhà kinh tế và xã hội học người Anh (18791963): an sinh xã hội là sự đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc
và đảm bảo một lợi tức khi người ta khơng cịn sức làm việc nữa. Những
người theo trường phái này quan niệm, hệ thống an sinh xã hội hoạt động dựa
trên ba nguyên tắc: bao phủ toàn diện (mọi người lần đầu được hưởng an sinh
xã hội), mức chi trả tương đương và quản lý tập trung, thống nhất.
- Trong Đạo luật về an sinh xã hội của Mỹ, an sinh xã hội được hiểu là sự
đảm bảo của xã hội nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng
thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài
năng đến tột độ.

- Trong Hiến chương Đại Tây Dương, an sinh xã hội được hiểu là sự đảm
bảo thực hiện quyền con người trong hịa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di
chuyển, phát triển chính kiến trong khn khổ pháp luật; được bảo vệ và bình
đẳng trước pháp luật; được học tập, làm việc và nghỉ ngơi; có nhà ở; được
chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh
sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già,...
- Theo Ngân hàng thế giới (WB): an sinh xã hội được xây dựng trên mơ
hình quản lý rủi ro xã hội. Triết lý của mơ hình này là mọi cá nhân, mọi gia
đình, mọi cộng đồng đều phải chịu những rủi ro nhất định do thiên tai hay
những biến động trong đời sống kinh tế - xã hội gây ra. Chính những rủi ro
này là nguyên nhân gây ra nghèo khổ. Người nghèo là những người chịu
nhiều rủi ro nhất so với các thành phần xã hội khác và ít có điều kiện tiếp cận
các công cụ và phương tiện cho phép họ đối mặt với rủi ro. Vì vậy, cần xây
dựng cơ chế an sinh xã hội giành cho người nghèo để hạn chế tình trạng bấp


×