Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Dịch vụ logistics cảng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.72 KB, 92 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hỗ trợ đắc lực của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới, khối lượng hàng hóa và sản
phẩm vật chất được sản xuất ra ngày càng nhiều. Khoảng cách trong các lĩnh
vực cạnh tranh truyền thống như chất lượng hàng hóa hay giá cả ngày càng
thu hẹp, các nhà sản xuất đã chuyển sang cạnh tranh về quản lý hàng lưu kho,
tốc độ giao hàng, hợp lý hóa quá trình lưu chuyển nguyên nhiên vật liệu và
bán thành phẩm,… trong cả hệ thống quản lý phân phối vật chất của doanh
nghiệp. Trong q trình đó, logistics có cơ hội phát triển ngày càng mạnh mẽ
hơn trong lĩnh vực kinh doanh. Cùng với quá trình phát triển, logistics đã
được chuyên mơn hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng vai trị
rất quan trọng trong giao thương quốc tế. Trên thế giới, dịch vụ logistics phát
triển ở các nước có nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc, đặc biệt là cơ sở hạ
tầng cảng biển. Cảng biển được coi là một mắt xích quan trọng khơng thể
thiếu, do vậy sự thiếu hụt hay yếu kém của cảng biển và các dịch vụ hậu cần
sau cảng sẽ gây ảnh hưởng rất lớn cho hoạt động logistics. Logistics là một
hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của q trình này có tầm
quan trọng quyết định đến cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại
mỗi quốc gia.
Nghị quyết IV của Trung ương khóa X về chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020 xác định: “Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm
giàu từ biển, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện
các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển
nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn”. Đây là định hướng
chiến lược hoàn chỉnh, đồng thời cũng là quan điểm chỉ đạo rõ ràng đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế biển Việt Nam từ trước tới nay.


2


Theo Quyết định 2190/QĐ-TTg ngày 24/12/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030, cụm cảng Bà Rịa - Vũng Tàu, thuộc
nhóm cảng biển số 5, là cụm cảng tổng hợp quốc gia, cửa ngõ quốc tế cho
hàng tổng hợp, tàu container 100 nghìn tấn, có khả năng thơng qua hàng
chục triệu tấn hàng hóa/năm. Đây là cơ sở để Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển
mạnh các loại hình dịch vụ hậu cần sau cảng (logistics), hình thành một
trung tâm logistics của khu vực. Theo các chuyên gia hàng đầu về cảng
biển, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có sơng Thị Vải - Cái Mép và sông Dinh, là
hai tuyến vận tải thủy quan trọng tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Với vị trí địa
lý thuận lợi, Bà Rịa - Vũng Tàu hội đủ điều kiện để trở thành điểm trung
chuyển hàng hóa và thực hiện các dịch vụ logistics của khu vực. Tiềm
năng, lợi thế về dịch vụ cảng, dịch vụ logistics sẽ ngày càng phát triển khi
các dự án quan trọng như: đường liên cảng Cái Mép - Thị Vải, quốc lộ 51
mở rộng, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Vũng
Tàu, đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hịa - Vũng Tàu và sân bay
Long Thành... được đầu tư đồng bộ. Tuy nhiên từ thực tế trong suốt nhiều
năm qua, Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ tập trung phát triển hệ thống cảng biển,
chưa quan tâm phát triển và khai thác hiệu quả các loại hình dịch vụ
logistics. Nhiều doanh nghiệp logistics của Tỉnh hiện chỉ đóng vai trị là
nhà cung cấp vệ tinh như cho thuê kho bãi, làm đại lý hải quan hoặc một
vài dịch vụ đơn lẻ trong chuỗi các hoạt động logistics. Hầu hết các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics còn nhiều hạn chế về nguồn nhân
lực và năng lực cạnh tranh. Việc ra đời và phát triển mạnh hệ thống cảng
biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó có hệ thống cảng nước sâu trên
sơng Thị Vải, tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển mạnh của các loại hình dịch
vụ logistics. Nhưng nếu dịch vụ logistics và dịch vụ cảng biển không được
quan tâm thích đáng, phát triển chậm và khơng theo kịp sự phát triển nhanh



3
của hệ thống cảng biển giai đoạn hiện nay thì Bà Rịa - Vũng Tàu không chỉ
bỏ lỡ cơ hội khai thác tiềm năng lĩnh vực phát triển quan trọng này mà mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng nâng cao tỷ trọng dịch vụ sẽ
không như mong muốn.
“Phải xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành đô thị cảng trung tâm của
cả nước. Kinh tế cảng sẽ là mũi nhọn đủ sức và đủ tầm tạo đột phá thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ cho Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng và tồn vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam nói chung trong giai đoạn tới”. Đây là sự chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhân chuyến thăm và làm việc tại
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 8 năm 2010.
Như vậy, Cảng biển Vũng Tàu với vai trò cảng cửa ngõ quốc tế khu vực
phía Nam của quốc gia, cảng loại 1A nên cần nghiên cứu, xây dựng những
điều kiện cơ bản về cơ sở hạ tầng, tổ chức quản lý, khai thác, dịch vụ tài
chính, ngân hàng và các dịch vụ chuyên ngành cần thiết khác để nâng cao
năng lực cạnh tranh, thu hút, thông qua lượng hàng trung chuyển quốc tế của
khu vực. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề “Dịch vụ logistics cảng biển tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu” làm luận văn tốt nghiệp khóa học thạc sỹ nhằm góp phần
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế của Tỉnh
đã đề ra cũng như của khu vực trọng điểm kinh tế phía Nam, nâng cao năng
lực cạnh tranh của xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, các sách chuyên khảo.
- Lý Bách Chấn, Nhập môn Logistics-Tài liệu dùng cho sinh viên
ngành kinh tế vận tải, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 2003.
- Dương Chí Dũng, Đinh Thị Mỹ Loan, Sổ tay kinh doanh Logistics,
Nxb Tài chính, Hà Nội, 2008.
- GS.TS Đồn Thị Hồng Vân (chủ biên), Logistics - Những vấn đề cơ
bản, Nxb Lao Động - Xã hội, 2010.



4
- Micheal Hugos, Tinh hoa quản trị chuỗi cung ứng. Nguyên bản:
Essentials of Supply Chain Management, Nxb tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh và
Tinh Văn Media. Tp. Hồ Chí Minh - 2010.
Thứ hai, các bài đăng tải trên các báo, tạp chí; các tham luận được
đăng trong các kỷ yếu hội thảo khoa học
- GS, TS. Đặng Đình Đào, TS. Vũ Thị Minh Loan, Một số vấn đề về
phát triển dịch vụ logistics ở nước ta, Tạp chí Thơng tin và Dự báo kinh tế-xã
hội, số 46 (10.2009).
- Trần Doãn Thọ, Thứ trưởng Bộ giao thông vận tải, Quy hoạch phát
triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030,
ban hành kèm theo tờ trình số 5213/TTr-BGTVT ngày 30/07/2009 gửi Thủ
tướng Chính phủ.
- TS. Nguyễn Thanh Thủy, Phát triển nguồn nhân lực trong khu vực dịch
vụ logistics Việt Nam, Tạp chí Viet Nam LOGISTICS, số 44, 45 (06, 07.2011).
- PGS.TS Trần Đình Thiên - Viện Kinh tế Việt Nam, Đô thị cảng biển
Bà Rịa - Vũng Tàu: Khởi động tái cơ cấu và tầm nhìn hiện đại hóa, Bài viết
Hội thảo “Bà Rịa - Vũng Tàu, Đô thị cảng hiện đại năm 2020”.
- TS. Lý Huy Tuấn - Viện Chiến lược và phát triển giao thông vận tải Bộ Giao thông vận tải, Chiến lược phát triển cảng biển, vận tải, logistics với
tầm nhìn đến năm 2050, Bài viết Hội thảo “Bà Rịa - Vũng Tàu, Đơ thị cảng
hiện đại năm 2020”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trình bày, đánh giá tác động của logistics đối với hiệu quả kinh tế cảng
biển và đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu. Đề xuất giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực và hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của logistics cảng biển của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích trên, luận văn phải giải quyết những nhiệm vụ sau:



5
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về logistics.
- Phân tích đánh giá hiện trạng và kế hoạch phát triển các ngành liên
quan đến hoạt động dịch vụ logistics.
- Phân tích vai trị, vị thế của ngành dịch vụ logistics nói chung và đối
với hoạt động khai thác cảng biển nói riêng.
- Xác định vai trị, vị thế và mục tiêu định hướng phát triển của hệ
thống cảng biển trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong chiến lược kinh tế
biển, phát triển kinh tế tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vị trí, vai trị
của logistics cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu giai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Hoạt động dịch vụ logistics cảng biển tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
- Nghiên cứu trực tiếp hệ thống cảng biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4.2.2. Về thời gian
- Thực hiện từ năm 2005 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà
nước về phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam và tầm nhìn đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp phân tích- tổng hợp;
thống kê, so sánh nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết. Ngoài ra, luận
văn cịn sử dụng các tài liệu điều tra, cơng trình nghiên cứu có liên quan.

6. Đóng góp khoa học của luận văn
Làm cơ sở để bố trí hợp lý kế hoạch phát triển các lĩnh vực liên quan
đến hoạt động logistics phù hợp với đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của


6
vùng, địa phương, đảm bảo mục tiêu thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã
hội và hội nhập kinh tế thế giới của tỉnh theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa, phù hợp với chiến lược kinh tế biển đến 2020 đã được xác định tại
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN CẢNG BIỂN VÀ DỊCH VỤ LOGISTICS
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS

1.1.1. Khái niệm và phân loại dịch vụ Logistics
1.1.1.1. Khái niệm về dịch vụ Logistics
Dịch vụ logistics đã xâm nhập vào nước ta khá lâu nhưng người Việt ta
chưa thật sự quen với thuật ngữ này, mặc dù trong các trang mục quảng cáo
về dịch vụ giao nhận, tuyển dụng nhân viên … có đề cập đến dịch vụ
logistics, nhân viên logistics …
Cách đây vài thế kỷ, thuật ngữ logistics được sử dụng trong quân đội
với tư cách là một cách thức tổ chức cung ứng tương đối giống “dịch vụ hậu
cần” trong các đơn vị quân đội ngày nay và đã từng được hoàng đế Napoleon

nhắc đến trong câu nói nổi tiếng “kẻ nghiệp dự bàn về chiến thuật, người
chuyên nghiệp bàn về logistics” để nhấn mạnh đến tầm quan trọng của dịch
vụ này. Sau này, dịch vụ hậu cần dần được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế,
được lan truyền từ châu lục này sang châu lục kia, từ nước này sang nước
khác, hình thành nên hệ thống dịch vụ hậu cần trên phạm vi toàn cầu.
Dịch vụ logistics đã phát triển rất nhanh chóng. Nếu giữa thế kỷ thứ 20,
rất hiếm doanh nhân hiểu được dịch vụ logistics là gì, thì cho đến ngày nay,
dịch vụ logistics được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công
cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản
xuất hàng hoá lẫn trong khu vực sản xuất dịch vụ.
Dịch vụ logistics hiện được các học giả, các nhà nghiên cứu định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau.
- Theo tài liệu của Uỷ ban Kinh tế và Xã hội châu Á-Thái Bình Dương
của Liên hiệp quốc (UNESCAP), dịch vụ logistics được coi “là việc quản lý


8
dòng trung chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất, thành phẩm
và xử lý các thơng tin liên quan,... từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ cuối cùng
theo yêu cầu của khách hàng.
- Theo tài liệu giảng dạy của trường Đại học Hàng Hải Thế Giới
(World Marintime Unviersity) “Dịch vụ logistics là quá trình xây dựng kế
hoạch, cung cấp và quản lý việc chu chuyển và lưu kho có hiệu quả hàng hóa,
dịch vụ và các thông tin liên quan từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ vì mục tiêu
đáp ứng nhu cầu của khách.
- Theo tạp chí Logisticworld: Logistics là một khoa học của việc hoạch
định tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động cung ứng hàng hóa và dịch vụ.
Ở đây, họ cho rằng dịch vụ logistics không phải chỉ là một hoạt động
mà nó bao gồm một chuỗi các hoạt động xảy ra trong một quá trình; việc tìm
nguyên vật liệu, hàng hố khơng phải chỉ ở một địa điểm mà phải tìm nó ở

một tập hợp các điểm cung ứng; khi có nguồn cung cấp phải dịch chuyển nó,
tập trung nó ở các kho và thong qua nhiều hoạt động sản xuất, chế biến để
mang đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
- Theo Hội đồng quản trị Dịch vụ hậu cần Hoa Kỳ (The US. Logistics
Administration Council) thì “Dịch vụ logistics là q trình thực hiện và quản
lý dịng lưu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ một cách hiệu
quả và tiết kiệm chi phí nhằm thoả mãn yêu cầu của khách hàng”.
Thực chất, dịch vụ logistics là một hình thức kết hợp các khâu của quá
trình sản xuất và tiêu thụ theo hướng tối ưu hố nhằm giảm bớt các chi phí
khơng cần thiết để hạ giá thành sản phẩm và đảm bảo giá cả cạnh tranh.
- Theo định nghĩa của tác giả Ma Shuo trong cuốn sách Logistics and
Supply Chain Management, thì “Dịch vụ logistics là q trình lưu chuyển
hàng hố từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua người bán buôn, bán
lẻ, đến nơi tiêu thụ cuối cùng thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”.


9
Định nghĩa này cho thấy, dịch vụ logistics không phải là một hoạt động
đơn lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên quan mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ
thống qua các bước nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm
tra, kiểm sốt và hồn thiện. Đây là q trình liên quan tới nhiều hoạt động
khác nhau trong cùng một tổ chức, từ xây dựng chiến lược đến các hoạt động
chi tiết, cụ thể để thực hiện chiến lược.
Ở Việt Nam, trong tài liệu Logistics-Những vấn đề cơ bản, NXB Lao
Động-Xã hội năm 2010 , PGS.TS. Đoàn Thị Hồng Vân đã định nghĩa một
cách khái quát: “Logistics là quá trình tối ưu hố về vị trí và thời điểm, vận
chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của chuỗi cung ứng qua
các khâu sản xuất, phân phối cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông
qua hàng loạt các hoạt động kinh tế”

Cũng cần nhấn mạnh rằng: Trước đây, các nước trên thế giới vẫn
thường sử dụng thuật ngữ “Logistics” để chỉ hệ thống dịch vụ hậu cần như đã
định nghĩa ở trên nên nó vẫn cịn khá xa lạ, mới mẻ đối với phần lớn người
Việt Nam. Do chưa tìm được thuật ngữ thống nhất, phù hợp nên nhiều người
đã dịch sang tiếng việt một cách khác nhau như: Dịch vụ tiếp vận, dịch vụ hỗ
trợ vận tải hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng, quản lý kho bãi…
- Tại kỳ họp thứ 7-Khoá XI-Quốc hội nước Cộng hồ XHCN Việt Nam
ngày 14/6/2005 đã thơng qua Luật Thương mại (sửa đổi năm 2005) trong đó
có quy định cụ thể khái niệm về dịch vụ logistics, tại điều 233-Mục 4-chương
VI của Luật Thương mại ngày 14/6/2005, quy định “Dịch vụ Logistics là hoạt
động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều
công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải
quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì; ghi ký mã
hiệu; giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa
thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.


10
Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để điều chỉnh hoạt động kinh
doanh các dịch vụ logistics của các doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc và
cũng là cơ sở quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định chính
sách đối với từng dịch vụ trong hệ thống dịch vụ logistics.
1.1.1.2. Phân loại dịch vụ logistics
Theo Điều 4 Nghị Định số 140/2007/NĐ-CP thì dịch vụ logistics được
phân loại như sau:
Thứ nhất, Các dịch vụ logistics chủ yếu; bao gồm:
- Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp Container.
- Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh
doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị;
- Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải

quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa;
- Dịch vụ bổ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp nhận, lưu kho và quản
lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong suốt cả chuỗi
logistics; hoạt động xử lý lại hàng hóa bị khách hàng trả lại, hàng hóa tồn kho,
hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa đó; hoạt động cho thuê
và thuê mua container.
Thứ hai, Các dịch vụ logistics liên quan đến vận tải, bao gồm:
- Dịch vụ vận tải hàng hải;
- Dịch vụ vận tải thủy nội địa;
- Dịch vụ vận tải hàng không;
- Dịch vụ vận tải đường sắt;
- Dịch vụ vận tải đường bộ;
- Dịch vụ vận tải đường ống.
Thứ ba, Các dịch vụ logistics liên quan khác, bao gồm:
- Dịch vụ kiểm tra và phân tích kỹ thuật;
- Dịch vụ bưu chính;


11
- Dịch vụ thương mại bán buôn;
- Dịch vụ thương mại bán lẻ, bao gồm cả hoạt động quản lý hàng lưu
kho, thu gom, tập hợp, phân loại hàng hóa, phân phối lại và giao hàng.
- Các dịch vụ hỗ trợ vận tải khác.
1.1.2. Đặc điểm của ngành dịch vụ logistics
- Logistics là tổng hợp các hoạt động của doanh nghiệp trên 3 khía cạnh
chính, đó là logistics sinh tồn, logistics hoạt động và logistics hệ thống.
+ Logistics sinh tồn có liên quan tới các nhu cầu cơ bản của cuộc sống.
Logistics sinh tồn đúng như tên gọi của nó là xuất phát từ bản năng sinh tồn
của con người, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của con người: cần gì, cần bao
nhiêu, khi nào cần và cần ở đâu. Logistics sinh tồn là bản chất và nền tảng của

hoạt động logistics nói chung.
+ Logistics hoạt động là bước phát triển mới của logistics sinh tồn và
gắn với toàn bộ quá trình và hệ thống sản xuất các sản phẩm của doanh
nghiệp. Logistics hoạt động liên quan tới quá trình vận động và lưu kho của
nguyên liệu đầu vào, đi qua và đi ra khỏi doanh nghiệp; thâm nhập vào các
kênh phân phối trước khi đi đến tay người tiêu dung cuối cùng.
+ Logistics hệ thống giúp ích cho việc duy trì hệ thống hoạt động. Các
yếu tố của logistics hệ thống bao gồm các máy móc thiết bị, nguồn nhân lực,
công nghệ, cơ sở hạ tầng, nhà xưởng…
Logistics sinh tồn, hoạt động và hệ thống có mối liên hệ chặt chẽ, tạo
cơ sở hình thành hệ thống logistics hồn chỉnh.
- Logistics hỗ trợ tồn bộ q trình hoạt động của các doanh nghiệp,
ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và
đến tay người tiêu dùng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào
của logistics với nhau hay tất cả các yếu tố logistics tuỳ theo yêu cầu của
doanh nghiệp mình. Logistics cịn hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp thông


12
qua quản lý di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp và bán
thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp.
- Logistics là sự phát triển cao, hoàn chỉnh của dịch vụ vận tải giao
nhận; vận tải giao nhận gắn liền và nằm trong logistics. Cùng với quá trình
phát triển của mình, logistics đã làm đa dạng hố khái niệm vận tải giao
nhận truyền thống. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu
rời rạc như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói hàng, tái chế, là thủ
tục thông quan… cho tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ kho đến kho. Từ chỗ
đóng vai trị đại lý, người được uỷ thác trở thành một chủ thể chính trong
các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước các
nguồn luật điều chỉnh. Ngày nay, để có thể thực hiện nghiệp vụ của mình,

người giao nhận phải quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải,
cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hoá
trong kho, phân phối hàng hoá đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử
để theo dõi, kiểm tra…. Như vậy, người giao nhận vận tải trở thành người
cung cấp dịch vụ logistics.
- Logistics là sự phát triển hoàn thiện dịch vụ vận tải đa phương thức:
Trước đây, hàng hố đi theo hình thức hàng lẻ từ nước xuất khẩu sang
nước nhập khẩu và trải qua nhiều phương tiện vận tải khác nhau, vì vậy
xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hoá là rất cao và người gửi hàng phải
ký nhiều hợp đồng với nhiều người vận tải khác nhau mà trách nhiệm của
họ chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà họ đảm nhiệm. Tới
những năm 60-70 của thế kỷ XX, cách mạng container trong ngành vận
tải đã đảm bảo an tồn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hố, là tiền đề
và cơ sở cho sự ra đời và phát triển vận tải đa phương thức. Khi vận tải đa
phương thức ra đời, chủ hàng chỉ phải ký một hợp đồng duy nhất với
người kinh doanh vận tải đa phương thức MTO. MTO sẽ chịu trách nhiệm
tổ chức thực hiện tồn bộ việc vận chuyển hàng hố từ khi nhận hàng cho


13
tới khi giao hàng bằng một chứng từ vận tải duy nhất cho dù anh ta không
phải là người chuyên chở thực tế. Như vậy, MTO ở đây chính là người
cung cấp dịch vụ logistics. Nhưng không phải là nhà vận tải đa phương
thức nào cũng là nhà cung cấp dịch vụ logistics thực thụ mà phải dựa trên
các tiêu chí sau”.
● Nhóm các tiêu chí về nguồn lực:
- Sự đầy đủ và sẵn sàng của phương tiện và thiết bị;
- Tình trạng của phương tiện và thiết bị;
- Khả năng xác định vị trí và tình trạng của hàng hố;
- Cơ sở vật chất;

● Nhóm các tiêu chí về đầu ra dịch vụ:
- Tốc độ cung cấp dịch vụ;
- Độ tin cậy của dịch vụ cung cấp (tính đúng giờ trong việc giao và
nhận hàng hố, thơng tin cung cấp chính xác…);
- Cung cấp dịch vụ với chất lượng ổn định;
- An tồn và an ninh của hàng hố (khơng thất thốt hư hỏng);
- Quy trình chứng từ đáng tin cậy (không mắc lỗi);
- Giá dịch vụ cạnh tranh;
● Nhóm các tiêu chí về q trình cung cấp dịch vụ:
- Thái độ và tác phong của nhân viên trong việc đáp ứng các yêu cầu
của khách hàng;
- Nhanh chóng giải đáp thắc mắc và đáp ứng các yêu cầu của khách hàng;
- Kiến thức về các nhu cầu và địi hỏi của khách hàng;
- Mức độ ứng dụng cơng nghệ truyền thông tin và truyền dữ liệu điện
tử trong dịch vụ khách hàng;
● Nhóm các tiêu chí quản lý:
- Trình độ và kỹ năng chun mơn của nhà quản lý và nhân viên, gồm
cả kỹ năng xử lý sự cố;


14
- Nhân viên thơng hiểu các nhu cầu và địi hỏi của khách hàng;
- Tiếp nhận và xử lý thông tin từ khách hàng; liên tục cải tiến các quy
trình khai thác hướng tới khách hàng.
Như vậy, trong giao nhận vận tải, logistics không phải là một dịch vụ
đơn lẻ mà luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm
các thủ tục, giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu
kho, lưu bãi, phân phát hàng hoá đi các địa điểm khác nhau, chuẩn bị cho
hàng hố ln ln sẵn sang ở trạng thái nếu có yêu cầu của khách hàng là
có thể đi ngay được. Chính vì vậy, khi nói đến logistics bao giờ người ta

cũng nói tới một chuỗi hệ thống các dịch vụ. Với hệ thống chuỗi dịch vụ
này người cung cấp dịch vụ logistics sẽ giúp khách hàng có thể tiết kiệm
được chi phí đầu vào trong các khâu vận chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân
phối hàng hố cũng như chi phí tương tự ở đầu ra bằng cách kết hợp tốt các
khâu riêng lẻ của hệ thống logistics.
1.1.3. Sự cần thiết phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam
Hiện nay, dịch vụ logistics đã và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới
cả ở quy mơ, trình độ, phạm vi hoạt động và hiệu quả mà nó đem lại cho nền
kinh tế các quốc gia và nền kinh tế toàn cầu.
Tuy vậy, ở Việt Nam, đây vẫn là lĩnh vực còn khá mới mẻ và phần lớn các
dịch vụ logistics chỉ đang được thực hiện ở các Công ty giao nhận, kho vận.
Theo thống kê, ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 1.000 cơng ty giao nhận
chính thức đang hoạt động, trong đó có khoảng 18% là công ty Nhà nước; 7% là
công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân; 10% các đơn vị giao
nhận chưa có giấy phép và 2% là các cơng ty có vốn đầu tư nước ngồi. Đa số
các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hậu cần đều có qui mơ vừa và nhỏ, chỉ có
một số doanh nghiệp tương đối lớn như: Vietrans, Viconship, Vinatrans…
Xét về mức độ phát triển có thể chia các cơng ty giao nhận Việt Nam
thành 4 cấp độ sau:


15
 Cấp độ 1: Các đại lý giao nhận truyền thống - các đại lý giao nhận
chỉ thuần túy cung cấp các dịch vụ do khách hàng yêu cầu. Thông th ường
các dịch vụ đó là vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ, thay mặt chủ hàng
làm thủ tục hải quan, làm các chứng từ, lưu kho bãi , giao nhận... ở cấp độ
này gần 80% các công ty giao nhận Việt Nam phải thuê lại kho và dịch vụ
vận chuyển.
 Cấp độ 2: Các đại lý giao nhận đóng vai trò là người gom hàng và cấp
vận đơn nhà (House Bill off Lading). Nguyên tắc hoạt động của những người

này là phải có đại lý độc quyền tại các cảng lớn để thực hiện việc đóng
hàng/rút hàng xuất nhập khẩu. Hiện nay, khoảng 10% các tổ chức giao nhận
Việt Nam có khả năng cung cấp dịch vụ gom hàng. Những người này sử dụng
vận đơn nhà như những vận đơn của hãng tàu nhưng chỉ có một số mua bảo
hiểm trách nhiệm giao nhận vận tải.
 Cấp độ 3: Đại lý giao nhận đóng vai trị là nhà vận tải đa phương
thức (Multimodal Transport Organizations - MTO). Khái niệm MTO được
định nghĩa là sự kết hợp từ 2 phương tiện vận tải trở lên. MTO ra đời để
đáp ứng dịch vụ giao nhận Door - To - Door, chứ không đơn giản chỉ từ
cảng đến cảng (Terminal - To - Terminal hoặc Port - To -Port). Trong vai
trò này, một số công ty đã phối hợp với công ty nước ngoài tại các cảng dỡ
hàng bằng một hợp đồng phụ để tự động thu xếp vận chuyển hàng hóa tới
điểm cuối cùng theo vận đơn. Tính đến nay, đã có hơn 50% các đại lý giao
nhận ở Việt Nam hoạt động như đại lý MTO nối với mạng lưới đại lý ở
khắp các nước trên thế giới.
 Cấp độ 4: Đại lý giao nhận trở thành nhà cung cấp dịch vụ logistics.
Đây là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập. Một số tập đồn dịch vụ hậu
cần lớn trên thế giới đã có văn phịng đại diện tại Việt Nam và thời gian qua


16
đã hoạt động rất hiệu quả trong lĩnh vực dịch vụ logistics như: Kunhe Nagel,
Schenker, Bikart, Ikea, APL, TNT, NYK, Maersk Logistics… Đã có những
liên doanh hoạt động trong lĩnh vực này như: First Logistics Development
Company (FLDC - Công ty liên doanh phát triển tiếp vận số 1). Chỉ trong
vòng hai năm trở lại đây, số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động dịch vụ
logistics ngày càng tăng, hàng loạt các công ty giao nhận đã đổi tên thành
công ty dịch vụ logistics.
Là nước đang xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực

và thế giới.
Với tư cách là thành viên của ASEAN, hàng năm, Việt Nam trao đổi
với các nước ASEAN một khối lượng hàng hóa rất lớn và giá trị trao đổi đạt
khoảng 3.870 triệu USD/năm. Việc tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
- Thái Bình Dương cũng là cơ hội và điều kiện để Việt Nam tăng khối lượng
và giá trị hàng hóa trao đổi, nhất là với các cường quốc kinh tế trên thế giới
như: Mỹ, Nhật, Canada…
Trước nhu cầu phát triển thương mại khu vực và thế giới ngày càng lớn
và nhu cầu sản xuất tiêu dùng trong nước ngày càng tăng, khối lượng hàng
hóa đưa ra trao đổi trên thị trường ngày càng lớn, việc phát triển hệ thống dịch
vụ logistics thương mại ở Việt Nam là hết sức cần thiết vì những lý do cơ bản
sau:
 Thứ nhất, hệ thống dịch vụ logistics nói chung và các dịch vụ
logistics thương mại nói riêng hiện nay ở Việt Nam được đánh giá là vừa yếu
về công nghệ và nguồn nhân lực, vừa thiếu về điều kiện vật chất. Sự phát
triển của các dịch vụ logistics thương mại sẽ là cơ sở quan trọng để đẩy nhanh
tốc độ lưu chuyển vật tư, hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước,


17
đồng thời cũng là yếu tố để nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh của
doanh nghiệp.
Nếu Việt Nam khơng chú trọng phát triển các dịch vụ logistics nói
chung và dịch vụ logistics thương mại nói riêng thì sẽ khơng thể đưa hàng hóa
đến tay người tiêu dùng trong và ngồi nước một cách nhanh chóng và hiệu
quả được.
Hay nói cách khác, phát triển dịch vụ logistics thương mại ở Việt Nam
hiện nay là hết sức cần thiết vì hệ thống dịch vụ logistics của ta hiện nay chưa
đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội đất nước và càng chưa
đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

 Thứ hai, xuất phát từ mục tiêu tăng cường hội nhập kinh tế khu vực
và quốc tế mở rộng quan hệ trao đổi hàng hóa với nước ngồi, Việt Nam luôn
mong muốn vươn lên để khắc phục sự tụt hậu về kinh tế và khoa học công
nghệ, tận dụng tối đa những cơ hội thuận lợi do hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế mang lại, phát huy hết tiềm năng, thế mạnh về chính trị và địa lý để
nhanh chóng phát triển dịch vụ logistics.
Hiện nay, Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước ở mọi ngành kinh tế, trong đó có lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là các
dịch vụ hậu cần phục vụ phát triển thương mại.
Những thành công trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa các
ngành kinh doanh dịch vụ sẽ là tiền đề để các dịch vụ giao nhận, vận chuyển,
kho bãi, dịch vụ khách hàng…có được cơ sở vật chất mạnh, có được khoa học
cơng nghệ hiện đại để phát triển. Đây chính là động lực, là cơ sở quan trọng
để thúc đẩy việc tăng khối lượng hàng hóa lưu thơng trong và ngồi nước,
làm tăng hiệu quả phục vụ người tiêu dùng.
 Thứ ba, phát triển dịch vụ logistics, đặc biệt là dịch vụ logistics
thương mại, Việt Nam sẽ có khả năng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế


18
và sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường trong nước và thị trường nước
ngồi. Như đã phân tích ở trên, trong q trình lưu chuyển của hàng hóa từ
nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, sự tham gia của các dịch vụ vận chuyển, dịch vụ
giao nhận, dịch vụ kho bãi, dịch vụ dự trữ…đều tạo thêm giá trị gia tăng cho
hàng hóa.
Khi dịch vụ hậu cần phát triển, hàng hóa được lưu chuyển với tốc độ
nhanh, được đảm bảo nguyên vẹn cả số lượng và chất lượng đến tay người
tiêu dùng sẽ làm cho các chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho bãi, chi phí giao
nhận… được tiết kiệm nhất. Đây là yếu tố quan trọng để hạ giá thành sản
phẩm, kích thích tăng khối lượng hàng hóa tiêu dùng cả trong và ngồi nước.

Trên thực tế, với những hàng hóa cùng chủng loại, cùng cấp độ chất
lượng, người tiêu dùng sẽ lựa chọn mua của người cung cấp nào có giá cả hàng
hóa thấp hơn, có các dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng toàn diện hơn.
Hiện nay, phát triển dịch vụ hậu cần, đặc biệt là dịch vụ logistics
thương mại đang là mối quan tâm không chỉ của các cơ quan quản lý nhà
nước mà còn là mối quan tâm chung của mọi doanh nghiệp. Lý do cơ bản của
vấn đề là họ đều xác định được rằng phát triển dịch vụ logistics thương mại,
Việt Nam sẽ có đủ điều kiện để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và của
doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế.
 Thứ tư, phát triển dịch vụ logistics sẽ tạo thêm cho Việt Nam cơ hội
để tham gia vào hoạt động dịch vụ logistics khu vực và toàn cầu.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, q trình lưu chuyển của hàng
hóa, nhu cầu trao đổi hàng hóa đã đạt quy mơ tồn cầu, nó địi hỏi các dịch vụ
hậu cần thương mại như: Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ giao nhận, dịch vụ kho
bãi…cũng được cung cấp trên phạm vi toàn cầu.
Nhiều cơng ty, tập đồn kinh tế kinh doanh dịch vụ logistics thương
mại đã hình thành, phát triển, có các chi nhánh, đại diện ở nhiều nước trên thế


19
giới. Các cơng ty, tập đồn này có năng lực tài chính lớn và có khả năng cung
cấp dịch vụ hậu cần thương mại trên phạm vi toàn cầu.
Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như vậy, nếu các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ logistics thương mại ở Việt Nam khơng tự khẳng định
được vị trí của mình thì sẽ bị loại khỏi cuộc chơi.
Ngược lại, nếu các doanh nghiệp này thích ứng nhanh với kinh tế thị
trường, tăng cường đầu tư thiết bị, công nghệ để phát triển dịch vụ logistics,
tăng cường đấu tranh giảm chi phí ở từng khâu, từng lĩnh vực hoạt động, tăng
cường nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ…thì phát triển dịch vụ logistics
sẽ làm tăng thêm cơ hội để các doanh nghiệp có thể hội nhập và tham gia vào

hoạt động dịch vụ hậu cần khu vực và tồn cầu.
Nhìn chung, hiện nay Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Việc tăng nhanh khối lượng và giá trị hàng hóa trao đổi ln
đi cùng với nhu cầu phải có hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ
hậu cần thương mại đủ mạnh về năng lực tài chính, hiện đại về thiết bị cơng
nghệ và hiệu quả trong quá trình hoạt động.
Phát triển dịch vụ logistics hiện đang trở thành nhu cầu cần thiết nhằm
phục vụ q trình lưu chuyển hàng hóa cả trong và ngoài nước một cách hiệu
quả. Tuy nhiên, đây cũng là bài tốn khơng dễ dàng trong việc tìm lời giải nếu
các doanh nghiệp Việt Nam khơng có khả năng thích ứng nhanh với kinh tế
thị trường và điều kiện hội nhập mặc dù ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới
kinh tế, dịch vụ logistics đang bắt đầu được nhìn nhận như một công cụ sắc
bén đem lại thành công cho doanh nghiệp.
1.2. CẢNG BIỂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DỊCH VỤ LOGISTICS

1.2.1. Mối quan hệ hữu cơ giữa cảng biển và dịch vụ logistics
Cảng biển là đầu mối vận tải quan trọng, là nơi tập trung, kết nối tất cả
các phương tiện vận tải: đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển,


20
đường hàng không và đường ống. Năng lực hệ thống cảng container đóng
vai trị quyết định đối với sự phát triển của dịch vụ logistics. Năng lực hệ
thống cảng container của một quốc gia được hiểu là khả năng xếp dỡ, thơng
qua container của quốc gia đó. Nói cách khác, năng lực hệ thống cảng
container của một quốc gia là tổng năng lực của tất cả các cảng container
của quốc gia đó.
Các nhân tố chính ảnh hướng đến năng lực hệ thống cảng container bao
gồm: cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống cảng container; cơ sở hạ tầng kết
nối với hệ thống cảng; nguồn nhân lực cho phục vụ vận hành cảng; cơ chế

quản lý và khai thác cảng.
Cảng container là cơ sở hạ tầng quan trọng để triển khai các họat
động logistics. Từ đây hàng hoá được chuyển tải từ phương tiện vận tải
biển sang các phương tiện vận tải khác và ngược lại hoặc được lưu kho, lưu
bãi hay được thu gom, chia tách, đóng gói, bao bì, nhãn mác, để vận
chuyển đến nơi cuối cùng. Rõ ràng các hoạt động diễn ra tại đây bao gồm
hầu hết các hoạt động trong chuỗi dịch vụ logistics. Việc phát triển cảng
container không những thúc đẩy xuất khẩu, phát triển ngọai thương mà còn
hỗ trợ trực tiếp cho họat động logistics. Vì vậy trong một chừng mực nào
đó, có thể nói cảng container là điểm triển khai quan trọng của dịch vụ
logistics. Ngược lại, khi bàn về dịch vụ logistics người ta thường đề cập nhiều
đến vận tải đa phương thức.
Vận tải đa phương thức chính là một mắt xích quan trọng trong chuỗi
dịch vụ logistics. Sự phát triển của hình thức vận tải này gắn liền với hình
thức vận tải hàng hóa bằng container. Vận chuyển container bằng đường biển
đã được thực hiện ở nước ta từ những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ trước.
Hình thức vận tải này đã dần trở nên phổ biến, đặc biệt là đối với hàng nhập
khẩu (chiếm hơn 90%). Đây là hình thức vận tải có nhiều ưu điểm, như chi phí


21
vận tải thấp, độ an tòan cao, thân thiện với mơi trường, có thể kết hợp những
kiện hàng nhỏ thành kiện hàng lớn, thuận tiện cho việc xếp dỡ, chuyên chở, và
bảo quản từ nơi gửi đến nơi nhận hàng. Tuy nhiên, để phát triển hình thức vận tải
bằng container địi hỏi phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng vận tải phù hợp, trong
đó quan trọng nhất là hệ thống cảng biển. Các cảng biển này phải có bến cho tàu
container và trang thiết bị chuyên dùng để xếp dỡ, trung chuyển hàng container,
kho bãi để phục vụ đóng hàng hay rút hàng từ container,...
Khi xem xét vấn đề vận tải và các họat động logistics, người ta không
thể không đề cập đến năng lực của hệ thống cảng container. Bản thân dịch vụ

logistics là một ngành công nghiệp dịch vụ nhưng họat động của nó lại lại phụ
thuộc vào năng lực của hệ thống cảng biển, đặc biệt là cảng container. Ngược
lại các hoạt động của ngành dịch vụ logistics chính là động lực để nâng cao
năng lực hệ thống cảng container.
1.2.2. Cảng biển là cơ sở hạ tầng quan trọng để
phát triển dịch vụ logistics
Dịch vụ logistics chính là sự phát triển cao và là sự phát triển tòan diện
của vận tải đa phương thức. Tòan bộ quá trình vận động của nguyên vật liệu,
qua sản xuất tới lưu thông đáp ứng nhu cầu thị trường, phục vụ khách hàng
đều gắn liền với họat động vận tải đa phương thức. Trong vận tải, cơ sở hạ
tầng đóng vai trị rất quan trọng bao gồm: hệ thống cảng biển, sân bay, đường
sắt, đường ô tô, đường sông và các cơng trình, trang thiết bị khác như hệ
thống kho bãi, phương tiện xếp dỡ, hệ thống thông tin liên lạc. Cơ sở hạ tầng
là một trong những bộ phận cấu thành họat động cung ứng dịch vụ logistics.
Trong các yếu tố cấu thành chuỗi logistics thì vận tải là khâu quan trọng nhất.
Trong tổng chi phí vận tải thì chi phí vận tải bằng đường biển chiếm tỷ trọng
lớn nhất, đơn giản bởi vì vận tải bằng đường biển có những ưu điểm vượt trội
mà các phương thức vận tải khác khơng có được như chi phí thấp, vận tải với


22
khối lượng lớn, thân thiện với môi trường. Thực tiễn phát triển dịch vụ
logistics ở các nước trên thế giới cho thấy, ngành dịch vụ này chỉ có thể phát
triển trên nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc, đặc biệt là cơ sở hạ tầng cảng
biển. Nói cách khác, cảng biển đóng vai trị rất quan trọng, quyết định sự phát
triển của ngành dịch vụ logistics.
1.2.3. Cảng biển giúp ngành logistics giảm chi phí, tăng khả năng
cạnh tranh
Sự phát triển của cảng biển giúp ngành logistics giảm chi phí, tăng khả
năng cạnh tranh và nâng cao chất lượng dịch vụ. Logistics là q trình tối ưu

hóa về vị trí và thời gian, lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu
của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng. Đối với dịch vụ
logistics trọn gói "Door to door" đòi hỏi nhà cung cấp dịch vụ (Logistics
Service Provider) phải đứng ra tổ chức nhận hàng tại cơ sở của từng người
bán và gom hàng lẻ thành nhiều đơn vị gởi hàng (consolidation) tại các kho
(CFS) trước khi chúng được gửi đến nơi đến trên các phương tiện vận tải
khách nhau. Tại nơi đến, nhà cung cấp dịch vụ logistics sẽ tiến hành tách các
đơn vị hàng gửi đó (deconsolidation) từ các lơ hàng lớn thành các kiện hàng
phù hợp để phân phối đến từng người mua. Nhà cung cấp dịch vụ logistics
trong trường hợp này không chỉ thực hiện cơng đọan giao nhận, vận tải mà
cịn phải làm các công việc như: lưu kho, dán nhãn, bao bì, đóng gói, th
phương tiện vận thay cho chủ hàng. Để cả quá trình này họat động một chuỗi
các cung đoạn để làm thủ tục hải quan một cách nhịp nhàng, hiệu quả thì
ngịai khả năng tổ chức thực hiện của nhà cung cấp dịch vụ còn cần phải có
một hệ thống cảng biển phù hợp để đáp ứng cho các họat động này. Với một
cảng biển tốt sẽ giúp tiết kiệm được nhiều chi phí cho cả quá trình tổ chức
thực hiện dịch vụ logistics.


23
Ví dụ, nếu cảng biển được xây dựng ở vị trí thuận lợi (có thể kết nối
trực tiếp với vận tải đường biển, đường sông, đường hàng không, đường
bộ, đường sắt, đường ống) sẽ giúp giảm bớt chi phí về vận tải do có thể
kết hợp tốt vận tải đa phương thức. Các thiết bị chuyên dùng hiện đại của
cảng sẽ giúp rút ngắn thời gian xếp dỡ hàng, đồng nghĩa với chủ tàu sẽ
giảm bớt được chi phí khác.Việc giảm bớt chi phí lưu kho, lưu bãi, tồn trữ
phí neo đậu làm hàng. Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử trực tuyến (EDI)
sẽ giúp giảm bớt chi phí về thủ tục giấy tờ, giúp các nhà cung cấp dịch vụ
logistics kiểm sóat và quản lý được thơng tin về hàng hóa mọi lúc mọi
nơi. Riêng đối với cảng mở sẽ giúp giảm bớt các chi phí về thủ tục hải

quan, thuế xuất nhập khẩu. Tất cả những yếu tố này sẽ giúp ngành dịch vụ
logistics giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao chất
lượng dịch vụ.
1.2.4. Vai trò và những nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ logistics
cảng biển
1.2.4.1. Vai trò của dịch vụ logistics cảng biển
Một là, đối với nền kinh tế.
+ Tỷ trọng giá trị dịch vụ trong GDP tăng.
Kết quả của nhiều cơng trình nghiên cứu cho thấy, doanh thu dịch vụ
nói chung hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của mỗi quốc gia.
Số liệu thống kê năm 2002 của Ngân hàng thế giới cho thấy: Tỷ trọng
dịch vụ trong GDP của các nước OECD thường vào khoảng 60 - 70%, điển
hình là Hoa Kỳ có tỷ trọng giá trị dịch vụ chiếm tới 80% GDP. Nhờ sự đóng
góp to lớn này của lĩnh vực dịch vụ, nền kinh tế của các nước phát triển trở
nên linh hoạt hơn và tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn, tạo cơ sở vững chắc cho
phát triển và điều hành hoạt động kinh tế.


24
Theo số liệu của Liên hiệp quốc, tỷ trọng dịch vụ trong GDP tại các
nước đang phát triển trung bình khoảng 40 - 50%. Năm 2000, Malaysia có tỷ
trọng giá trị dịch vụ trong GDP là 43,60%, của Thái Lan chiếm khoảng 50%,
Inđônêxia chiếm khoảng 40%. Tỷ lệ giá trị dịch vụ trong GDP của các nước
đang phát triển tuy có thấp hơn so với các nước phát triển nhưng lại là con số
lớn nhất trong cơ cấu GDP của các nước này.
Trong lĩnh vực dịch vụ nói chung, dịch vụ logistics là nhóm dịch vụ có
giá trị lớn hơn cả. Người ta đã thống kê rằng: Để sản xuất ra một sản phẩm có
giá trị 100đ thì phải chi 10đ cho dịch vụ vận chuyển, 10đ cho dịch vụ quảng
cáo, 30đ cho các dịch vụ liên quan đến sản xuất, 20đ cho nguyên vật liệu và
còn lại là các chi phí khác…

Là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau, dịch vụ logistics xuất hiện ở gần như tồn bộ q
trình sản xuất, lưu thơng và phân phối hàng hóa. Cũng chính vì vậy, dịch
vụ logistics có vai trò hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ cho phát triển
kinh tế nói chung và đối với hoạt động sản xuất hàng hóa nói riêng. Hàng
loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi các dịch vụ
logistics, theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản phẩm và
điều quan trọng là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng lẫn người sản
xuất, giúp thỏa mãn nhu cầu của mỗi người. Tài liệu của trường Đại học
Quốc gia Michigan (Hoa Kỳ) cho thấy, giá trị các dịch vụ logistics đã
chiếm từ 10 đến 15% GDP của hầu hết các nước lớn ở Châu Âu, Bắc Mỹ
và một số nền kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (theo Rushton Oxley &
Croucher, 2000). Vì vậy, nếu các dịch vụ logistics hoạt động có hiệu quả sẽ
góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của toàn bộ nền
kinh tế.


25
Riêng tại nước Mỹ, cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, người ta đã
tính tốn được rằng: Hàng năm, nền công nghiệp Mỹ chi khoảng 700 tỷ USD
cho việc vận chuyển vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất và lĩnh vực dịch vụ
đã chiếm trên 80% GDP của Hoa Kỳ với những ngành dịch vụ chủ yếu như:
Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ viễn thông…
Tại nước Pháp, dịch vụ cũng là ngành có đóng góp lớn nhất vào tổng
GDP của nước này với mức trên 70% (năm 1999), 67,2% năm 2001 và đang
có xu hướng gia tăng. Dịch vụ vận chuyển là ngành có đóng góp lớn cho nền
kinh tế nước Pháp vì ngành này ln đạt tốc độ tăng trưởng cao và tạo ra sản
lượng rất lớn cho nền kinh tế.
Ở Nhật Bản, lĩnh vực dịch vụ đóng góp tới 66% GDP năm 2000 và
đây là tỷ trọng cao hơn hẳn so với các lĩnh vực kinh tế khác. ở Thái Lan,

giá trị dịch vụ chiếm tới 50% tổng sản phẩm quốc nội nước này và có đóng
góp rất lớn vào cán cân thương mại. Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ tư vấn
pháp lý, dịch vụ du lịch…là những ngành có vai trị quan trọng đối với nền
kinh tế Thái Lan.
Đóng góp của lĩnh vực dịch vụ trong tổng GDP của Malaysia năm 2001
đã đạt mức 42%. Các lĩnh vực dịch vụ đã đóng góp nhiều cho sự phát triển của
nền kinh tế nước này là: Dịch vụ vận tải hàng không, dịch vụ viễn thông…
+ Tạo thêm nhiều số lượng việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Cùng với vai trò ngày càng trở nên quan trọng trong phát triển kinh tế
nói chung và hoạt động thương mại nói riêng, dịch vụ logistics đang thu hút
lực lượng lao động ngày càng lớn, đặc biệt ở các nước phát triển.
Do lĩnh vực dịch vụ giữ vị trí sống cịn trong nền kinh tế Hoa Kỳ nên
lực lượng lao động trong lĩnh vực này chiếm tới 80% tổng lực lượng lao động
của nước Mỹ (với 95 triệu người năm 2000). Số người lao động trên được bố


×