Tải bản đầy đủ (.pdf) (396 trang)

Bảo tồn văn hóa lễ hội Thánh Gióng: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.19 MB, 396 trang )

CĂN BẢN TRIẾT LÝ NGƯÒI ANH HÙNG
PHÙ ĐỔNG VÀ HỘI DÓNG


T rầ n Q u ố c Vượng*

Triết lý xã hội về người anh hùng Phù Đổng, theo tôi đã được
kêt tinh trong đơi câu đối tuyệt vịi của Cao Bá Quát, danh sĩ Hà
Nội - Bắc Hà - Việt Nam nửa đầu th ế ky XIX:
Phá tặ c đ ả n hiềm tam tu ế vẫn
Đ ằn g không do h ận cửu thiên cơ

(Đánh giặc, lên ba hiểm đã muộn
Lên mây từng chín giận chưa cao).
Đó là một triết lý lãng mạn mà cao đẹp, cái tinh thần lãng
mạn cao đẹp của sĩ khí nhà nho bình dân cuổì m ùa Qn chủ tiếp
nối, ghép nơì vối tinh thần lãng mạng cao đẹp của huyền thoại,
huyền tích và huyền sử trăm ngàn năm trước, của kỷ nguyên lịch
sử nghìn xưa... Cái nhìn sinh thái - nhân văn về thời gian hội
Dóng theo tơi, đã được kết tinh trong câu nói dân gian vần vè, giản
dị mà đạt lý:
L âm râ m hội K h á m , u ám hội D ău, vở đầu hội D ó n g .

(Mồng bảy (tháng tư) hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng
Sức cuốn hút văn hố như nam châm của hội Dóng, theo tơi, đã'
(được kết tinh trong câu ca dao dân gian, hồn nhiên mà thâu tình:

435



A i ơi m ồng chín th á n g tư
K hơng đ i hội D óng củng h ư m ấ t đời!.

Câu chuyện về người anh hùng kỳ lạ này có một cấu trúc đ ố i
ứng, vối những nhân tơ', những chi tiết tương phản và vì tương

phản mà được tơn cao, nổi bật hẳn lên:
- Ơng là con của mẹ Đất (mẹ trồng lúa, trồng cà) và cha Trịi
(mưa dơng, gió giật). Là con của mẹ thực và cha ảo (người khổng lồ
vũ trụ).
v ể mặt xã hội, so vối người cha, mẹ là một nhân vật lịch sử
có trưổc, đích thực, tự nhiên, vơ điều kiện. Cịn cha là một nhân
vật lịch sử có sau, chưa chắc đã đích thực, khơng phải tự nhiên (vì
cha khơng đẻ) và có điều kiện (điều kiện là “giơng cha”). Vì th ế xuất
thân người anh hùng tuy “ảo” mà rất “thực”, v ề mặt này thân phận
người anh hùng Phù Đổng huyền sử rất giống (cùng cấu trúc) vối
những người anh hùng lịch sử trong câu chuyện dân gian: Đinh Bộ
Lĩnh, Lê Hồn, Lý Cơng u ẩ n ... (Lý Công u ẩ n từng ở chùa Kiến Sơ
hương Phù Đổng và là ngưòi sáng lập nhà Lý và khai sáng Phù
Đổng từ một thổ thần thành một thiên vương. Chính ơng đã tự hố
thân vào nhân vật Phù Đổng).
- Người anh hùng nhỏ tuổi mà sai khiến được người lớn.
- Người anh hùng con bà mẹ nghèo mà sai khiến được triều đình.
- Người anh h ù n g tuổi nhỏ mà ch í lớn, như tính cách Trần

Quốc Toản và biết bao th ế hệ trẻ nhỏ anh hùng từ nghìn xưa cho
đến nay. Cho nên sự tích Phù Đổng tuy rất ảo mà lại rất thực; và
chính lối cấu trúc tương phản (contrasta) mà đối ứng (binaire) đó
đã làm nên sức cuốn hút đến say mê của biết bao th ế hệ người V iệt
Nam: ‘T ế u thắng mạnh, nhỏ thắng lớn”, bình thường mà phi

thường, dân thưòng mà anh hùng.
Phù Đổng là biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, biểu
tượng của chính Việt Nam, của cả Việt Nam anh hùng, bởi vậy tơi
đã nói đến một h ằn g s ố P hù Đ ổng của lịch sử tuổi trẻ Việt Nam và
riêng về lịch sử đấu tranh chông ngoại xâm, thì quả thật có một

436


pìtep biện chứng Phù Đổng Việt N am mà nhiều nước lớn. nước

mạnh khơng lường hết được, khơng lưịng trước được.
Câu trúc đôi ứng của câu chuyện đậm đà sắc thái vàn hố
dân gian Việt Nam này cịn thể hiện ở mơtíp vũ khí đánh giặc:
R oi s ắ t và g ậ y tre ngà.

Và ở chi tiết này cũng vậy, roi sắt là hữu hạn, gậy tre là vơ
cùng, roi sắt rồi cũng gẫy, tre đằng ngà thì cứ còn mãi mãi... Roi sắt
là của vua quan sai rèn cho Phù Đổng, tre đằng ngà là của tự nhiên,
của dân trồng lên theo tinh thần trường tồn đánh giặc:
Thù n ày m ã i m ã i còn sâu
T rồng tre nên g ậ y g ặ p đâu đán h què\

Roi sắt cũng như vua quan, là cái nhất thời, tre ngà cũng
như nhân dân là muôn thuở trường tồn.
Người anh hùng đích thực là người an h hùng vô d a n h và
mãi mãi vô danh. Lớn lên “như thổi” trong gian lao vì nạn nước và
lớn lên là để cứu nước. Cứu nước xong, thì biến đi chứ khơng ở lại
đế’ kể cơng, cầu danh, như con em người dân thường, khi có giặc thì
đánh giặc; giặc tan, lại trở về làm dân, trở về với dân, vơ tư vì

nghĩa lớn... Vơ danh m à tên tuổi vẫn để đời. Đấy là biện chứng của
lịch sử.
-

Trong lễ hội làng Dóng tháng tư mồng Chín, khơng hề có

hình tượng Phù Đổng (mà chỉ có hình tượng con ngựa Dóng). N hân
vật Phù Đổng khơng h ề hiện diện trong lễ thức hội Dóng (mà lại có
tới 28 nhân vật tướng giặc Ân). Ây th ế nhưng mà Phù Đổng và
chiên công của người anh hùng vẫn là cốt lõi trung tâm, độc đáo
của đám rước ngày hội Dóng. Nghệ thuật Ẩ n mà HIỆN đến th ế thì
thực tài tình.
ở đầu câu chuyện, ta đã thấy hiển lộ cấu trúc đối ứng - tương
phản (nhỏ/lớn). Đến cuối câu chuyện, ta vẫn phát hiện được cấu
trúc đối ứng - tương phản:
Ơng Dóng cưỡi ngựa sắt bay lên tròi.

437


Áo giáp còn mắc trên cành cây. cở i áo lưng chừng núi Sóc.
Và “những vết chân ngựa Dóng” cịn in hằn trên mặt Đất, mãi
mãi in sâu trong lòng Đất, trong lòng Người, trong lòng lịch sử...
như chứng cứ mn đời khơng phai của kỳ tích anh hùng...
Đấy, theo tôi, cấu trúc thực mà vô thức của câu chuyện người
anh hùng làng Dóng được ghi trong sách vở và được kể trong dân
gian lưu truyền đến nay là như vậy: Một cấu trúc ĐƠI ỨNG
(Structure binaire) hay có người gọi đó là nghệ thuật VANG và
BĨNG, làm nên sức hấp dẫn của câu chuyện thần kỳ.
*

*

*

Từ sự phát hiện ra cấu trúc đó mà minh giải các mơtíp tạo
thành chủ để câu chuyện, ta ngày càng hiểu thêm căn bản triết lý
ngưòi anh hùng Phù Đổng. Bằng trực cảm hay bằng linh giác,
danh sĩ Cao Bá Quát đã viết được đôi câu đối “thần cú” về TRIÊT
LÝ NHÂN SINH PHÙ Đ ổN G . Nhưng khoa học hôm nay thì thích
lý sự và cần lý sự.
Điều quan trọng khi bắt tay lý giải câu chuyện này, cũng
như mọi câu chuyện dân gian khác, huyền tích, huyền thoại,
huyền sử, Folklore nói chung, theo ý tơi, là sự cần thiết phải thấy
rằng CON NGƯỜI, từ xưa đến nay, ln ln có 2 th ế giới:
- Một th ế giớ i thực (Monderéel) “sông ở đời”, hàng ngày...
- Một th ế giớ i nhữ ng biểu trư n g (Monde des R eprésantations)
mà văn hố, văn nghệ nói chung, Folklore nói riêng, chính là một
hệ thống những biểu tượng, những chuẩn mực, những giá trị,
những “mã” (codes, mã số, m ật mã)... đòi hỏi nhà nghiên cứu phải
giải mã... “V ết chân (người khổng lồ) vừa tày năm gang”,. “Ba năm
chẳng nói chẳng cười trơ trơ”, “ngựa sắt”, “28 tướng cưòng nữ
nhung”, “Ba ván thuận, ba ván nghịch” “làng áo đỏ”, “làng áo đen”,
cái nghĩa thực, còn mang một nghĩa hàm ẩn khác, đòi hỏi chúng ta
phải giải mã để hiểu được cái “thông điệp” (m essage) mà người
xưa, qua câu chuyện thần kỳ, muôn truyền đạt lại cho ngày sau...

438


Mn hiểu thơng điệp, thì cần “giải ảo hiện thực” (désenchanter,

déíaire le Réel) các huyền tích, huyên sử vể thánh Dóng...
*
*

*

Mùa thu 86 và xuân 87, tỏi đã đi thăm lại hầu hết những di
tích vật chât có liên quan đên câu chuvện ơng D óng và nghĩ suy lại
vê hiện thực lịch sử Việt Nam được xạ ảnh trong huyên thoại
Dóng.
Về thời g ia n có sự chênh giữa thời gian hội Dóng và thịi gian

huyền tích Dóng. Cũng như có sự chênh, vênh giữa tích truyện
thánh Dóng và lễ hội Dóng. Đó là chuyện thường tình của Folklore
nói chung.
H ội đền Sóc Sơn - mà có người gọi là hội Dóng đền Sóc diễn

ra vào ngay mồng sáu tháng giêng lịch trăng, trùng hợp với hội c ổ
Loa đền vua Thục, hội Mê Linh đền Hai Bà, hội Đu Đuổm đền
Dương Tự Minh (ở Bắc Thái)... “Thánh” ở đây vốn là Sóc Thiên
Vương, tướng trấn phương Bắc, muộn màng sau th ế kỷ X mới được
đồng nhất với thánh Dóng. Phù Đổng vốn là “Xung Thiên Thần
Vương” của Lý. Hội đền Sóc, đó là hội xuân, một loại hình hội m ù a
Việt N am .
Triết lý hội xuân cản bản là triết lý PHỔN THựC: Sự gặp
gõ. giao duyên, giao phối gái trai, ở hội đền Sóc Sơn có lưu hành
rộng rãi một hiện vật m ang tính biểu tượng mà dân gian vùng đó
gọi là cái hoa tre h ay “chân giò” heo và được giải thích một cách
hữu thức muộn m àng là chiếc roi ngựa của thánh Dóng (vọt tre
được vót tạo thành một túm xơ ở một đầu). Thật ra, dưối mắt

nhìn của một nhà dân tộc học, như khi nhìn chiếc đũa bông cắm
trên bát cơm đặt trên quan tài cúng người chết, giáo sư Từ Chi và
chúng tôi đã phát hiện thấy ngay rằng đó là biểu tượng DƯƠNG
VẬT (Linga) cũng như chiếc NÕ trong cặp đôi NÕ NƯỜNG
(dương vật và âm vật, Linga và Ioni) trong hội Xuân DỊ Nậu
(Vĩnh Phúc) và nhiều nơi khác.

439


Sau khi lễ thánh, tục giành cướp hoa tre ở đây diễn tả khơng
khác gì lệ “cướp kén” (NÕ NƯỜNG) ở DỊ Nậu. Ngay hội CHÙA
HƯƠNG tháng hai khi trước vẫn mang triết lý hội xuân với nội
dung tín ngưỡng “vào động cầu con” (động Hương Tích với những
thạch nhũ được biến thành biểu tượng Linga (“Cậu”) và Ioni (“Cô”).
H ội D óng tháng tư mồng chín lịch trăng là hội kết thúc các

hội xuân, mùa nông nhàn, để bưốc vào mùa làm ruộng, vụ mùa
tháng tư, là đầu mùa mưa Việt Nam, đầu mùa làm ăn ở vùng đồng
mùa châu thổ Bắc Bộ ngày xưa. Đầu tháng tư, đầu mùa mưa miền
Bắc thường có dơng. Đấy là bằng cớ cho huyền tích ơng Đổng về hái
cà. Cao Huy Đỉnh có lý khi gắn các tên Đổng, Dóng với dơng. Tiếp
nối dịng suy nghĩ đó của bạn mình, tơi đã từng mệnh danh hội
Dóng là tết m ưa dơng. Tiến hành hội Dóng là tn theo một nghi lễ
nơng nghiệp - như tết PiMay của Lào, ChôChnăm Thmây của
Cămpuchia (khoảng giữa tháng tư dương lịch). Đó là tín ngưỡng
CẦU MƯA. ở Lào là nghi thức té nưốc; ỏ hội Dóng là nghi thức
MÚC NƯỚC và RƯỚC NƯỚC về đền tế thần, ngày mồng tám. Tôi
cho rằng tết mưa dông tháng tư mở đầu vụ mùa và tết cơm m ới
tháng mười kết thúc vụ mùa là hai nghi lễ nông nghiệp vào loại cổ

nhất của cư dân Việt cổ trồng lúa nước: Như GS. Đào Thế Tuấn đã
chứng minh từ đầu thập kỷ 60 của th ế kỷ XX, cây lúa trồng xưa
nhất là lúa mùa và muộn, nó được trồng ở đầu mùa mưa.
T h á n g tư cày vỡ ruộng ra...
T h án g n ăm gieo m ạ chan hồ nơi nơi.

Nó lớn lên trong suốt mùa mưa và chín (được gặt) vào đầu
mùa khơ.
Một “vết tích Đơng Sơn” cịn tồn tại nơi hội Dóng là tục th ờ
m ặ t Trời. “M ặt trịi Đơng Sơn” đã chuyển từ biểu tượng “ngôi sao
giữa mặt trông đồng” vói những cảnh chim bay ngược chiều kim
đồng hồ sang biểu tượng con ngựa trắn g ở đền Dóng và con ngựa
sắ t ở huyền tích D óng1. Tơi đã có dịp chứng m inh huyền thoại về
1Một “vết tích Đơng Sơn” mà Cao Huy Đỉnh đã phát hiện được qua huyền
thoại Dóng là câu nói dân gian xứ Bắc xưa: “ông Đổng mà đức trông
Đồng”.
440


thần Bạch Mã ở giữa thủ đô Hà Nội (dền Hạch Mã 76 Hàng Buồm)
quay về đông và biên mât ở trong dền. dể lại các vết chân ngựa
trăng, vua Lý Thái Tố dựa theo các vêt chân ngựa mà xây đắp

thành Thăng Long. Thần Bạch Mã và đền Bạch Mã trở thành thần
trấn (phương) Đ ông và là một trong “tứ trấn” của Thăng Long. Đó
là một “vêt tích Đơng Sơn” của nghi thức thờ mặt trời, có chịu
thêm ảnh hưởng văn hố An Độ (người Aryens hằng năm giết
ngựa trắng tế thần mặt trời). Nghi thức giết ngựa trắng tế thần
còn tồn tại ở V iệt Nam đầu thòi Lê th ế kỷ XV (Xem Đ ạ i V iệt sử k ý

toàn thư).
Trong huyền tích Dóng, con ngựa sắt khạc lửa phi về đông
(núi Châu Cầu T hất gian ở Phả Lại - Lục Đầu) rồi từ đơng phi về
tây (Sóc Sơn cuối dãy Tam Đảo ở xứ Đoài cũ, nay thuộc Hà Nội)
là tượng trưng sự vận động biểu kiến của mặt trịi: ánh sáng,

nguồn sơng, nguồn sức mạnh trần gian: MƯA và NANG: Hai
nhân tô' cần thiết nhất của trời đối với người và với việc làm nông
trồng lúa nước.
Nếu thời gian hội Dóng là cuối xn (cầu mưa) thì
của huyền tích Dóng lại là cuối thu (tế thần MẶT TRỜI
mặt suốt mùa đơng). Trong huyền thoại Dóng có tích
Thánh Dóng mặc áo giáp sắt vua Hùng trao cho còn hở
Thánh Dóng sau khi ăn

thời gian
sắp vắng
kể rằng:
lưng - do

Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hớp nước cạn đà khúc sông
đã vươn vai đứng dậy, lớn như thổi thành “người khổng lồ”. Vì thế
bày trẻ chăn trâu Hội Xá (phường Tung Choặc) đã giắt đầy bơng lau
quanh lưng Thánh Dóng. Có sách (như Nam Hải dị nhản) chép
thánh Dóng thành người khổng lổ, phải ken cỏ lau lợp một cái nhà to
để ngài ở. Ai cũng biết: bông lau chỉ nỏ vào mùa thu, khi mùa mưa
kêt thúc... Lê Nhâm Tuyết đã phát hiện ra “Người Đông Sơn” được
chạm khắc trên trơng đồng có giắt bơng lau trên mũ hố trang và từ
đó bà định vị hội mùa Đơng Sơn là hội thu. Mà quả vậy, theo sử sách


441


muộn màng thời cuối Bắc thuộc (như sách T hái Bình hồn vũ ký...}
mà suy thì ỏ thời đại Đơng Sơn - Văn Lang - Âu Lạc (thời đại các vua

Hùng), hội mùa diễn ra vào dịp sang thu, khi mùa mưa Việt Nam
chârn dứt...
Đầu mùa khô, bông lau nở trắng rừng trắng bãi, Đinh Bộ
Lĩnh ở thê kỷ X và lốp trẻ mục đồng Hoa Lư (Hoa Lau) còn “dấy

binh lấy lau làm cờ” vào hội tập trận giả. Đám trẻ mục đồng xứ
Bắc - Phù Đổng Hội Xá - ngày xưa cũng làm như vậy. “Người
Đông Sơn” cũng làm như vậy trong ngày hội mùa thu...
Đầu mùa khô, sau khi gặt hái xong vụ mùa, khi trước là
m ù a săn bắn: Phong tục này còn đọng lại trong văn hoá Đại Việt

Lý Trần (xem An N am chí lược, An N am chí nguyên...). Mùa hội
Thu khi trước cịn là mùa đu a thuyền trên sơng biển: Đ ấy là vết
tích và biểu hiện của H ội N ước (Fête des Eaux). Đấy cũng là mùa

Thả diều : Cánh diều như tên gọi (chim Diều) và như hình ảnh thả
trên cao - là một biểu tượng của mặt Trời: Cái vui chơi thuần túy

ngày nay của trẻ thì ngày xưa là nghi lễ nơng nghiệp của người
lớn, của cả cộng đồng.
Đầy cũng là mùa v ậ t cầu, h ấ t p h ết, các trò chơi có liên quan
đến quả bóng trịn (ngày trước quả cầu ở Kinh Bắc để thờ trong các
đền thánh Tam Giang đều sơn đỏ, hoặc sơn nửa đen nửa đỏ). Quả


bóng tròn và màu đỏ đều là biểu tượng của mặt trời. “Làng áo đỏ”
trong hội Dóng, sắc phục đỏ của các “Ơng Hiệu” thì cũng như sắc
phục đỏ của các “Ông Đám” trong hội Đồng Kỵ, đều là biểu tượng
của mặt trời. Và như vậy, “làng áo đen” là tượng trưng bóng đêm, để
đối lập với sắc đỏ của mặt trời ban ngày.
Nếu ơng Dóng khổng lồ và ngựa sắt là biểu tượng của mặt
trời thì “28 tưóng nữ của giặc Ân” là biểu tượng của “Thần Đêm u
ám” (La N uit des Ténèbres): Con sô' “28” là biểu tượng “N hị thập
bát tú” - các vì sao sáng ban đêm, và phải chọn tướng giặc là nữ, vì
nữ tượng trưng Ả m , để đốì lập vối ơng Dóng nam tượng trưng
Dương. N ếu giáo sư Từ Chi đã phát hiện ra ở hội Đồng Kỵ qua chi
tiết nghi thức “Rô ông Đám” (khiêng ông Đám mặc sắc phục đỏ

442


chạy vịng trịn th eo c h iể u ngiíiic kim '!ónr hồ. Chi tiêt. n à y c ũ n g V

hệt nghi thức

“n i ề m

quân’ rí hội ■‘rơóT

(vùng Sấu Giá, Hồi

Đức) (lo tơi phát hiện, một “Vót tích Đ(,;ụ’ Sơn’ sơng động của tục
lộ thờ mặt trời, thì ở hội Dóng, tỏi cũng phát hiện ra “vết tích Đơng
Sơn’ ...thờ mặt trịi (m ặt trịi chính là ỏng Dóng và ngựa Dóng) qua

chi tiết rưốc ngựa trắng về đông (Đông Đàm, Soi Bia) rồi mới rước
lại về tây (về đền). Và cái việc gọi là “Đánh 3 ván cờ thuận, nghịch”
là biểu trưng trừu tượng nhất ở hội Dóng vế vận động của mặt trời:
Cị đỏ tượng trưng m ặt tròi, “Thuận - Nghịch” (đều xoay tròn xuôi
ngược) là tượng trưng vận động của mặt trời từ đông sang tây lúc
ban ngày và từ tây trỏ lại đơng lúc ban đêm: Phải có đủ 3 ván
thuận và 3 ván nghịch mới biểu trưng đầy đủ sự vận động biểu
kiến của mặt trơi trên bầu trời. (Vì dân gian ngày trước quan niệm
ban đêm mặt trời “quay ngược lại” từ tây về đông (mà ta không
thấy) để đến sáng m ặt trời lại bắt đầu quay từ đông sang tây cho
đến x ế chiều).

Ta có thể thấy rõ: huyền tích Dóng thoạt kỳ thuỷ là một
huyền tích về mặt trời và hội Dóng thoạt kỳ thuỷ là một nghi lễ
nơng nghiệp cầu trời “Mưa nắng phải thì” cho dân quê làm ruộng
trồng lúa.
Chi tiết hay nhất của cư dân làm ruộng lúa phú cho ơng
Dóng trong huyền tích “lớn lên như thổi” là nhò “Bảy nong cơm”
tức là nhò LÚA GẠO của nền VĂN MINH LÚA NƯỚC Việt cổ và
Đơng Nam Á cổ. Mơtíp về một đứa bé sau khi ăn rất nhiều cơm
đã lớn lên phi thường với tầm cỡ anh hùng khổng lồ được tìm
thấy trong truyền thuyết dân gian ở nhiều vùng Đông Nam Á, ví
dụ ở anh hùng ca dân gian đảo Lambok nói về cội nguồn cư dân
Sasak1.
*

*

*


1 Telemak Mangan, dẫn bởi Keith Weller Taylor The birth of Việt N am
(Sự sinh thành của Việt Nam) California, 1983, tr. 5.

443


Khơng gian phân bơ các di tích có liên quan đên huyền tích
Dóng là một m iền chân núi - châu thổ Bắc Bộ, được khoanh lại
trong vùng T am g iá c nâu, với 3 đỉnh là:
1. Làng Phù Đổng bên bờ sông Đuống: Quê hương và là nơi
xuất phát của Thánh Dóng, người khổng lồ 3 tuổi.
2. Núi Châu Cầu (Vũ Ninh nay thuộc Quế Võ) ở Lục đầu

Giang: “Chiến trường” chông “giặc Ân” xâm lược, nơi Thánh Dóng
giết chết tướng giặc Ân là Thạch Linh (tinh Đá). Ta chú ý rằng ở
đây chỉ có di tích về “giặc”, cịn đền thờ Dóng là ở phía nam sơng
Đng (“đền Thượng” thuộc Cao Đức, Gia Lương). Dường như ở
đây có 2 tuyến: Tuyến “giặc” ở bắc Đuống, tuyến “ta” ở nam Đuông.
Đây vẫn là một cấu trúc “đôi” (binaire) văn hố - xã hội
thường thấy.
3. Núi Sóc hay dặng núi Sót - đúng hơn là miền “trưởc núi” của
dải Tam Đảo hùng vĩ: Nơi Thánh Dóng cưdi ngựa bay lên trời.
Nối Châu Sơn và Sóc Sơn là một sơng đất cao dần lên, trên
đó điểm từng cụm “vết chân ngựa Dóng”.
Đó là khơng gian của một “bộ” (vùng) - bộ Tây Vu trong phức
thể gọi là 15 bộ họp thành “nưốc” Văn Lang của các vua H ùng hay là vùng chân núi giáp đồng bằng, cái nôi của vă n hoá V iệt và
người V iệt cổ.

Sau này, từ đầu thịi Lê, khi hình thành cụm đền H ùng trên
núi Hi Cương thì xuất hiện “đền Thượng” thị Thánh Dóng, đền

Trung, đền Hạ thồ các vua Hùng và đền Giếng muộn m àng thờ các
“công chúa” con gái vua Hùng. Đ ây là một bố cục rất đáng lưu ý và
góp phần cho ta tìm hiểu lại “đền Thượng” (thị Dóng), đền Hạ (thị

mẹ Dóng) ở Phù Đổng. Cụm “đền Thượng” “đền Hạ” ở Sóc Sơn
cũng vậy.
Tơi nhấn m ạnh chi tiết này: đền Hạ hay đền Giếng thờ Mẹ
hay các N àng là tượng trưng “th ế giới bên dưới” ĐẤT - NƯỚC. Cịn
các đền thị Dóng bao giờ, ở đâu cũng được gọi là đền THƯỢNG. Rõ
ràng là trong xạ ảnh về bô' cục và tên gọi đền, dù muộn màng (tên

444


H á n - Việt) , D ó n g v ẫ n là t ư ợ n g t r ư n g r ủ n ' t h ố giỏi b ê n t r ê n ” : M Â Y

- DƠNG - TRỊI.
*

*

*

Tơi đã ra đi từ chân núi Sóc. qua Phù Đổng tới Châu c ầ u
Thât gian, lần ngược trở lại “hành trình của người anh hùng làng
Dóng”, băng qua tam giác nâu khơng gian sinh tồn của người Việt
cổ với những mối bận tâm chính là LÀM ĂN và ĐÁNH GIẶC
rồi/và sự DI TRUYỀN BẢO TỒN NÒI GIONG, sự vui CHƠI TRAO
DUYEN TRAI GAI trong khi và sau khi lao động trồng trọt và
đánh thắng giặc xâm lăng. Tôi nhận diện:

1. Vết chân ngựa Dóng:
Làm ăn, chủ yếu là làm ruộng trồng lúa, thi mối quan tâm
chính là nước. Nước mưa trời cho, theo thời mà làm ruộng. Vậy
phải mong mưa cầu trời, “ơn trịi mưa nắng phải thì”. Nhưng trời
cũng hay hạn hán, thiếu nước, nhất là trên đất “đồng đương” là dải
gị cao sơng đất chạy từ chân núi Sóc đến chân núi Châu c ầ u . Dọc
theo sông đất đó, từ Q uế Võ qua Đơng Ngàn - Đa Phúc là một
mạng vừa rải rác, vừa đặc dầy những “vết chân ngựa Dóng”. Đi
theo vết chân ngựa Dóng, tơi cùng các giáo sư Đào T hế Tuấn, Từ
Chi... phát giác ra rằng đó là những ao chm trữ nước, tát trợ thời
cho các cánh ruộng lúa quanh vùng khi chị mưa hay phải năm
hạn hán. Đó là một hệ thốn g th u ỷ lợi khôn ngoan của người dân
quê Việt cổ trồng lúa nước miền chân núi và miền cao châu thổ...
Dân cổ xưa và dân hằng xuyên là người nông dân trồng lúa “chân

cứng đá mềm” KHOẺ v ì LÚA và LỚN LÊN NHỜ LÚA GẠO.
2. N h ữ n g bụi tre đ ằ n g ngà xưa kia còn mọc thành rừng ở
quanh hồ Tây, ven sông Đuống, sông Dâu, sông cầ u ... CHẶT

TRE NÊN GẬY: kho vũ khí thơng thường và phổ biến của người
dân quê. Xin chú ý: Theo S ứ G iao châu tập thì cho đến thê kỷ
XIII vũ khí luôn cầm tay của quân đội thời Trần là CÂY GẬY

TRE. Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo cũng cầm gậy tre bịt sắt

445


nhọn một đầu, sau e ngại cái mặc cảm của triều đình đã bỏ ln
cả phần bịt sắt.

3. Cọc buộc ngựa. Trên một sưòn của dải Vũ Ninh sơn (Châu
Cầu thất gian) tơi đã tận mắt nhìn thấy cái gọi là “Cọc buộc ngựa
của giặc Ân”. Đó là một trụ đá nhân tạo, cao trên dưới 4m, trên
nhỏ có ngẵng, dưới to có ngõng cắm xuống một phiến đá hình bánh
dày: khơng nghi ngờ gì, đây là cơng trình kiến trúc đá thời Lý tựa
như trụ đá chùa Dạm (cũng ở Quế Võ tức châu Vũ Ninh thời Lý,
nơi sử sách chép nhà Lý dựng nhiều chùa: Lãm Sơn, Sùng
Nghiêm, Chúc Thánh,... vối hình tượng LINGA (dương vật) và

IONI (âm vật), biểu tượng của sự sông, của s ứ c MẠNH TRÂN
TỤC, sự sống và sức m ạnh vĩnh hằng... Đ ạ i V iệt sử lược có đoạn
chép (quyển II, tờ 7b): năm M inh Đạo thứ 2 (1043) mùa Hạ, tháng
Tư vua (Lý Thái Tôn Phật Mã) ngự đến chùa Tùng Sơn ở châu Vũ
Ninh, thấy trong tòa điện nát có cây CỘT ĐÁ đổ nghiêng. Vua có ý
định sửa chữa lại điện đó, cột đá bỗng nhiên dựng thẳng lại. Nhân
đó vua sai nho thần làm bài phú để ghi lại việc lạ ấy. “Phải chăng
đó là cột đá Châu Cầu”?
4. N gự a đ á g iặ c  n . Theo huyền thoại, Thạch Linh, tướng
giặc Ân rất tàn ác, sai làm con ngựa đá rồi bắt dân phải cắt cỏ cho
ngựa đá ăn, nếu ngựa khơng ăn, người dân bị giết chết...
Thánh Dóng thắng giặc Ân, ngựa đá bị quật gãy, đầu một
nơi, mông đi một nẻo, lá gan “tím sậm ” phịi cả ra ngồi.
Trưốc m ắt tơi, trên sườn núi Châu cầ u , là một tượng ngựa
đá thời Lý, tạc theo phong cách nghệ thuật điêu khắc Chàm. N hìn
“ngựa đá giặc Ân”, mỹ cảm của tôi liên tưỏng ngay đến hình ngựa
đá Trà Kiệu của vương quốc Champapura vối thủ đơ Sim hapura
của nó. Ngựa Trà Kiệu cũng như ngựa Châu c ầ u là biểu tượng của
môn thể thao HẤT PHÊT (Polo) rất thịnh hành ở Champapura và
Đại Việt các th ế kỷ X-XIII.
Như th ế trên núi Châu Cầu Vũ N inh xưa đã chứa đựng một

cơng trình kiến trúc - mỹ thuật thời Lý, một kiến trúc chùa tháp
nào đấy mà việc xây dựng - như An nam ch í lược đã ghi, có bàn tay

446


của nhiều thợ xây dựng Viẹt - ('hàm, <ĩổ<: gác từ tù binh trong
chiên tranh. Ta nên nhớ ờ don Phù Đổìụĩ rủng' có tù binh Chàm cư
trú: người Chàm tên Phan Ma Lòi là tướng cưỡi ngựa giỏi của cư sĩ
Nguyễn Nộn cuối thời Lý1.
Chỉ với 4 di tích nói trên, được kêt, cáu trong một huyền thoại
muộn màng trong và sau thịi Lý, ta thấy nổi bật hình ảnh Đại
Việt - Việt Nam; SAN XUÂT (lúa gạo), CHIÊN ĐÂU (gậy tre) YEU ĐƯƠNG và DI TRUN NỊI GIƠNG (Linga và Ioni) - VUI
CHƠI GIAI TRÍ (hất phêt, vật cầu, tàn tích được trị - chơi - thê tục hố của tín ngưỡng mặt trời xưa).
Cơng việc “ giải ảo hiện thực”, trong câu chuyện huyền thoại
“Ong Dóng” dân ta đến việc tìm hiểu được Tâm thức d â n g ia n dân tộc , tìm hiểu được môi bận tâm hằng xuyên của Đại Việt - Việt

Nam, từ triều đình đến thơn q: Đó là làm ăn - đ á n h g iặ c - g ia o
phối - v u i chơi.
*

*

*

Ai cũng biết, như một quy luật, huyển thoại phai dần, vỡ dần
ra và còn từng mẩu tách rời hay được ghép vào các truyện cổ tích...
Như một quy luật, huyền thoại được thời sự hoá (evhém érisé)
và lịch sử hoá (historisé). Anh hùng thần thoại trở thành anh
hùng trong tôn giáo, trong đạo giáo như ở nước ta.

Từ một thần thoại về MÂY DƠNG - MẶT TRỊI, nó biến dần
thành một câu chuyện truyền kỳ vể đánh giặc.
Từ một ngươi anh hùng văn hố, anh hùng huyền thoại, ơng
Dóng được biến dần thành người anh hùng chông ngoại xâm được
tôn thờ. Chiến trường Thánh Dóng đánh giặc Ân là chiến trường
truyển thơng của người Việt chông giặc Bắc: Lý chông Tông, Trần
chông Nguyên - Mơng và trước đó, Lê Đại Hành phá Tơng...
1 Về ảnh hưởng Chàm đối vối văn hoá Đại Việt Lý Trần Lê, tơi sẽ nói ở 1
bài khác. Chắc chắn thần Indra của Chàm có ảnh hưởng đến việc xây
dựng hình tượng PHÙ Đ ổN G THIÊN VƯƠNG.

447


Một khi kiến trúc trên núi Châu c ầ u đã trở thành phế tích
thì ở nơi chiến trường xưa, từng mẩu thần thoại cổ được sử dụng
để hư cấu ra một huyền thoại mới...
Vối huyền thoại Dóng, người anh hùng làng Phù Đổng đã trở
thành người tượng trưng vĩnh hằng của các anh hùng V iệt Nam
chống giặc Bắc.
Và hội Dóng, từ một tín ngưỡng và lễ nghi nơng nghiệp cổ
truyền CẦU MƯA, THỜ THẦN MẶT TRỜI, vói thời gian lịch sử
đắp đổi, đã trở thành một tín ngưõng thồ ANH HÙNG CHÔNG
GIẶC và một nghi lễ

diễn xướng ANH

HÙNG

CA (Epic


Spectacles).
Giờ đây người anh hùng văn hoá - thần thoại đã chìm trong
vơ thức mà người anh hùng chống giặc ln hiển hiện trong hữu
thức.
Giị đây, nghi lễ nơng nghiệp đã chìm trong vơ thức mà lễ
diễn xướng anh hùng ca dân gian luôn luôn là phần hữu thức của
hội Dóng.
H à N ộ i - cuối xu ân 1987.
C ornell ■ cuối hè 1991.

T.Q.V

448


HỘI DĨNG ĐỂN SĨC
T r ầ n B á Chí
S ự tíc h T h á n h D óng p h á giặc Ân
Theo Quốc sử và th ần tích địa phương thì nước Văn Lang đến
địi Hùng Vương thứ 6, gặp nhiều tai biến, dân tình rất cực khổ.
- Nạn hổ beo họp thành đàn về bắt ngưồi phá của ở các bộ:
Phong Châu, Phúc Lộc, Chu Diên. Tân Hưng, Vũ Ninh, Vũ Đ ịnh...
- Nạn giặc Mũi Đỏ (Xích Tỵ) chiêm 16 châu, đặt sào huyệt ở
Hà Lỗ.
- Giặc Ân tràn sang chiếm vùng Vũ Ninh - Sóc Giang, ngày
càng lấn chiếm rộng ra.
V ận H ù n g th ứ sáu g ia n chuân,
M ủ i Đỏ, h ổ báo, g iặ c  n hoành hành
D ậ p vùi b ể k h ổ lênh đênh,

A y a i t ế độ d â n tìn h , nước non...

Trước những tai họa lớn lao dồn dập, vua Hùng Huy Vương
họp triều thần tại đ ô th àn h P hong C hâu ban kê cứu dân cứu nước.
Sau đó, các lạc tưống họp quân, luyện tập võ nghệ tại gò K ẻ Đ ọi
(nay thuộc Thụy Vân, gần Việt Trì) để gấp rút ra trận. Các bộ chủ,
phụ đạo địa phương cũng tổ chức lực lượng vũ trang để giữ làng.
Cả nưốc dấy lên một khơng khí lập cơng dâ n g vua H ùng.
Kết quả sau 2 năm đã trừ được nạn hổ và nạn giặc Mũi Đỏ.
Vua Hùng xuống chiếu ban khen:
X ét vê công lao trừ nạn hổ: công đ ầ u thuộc về H ù n g L inh

(hay gọi Hùng U y Linh), được thờ ở đền Y Sơn xã Thù Sơn tổng

449


Quế Trạo: nay thuộc xã Hòa Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Hà Bắc.
Đền Y Sơn bên bờ Sóc Giang cách đển Sóc Sơn, nơi Thánh Dóng
bay lên trịi khoảng 14 cây số. Sự tích anh hùng d iệ t h ổ cứu dân
thời Hùng Vương, hàng năm còn được hội làn g diễn lại trị b ắ t hơ
vào tiết mục 2 của hội trậ n P hù Đ ổng ngày 9 tháng 4 của hội đền
Ya làng Hòa Sơn.

-

X ét chiến công đ á n h g iặ c M ũ i Đỏ, những người có cơng đ ầ u

là hai anh em Vũ Dực Công và Vũ M inh Công được thờ ở thôn
Hương và thông Đông xã Hà Lỗ (nay thuộc huyện Đông Anh ngoại

thành Hà Nội). Sau đó đến H ù n g T hiên Cương cũng có nhiều cơng
trong các trận đánh giặc Mũi Đỏ. Hùng Thiên Cương được thờ ở
đền làng Nhân Hậu, xã Đồng Kỵ, tổng Nghĩa Lập (nay thuộc
huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc)1.

1 Những tài liệu và chứng tích phản ánh tình hình giặc giã, tai biến dưới
thịi Hùng Huy Vương đến nay vẫn cịn, xin trích dịch một số đoạn tiêu
biểu sau đây:
Lược dịch ngọc phả đền Y xá Hòa Sơn
Đến địi Hùng Huy Vương, có một viên phụ đạo trấn thị trấn Kinh
Bắc họ Hùng tên N hạc , lấy người vợ họ Cao tên Tiên , ngoài 40 tuổi vân
chưa có con. Hai vợ chồng đi cầu tự qua nhiều đền chùa, mãi đến một
hôm bà cầu mong thấy một người lớn, tỉnh dậy biến mất, chỉ thấy trước
mặt hiện lên những vết chân to rồi mất hút. Từ đó bà có thai, đên ngày
12 tháng 10, tự nhiên trịi đất mờ tối, gió thoảng mùi hương, bà sinh được
một trai, oai phong lẫm liệt, hình dáng tựa kỳ lân, sức vóc như tung bach,
liền đặt tên là Hùng Linh.
Đến tuổi 17, Hùng Linh cao 9 thưốc, hàm én mắt phượng, sức mạnh có
thể bắt được hổ khoe trên rừng, bắt được giao long dưới biển. Nhân trong
nước có nạn hổ báo phá phách, vua Hùng triệu Hĩg Líiĩĩh ve kinh, thi
tài rồi phong làm Nhạc Phủ tướng quân , đem quân thanh trừ nạn hô.
Bấy giờ trong nước, nhiều nơi thú rừng, hồ báo làm loạn, hại ngưdi hại
của thường xuyên. Hùng Linh phải đem quân chui vào hang, chặn đâu
thung lũng phối hợp với các đầu mục của các doanh người Mán, cùng
lùng bắt hổ báo.
^ ,
Hùng Linh thường mang theo 500 tinh binh, vây đánh rừng nào thì hơ
báo mng thú rừng ấy phải kêu la, trơn thốt; hoặc cúi đâu xin tha cho
sống. Ơng truy lùng trên 5 tháng, khắp núi rừng hiểm hóc, băt được trên
600 con đem về châu Đại Man, chọn ra 5 mãnh hổ đầu đàn, bỏ cũi mang

về thành Phong Châu dâng vua, cịn loại hổ con thì thả ra. Từ đó nhân

450


dãi sông yên ôn. Vua Hùng ban khen gia phong chức Thống quốc quản
giím rồi lại về cai quản vùng Kinh Bắc như cũ.

Một hôm ông mang quân đi săn bắn, qua đốt Thù Sơn (nay là huyện
H.ệp Hòa, tỉnh Hà Bắc thấy phong cảnh đẹp mắt, hữu tình; nhân dân
thuần phác, ông định dựng nhà ở đấy. Ong ngỏ ý đó với dân làng, được
dán làng vui vẻ đồng tình; rồi mọi người giúp sức xây cho ơng một tòa
cung sở. Ong cảm ơn dân, rồi lại về nhậm sở làm việc.
Ong về nhậm sở một thời gian, thì vùng Thù Sơn lại sinh bệnh tật, hổ
beo ong rắn lại về phá hoại, nhân dân cầu khẩn ông về cứu. Ong về làng
thì tai qua nạn khỏi, dân ghi ơn, họ dựng sinh từ thị sơng ơng tại núi Y
Scn (sau gọi đền Y).
Sau đó mấy năm, Hùng Linh lại theo Thánh Dóng đánh giặc Ân lập
nhiều chiến cơng vang dội...”.
Sự tích hai vị thần ở Hà Lỗ
Thịi vua Hùng Vương thứ 6, ở phương Bắc có giặc Xích Ty (Mũi Đỏ)
vèo xâm chiếm nước ta. Chúng có khoảng ba vạn hùng binh chiếm đóng
cốc châu: Mai, Mộc, Phú Hoa, Hoàng Châu, Man Châu, Tân Châu, Việt
Cầâu, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Sóc Giang, Vũ Ninh...
Vua sai hai tướng Vũ Dực và Vũ Minh ra đánh. Hai tưống là con trai
của Vũ Diệu Công quê ở làng Bạch Tuyền phủ Thơng Hóa; mẹ hai tướng
là Dương Hồng Nang, q quận cửu Chân. Bà Hổng Nang sinh hai tướng
tạt làng Hà Lỗ (thuộc tổng Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn).

Bây giờ, bọn giặc Mũi Đỏ sang lấn đất cưóp của. Tên giặc nào cũng đội

mi mặc áo kiểu phù thủy, mũi sơn màu đỏ bằng một thứ nhựa cây, tay
'Cầm gương hoặc cầm giáo. Bọn giặc Mũi Đỏ có phép lạ, có thể làm cho dân

mọt làng bị bệnh ôn dịch, có thể làm ra cho một quả núi tự nhiên bốc lửa.
Chúng cướp bóc, hãm hiếp nhân dân rất khổ.
Tướng Vũ Dực và tướng Vũ Minh kéo quân tới đồn giặc hai bên dàn
ttrận đánh nhau. Đánh nhau quyết liệt tròi đất tối tăm, giặc mất đường
’về, ta vây đánh ráo riết. Vũ Dực và Vũ Minh chém được tướng giặc và
Ịgiết được vài nghìn tên, thu hết cị trống và khí giối mang về dâng nộp
vua, được vua Hùng ban khen công đầu. Vũ Dực được phong Thiên uy
(qiận công. Vũ Minh được phong Uy hầu. Sau đó hai năm, hai tướng lại có
(CƠng to trong việc đánh giặc Ân...
Ngọc phả đền Đồng Kỵ thờ Thiên Cương đại vương
Thời vua Hùng Vương thứ 6, có ơng Hùng Thuận dòng dõi vua Hùng,
llàm bộ trưởng ở Kinh Bắc, sinh được một người con trai cao lớn khỏe
imạnh, đặt tên là Thiên Cương. Khi lớn lên, bô' mẹ mất, Cương được vua
'Hùng cho nối nghiệp bố’, phong cho làm Thiên Cương thần tướng cai quản
•đêt Kinh Bắc. Cương làm được nhiều việc ích dân lợi viước, được dân
Itrang Nhàn Hậu (thuộc Đồng Kỵ, Nghĩa Lập) gồm các họ Nguyễn,
'Trương, Đào, Đỗ, Phạm, Bùi, Hoàng, Phan, Triệu, Dưong, Đinh, Đặng,
Lé, Trần Cao, Đình dựng một ngơi sinh từ đê ghi cơng ơn (Sinh từ dựng
ítrèn núi hình rùa về sau thành đền thò).

451


Nhưng tai hại lớn nhất đe dọa vận mạng của cả nước Văn
Lang là giặc Ân. Sách Thiên n am ngữ lục cho biết: Giặc Ân đông
như kiến, quân đến chục vạn, tưống đến gần nghìn. Theo L ĩn h
N a m chích q u á i và các thần tích, thì giặc Ân đóng đồn chi chít


dọc sơng Vũ N inh (tức sông từ Lục Đầu đến Ngã Ba Xá) và dọc
sơng Sóc Giang (tức sơng Cà Lồ và sông Công), chúng lại chiếm
giữ địa th ế cao của các núi Trâu Sơn, Phả Lại, Tam Tầng, Thất
Diệu, núi Bầu, núi Dõm, Thanh Tước, núi Độc, núi Sóc, Y Sơn,
Thanh Sơn v.v ...
Giặc Ân là ai? Dĩ nhiên đây không phải là nhà Ân (14011122 trưốc Công nguyên) ở Trung Quốc. Lúc đó nhà Ân chỉ mới cai
quản vùng lưu vực Hồng Hà, cịn từ sơng Dương Tử trở về nam là
địa bàn của Bách Việt. Do đó, nhà Ân làm sao có khả năng phát
quân vượt qua cả một khơng gian rộng lón từ sơng Dương Tử vể
nam để thơn tính nước Văn Lang ở lưu vực sơng Nhị. Trong ký ức
lâu đời của nhân dân ta, giặc Ân trở thành biểu tượng của quân
xâm lược từ phía bắc xuống, cực kỳ tàn bạo dã man.
Về tội ác của g iặ c Ấn, đến nay các ông già bà lão ỏ những
làng có di tích về Thánh Dóng còn lưu truyền lại nhiều câu chuyện
cổ. Sách Thiên N a m ngữ lục cũng cho biết ít nét về tội ác của giặc

Tục truyền thời ấy, có bọn giặc Mũi Đỏ (Xích Tỵ) nổi lên, rồi chiêm
đóng vùng Hà Lỗ (Hà Lỗ thuộc Đông Ngàn) dân chúng khiếp sợ. Giặc
Mũi Đỏ có hơn vạn quân... lại kèm theo đạo quân yêu quái thích ăn máu
người. Chúng chiếm đất 16 châu của vua Hùng, qn triều Hùng đánh
khơng thắng, vì có qn u qi, dìm xuống nưóc khơng chết, ném vào
lửa không cháy...
Được lệnh vua Hùng, Thiên Cương thần tưống đem theo 50 quân của
trang Nhân Hậu, cùng 2.000 quân triều đình, kéo đến đồn trại Hà Lơ
đánh giặc. Thiên Cương bắt sơng được tướng giặc Mũi Đỏ (Xích Tỵ) chém
được nhiều quân yêu quái của người Man khoảng trên nghìn đầu. Giặc
tan, về triều, vua Hùng ban yến, rồi thưỏng cho Thiên Cương và vợ là
Nguyệt Loan đi theo dẹp giặc 1.000 lạng vàng. Nguyệt Loan sau được thờ
ở chua Linh Quang thon Thanh Cương, huyện Đường An, phủ Thượng

Hồng, đó là q bà.
Thiên Cương sau lại có cơng theo Thánh Dóng phá giặc An (nay ở đình
Đồng Kỵ có câu đối và thần tích thời Bảo Đại 1928 đã ghi nhầm chữ Xích
Tỵ thành ra chữ Xích Quỉ, đây là một sai lầm lốn).

452


An. Chúng giêt người cướp của, hãm hiếp dàn bà, con gái. Đàn bà
có nhan sắc, chúng ép làm tỳ thiếp; đàn ỏng có sức khoẻ bị chúng
bắt làm nơ lệ.
B ăc phư ơng ngoài dặm, xa khơi ,
G ái ép là m thiếp, tra i đòi làm p h u .

Các cụ già địa phương kể rằng: vào thời Hùng Vương giặc Ân
kéo sang đơng như kiến, có cả đàn ơng đàn bà. Chúng có vóc ngưịi
cao, bàn chân to, ông chân dài đầy lông lá. Giặc Ân dùng toàn đồ
bằng đá, đồ ăn, đồ chơi đều đá cả.
Chúng có một con ngựa đá làm cho bao nhiêu người bị giết.
Đó là con ngựa đá của Ân Vương. Trước doanh điện Ân Vương,
thường đặt hai con ngựa đá để ra oai, sai hai lính thay phiên đứng
bên ngựa gác cổng. Mỗi ngày chúng bắt dân ta ở các làng nộp cho
chúng 1.000 gánh cỏ cho ngựa chúng ăn, và 1.000 hộc gạo cho
quân chúng ăn. N ếu làng nào thiếu gạo thiếu cỏ, thì chúng phạt
làng đó phải bón cỏ cho ngựa đá vua ăn, ngựa không há mồm ăn
cỏ, chúng khép tội chém đầu.
Sau khi phá tan giặc Ân, hủy hoại doanh điện Ân Vương,
Dóng xuống núi thấy con ngựa đầy tội ác, liền vung gươm chém
một nhát, vỡ đôi. Phần đầu con ngựa đá rơi xuống bãi cát Tiểu
Than sơng Lục Đầu, nay cịn nửa thân ngựa đá bên sườn núi Trâu

để làm di tích.
Giặc Ản! G iặc Ân!
M ày độc vô hạn
M ày ác vô ngần
M ày hiếp cô quả
M ày g iế t thường d à n
Tao căm g iậ n lắm
G iặc Ân! G iặc  n!
(Bài ca khi vung gươm vào chém, tướng)

453


Hơn một năm trời giặc Ân hoành hành, gây biết bao đau
thương tang tóc cho nhân dân. Vua Hùng đã cử nhiều binh hùng
tưóng giỏi đi dẹp giặc, nhưng khơng ai đánh bại được quân Ân.
Truyền thuyết và thần tích nhiều làng vùng trung châu cịn ghi
nhớ một sơ' trận địa đánh giặc Ân của binh tưống triều Hùng như
sau:
1. Ở Vũ Dương-, doanh trại quân ta đóng từ đất Vũ Can đến
đất Nghiêm Xá (làng Ngườm, làng Can) do h ai tướng chỉ huy.
Đ ây là căn cứ tiền tiêu, khơng ch ế sở chỉ huy của địch đóng tại

Phả Lại - Trâu Sơn. Căn cứ này sát địch, nhưng địch khơng
chiếm nổi, vì ta biết dựa vào hệ thông đối rừng đầy tre nứa; đặc
biệt các khu tre ngà gốc nhiều gai nhọn xếp thành chiến lũy, giặc
không quen thuộc đường lối, nên đã không vào nổi, chỉ vây chung
quanh.
2. Ở Đ ỗ X á: Quân ta đóng ở làng Ỷ Na, nhưng doanh trại rải


khắp các làng Đội Vũ, Thanh Sơn, Đỗ Xá, Ỷ Na Thượng, Ỷ Na Hạ,
Cổ Mễ, Thị Cầu. Lực lượng thủy lẫn bộ đặt dưối quyền chỉ huy của
5 tướng. Trai trẻ làng Ỷ N a đều xin đầu quân giết giặc, ông già bà
lão làng Ỷ Na cũng xin giúp giã gạo, mổ bò để làm lương quân.
Năm đạo quân ở đây đi theo 5 tướng, mỏ nhiều trận đánh lớn vào
đồn giặc, nhưng đều bị giặc đánh bật ra. v ề sau, quân 5 tưống
phải nhập theo Thánh Dóng mới lập được chiến công.
3. Ở L on g Đỗ: Quân ta đóng ở phía nam, hữu ngạn sơng
Hồng, do tưống Lý Tiến chỉ huy (lực lượng chống giặc Ân gồm trai
tráng vùng nội thành Hà Nội và các huyện ngoại thành phía đơng
nam). Trong một trận quyết liệt, giặc Ân bắn trúng Lý Tiến. Lý
Tiến rút mũi tên khỏi ngực, gắn phi ngựa về sở chỉ huy đặt tại núi
Nung, thì tắt thở. N ay cịn đền thờ ở phơ" Hàng Cá.
4. Ở C ẩm Bào: Chỉ huy sở đặt ở thơn cẩ iíi Bào, cách bờ sơng
Cầu (Sóc Giang xưa) khoảng 500m, do tưống H ùng Long Sơn chỉ
huy, lực lượng chia đóng ở c ẩ m Bào, c ẩ m X uyên, c ẩ m Trang,
Xuân Biều, M ai Phong. Tục truyền cánh đồng Sào ở phía bắc chợ
Bầu là chiến trường thuở xưa đánh giặc Ân. Đ ền thờ Hùng Long

454


Sơn bị Pháp đơt. cháy cả ngọc phả, chỉ cịn một đạo sắc ở chùa
Câm Xuyên và một VOI đá ở chợ Bầu. Các cụ già cho biết hội
Gióng tổng Bầu gọ 1 là hội Thánh Con, vì coi hội đền Sóc là hội
Thánh Cả. Hội tổng Bầu hàng năm vào ngày 9 tháng 9 âm lịch,
tương truyền đó là ngày Thánh Dóng giúp Hùng Long Sơn phá
giặc An ở cánh đồng Sào.
5. Ở K im H oa: Quân ta do Vù Dực và Vũ Minh chỉ huy. Đoạn
CUÔ1 sự tích h a i vị th ầ n ở Hà Lỗ chép nh ư sau: “Đ á n h tan giặc M ũi


Đỏ một vài năm, thì giặc Ân lại đến. Giặc Ân do tướng Thạch Linh
dẫn đầu, chúng kéo từ Bắc Giang xuống, quần sô" đông tới 30 vạn
(theo sách V ùng ven sông N h ị). Biên quan cấp báo tin giặc về triều
Văn Lang mỗi ngày đến 5 lần. Vua cả sợ, lệnh cho tướng Vũ Dực
và em là tướng Vũ Minh cùng một sô" tướng khác chỉ huy 10 vạn
quân ta, đánh dẹp giặc Ân. Vâng lệnh vua lên đường, hai ơng cịn
mang thêm 600 gia thần và 80 gia binh vốn tuyến sẵn trong con
em làng Hà Lỗ làm đội ta}' trong. Họp quân xong, hai ông cùng các
tướng kéo quân xuống đất Kim Hoa, đóng đại bản doanh ở đó để
đánh giặc. Sau gần hai năm, đánh với giặc Ân hơn vài chục trận,
vẫn chưa phân thắng phụ. Nhân dân ngày càng lầm than, cơ cực,
ai cũng mong mỏi bậc hiền tài ở làng Phù Đổng. Tục truyền Vũ
Dực và Vũ M inh sau theo Dóng đánh được giặc, cũng tìm chỗ cao
bay lên tròi...”.
6. Ở tả n g ạ n C à Lồ: Dọc tả ngạn sơng Cà Lồ có m ột sơ" đồn
trại do tướng Cốt Tung chỉ huy. Theo truyền thuyết, cha mẹ Cốt
Tung vốn là người nhân đức, quê ỏ thơn Liễu Trì xã Mê Linh
huyện n Lãng, cưới nhau đến tóc hoa râm, vẫn chưa con. Một
hơm hai người rủ nhau lên chơi núi cao cho khuây buồn. Lên
đến đỉnh núi th ấy có nhiều xương người khơng ai chơn cất, trong
đó có cả xương trẻ con. Vợ chồng rơi nước m ắt bảo nhau rằng:
Chúng ta cầu trời m ãi, mà chửa có con. Có người lại vứt bỏ hài
cơt con khơng chơn cất, khơng nhìn đến, th ật tội nghiệp. Nói rồi,
hai vỢ chồng tu n g đơng xương xuỗng chân núi, rồi đưa chum vị
nhà ra chôn hộ. Chôn xong, hai vợ chồng khấn vái rằng:

455



Thương th a y h ài cốt ai đ â y
Đ êm đ êm sương dột, n gày n gày n ắn g phơi.
C h ẳn g a i khấn vái m ột lời,
X ương n ăm loạn lạc, h ay thời chiến chinh?
Đ ơng xương vơ chủ tội tình!
C húng tơi chơn lấ p vào bình vào chum.
Từ bi g ọ i ch ú t lòng ph àm ,
H ọa là người dưới suối và n g th ấu cho.
D á m m on g ơn đức ban phò,
Cho m ộ t n am tủ đ ể cho nối dịng...

Sau đó người vợ về thụ thai, sinh được một trai đặt tên là Côt
Tung để ghi nhổ việc tung hài cốt ở núi.
Bấy giò, giặc Ân vào cưốp của giết người, Cốt Tung vô cùng
căm giận, ô n g dùng núi Thanh Tước làm đài quan sá t giặc, và chỉ
huy qn các đồn đóng dọc hai bờ sơng Cà Lồ, kêt tre ngà tre gai
làm lũy quanh đồn, cầm cự với giặc Ân gần 2 năm. Sau đó ông họp
quân với Thánh Phù Đổng đánh tan giặc. N ay ở thơn Liễu Trì cịn
đền thờ ơng. Ở thơn Hạ Lơi (xã Mê Linh) cịn hịn đá in rõ dấu 5
đầu ngón tay, tục truyền đó là hịn đá xưa Côt Tung ném giặc Ân.
7.

Ở Thù Sơn: Quân ta đóng ở núi Y (Y Sơn) và các làng: Mai

Sơn, Thù Cốc, Q uế Trạo, Phẩm Trật, Hương N inh, Thù Lâm và
một sô" làng thuộc bên Đa Phúc, do tướng Hùng Linh (có tài liệu
chép Hùng U y Linh) chỉ huy. Giặc Ân do tướng Thạch Linh bày
trận giỏi, trên bộ có qn khỏe, dưới sơng đầy thuyền độc mộc và
kết cây làm bè, nên Hùng Linh đánh nhiều trận, mà vẫn không
thắng. Đến khi vua Hùng biết được Thánh Dóng, thì Hùng Linh có

cơng tìm sắt và tìm thợ đúc sắt cho Dóng, rồi theo Dóng đánh
thắng giặc.
Tất cả truyền thuyết, thành tích trên đây phản ánh một bối
cảnh lịch sử đầy gian nguy, thử thách của cộng đồng cư dân Văn

456


Lang. Giưa lúc th ế giặc đang mạnh, vận nước đang lâm nguy, thì
Thánh Dóng xuất hiện.
Quốc sử diễn ca chép rằng:
S á u đời H ùn g vận ưừa suy,
Vũ N in h có g iặ c mới đ i cầu tài.
L à n g P hù Đ ổng có m ộ t người
S in h ra chẳng nói chẳng cười trơ trơ...
N h ữ n g ngờ oan trái bao giờ,
N à o huy thiên tướng đợi chờ p h o n g văn...

Thánh Dóng hay Thánh Đ ổng... là con ơng Đùng, một chân
đứng trên núi Sóc, một chân bước xuống vườn cà làng Dóng Mốt.
Ồng Đùng là nhân vật khổng lồ trong thần thoại của người Việt.
Hiện nay nhiều quả núi trên đất nước ta còn có vết chân ơng
Đùng, kèm theo câu chuyện thần kỳ. Có làng cịn dựng m iếu thờ
hịn đá có vết chân. Đ ịa c h í c ổ chép: Núi Sóc Sơn huyện Tiên Phúc,
núi Nam Giới châu Thạch Hà, núi Hồnh Sơn châu Bơ" Chính, trên
đỉnh có m iếu thờ dấu chân ông Đùng lõm vào phiến đá. Theo tục
truyền thì dấu chân ơng Đùng cịn giẫm lên núi Tản Viên, núi
Phật Tích, núi Bồ Sơn, núi Phả Lại, núi Thiên cầ m , núi Ngự Bình,
đèo Hải V ân... Như vậy, ông Đùng tượng trưng cho sức m ạnh thần
kỳ trong ước mơ vươn lên của con người, và là một sức mạnh giao

thoa giữa Trời và Người, giữa Thiên nhiên và Xã hội.
Hình tượng ơng Đ ùng (ơng Đổng) theo dân làng Phù Đổng
kể thì cũng tương tự như ở nhiều làng. Các cụ ở làng Phù Đổng
, Ắ! t
kê răng:
Ông Đổng cao lớn lạ thường. Đầu đội trịi, chân đạp đất, vai
chạm mây, ơng khỏa đất thành đồng ruộng, vui đá thành đồi gò, xẻ
cát thành sông bãi. ô n g bưốc dài từ đỉnh núi này sang đỉnh núi
khác. Dấu chân ông lún cả đá, thủng cả đất. Tiếng nói ơng vang
ầm thành sấm. M ắt ông sáng lèo chốp lửa. Hơi thở ông phun ra
thành mây đen, thành gió bão, giơng tơ...

457


Các cụ già ở một sô" làng vùng Kim Anh, Đa Phúc cho biêt:
Thịi các cụ lớn lên, thì trên đỉnh núi Sóc vẫn có ngơi m iếu cồ. Ai
cũng bảo miếu thiêng lắm, nên ít người dám lại gần, một đôi người
hái củi hái lá gan dạ, qua lại nhiều lần mới dám nghìn kỹ. Miếu
nhỏ thơi, trong lịng miếu mỗi chiểu chỉ khoảng hơn sải tay. Phía
cửa vào có khoảng dăm bảy bát hương, trong miếu chỉ có một tảng
đá lớn. Tục truyền trên tảng đá ấy có một dâ’u chân ơng Đùng in
lõm sâu xuống. Cũng có ngưịi gọi là ơng Khổng Lồ. Từ xưa truyền
lại rằng: ô n g Đ ùng là người nhà Trời, nên ông chỉ đi qua giữa
không gian vô hạn, không ai nhìn thấy được. Khi xuống trần gian,
thì người đời chỉ thấy dấu chân ông bưổc từ núi này sang núi khác;
vì ơng to lốn q...
Mẹ Dóng là một người đàn bà nghèo khổ ở làng Dóng Mốt
(thơn Đổng Viên, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm). Một hôm bà giẫm
phải dấu chân khổng lồ của ông Đùng rồi tự nhiên thấy tâm thần

rung động và thụ thai. Thánh Dóng là hiện thân của ơng Đùng,
chung đúc khí thiêng của non sơng đất nước, biểu thị sức m ạnh
thần kỳ trong ước mơ của con người.
Theo truyền thuyết dân gian, Thánh Dóng được thụ thai từ
bên làng Dóng Mốt (tức làng Kẻ Đổng), nhưng khi ra đòi lại lọt
lòng mẹ tại rừng Trại Nòn ở làng Phù Dực. Khoảng cách giữa hai
làng là khơng xa lắm. Trại Nịn có khoảnh đầm rộng, tơm cá lươn
ếch vùng vẫy quanh năm. Giữa đầm có gò cao, cây lá hoa quả thay
đổi bốn mùa, thơm tho, ngào ngạt. Một hơm gió to bão lân, sấm sét
đùng đùng, bà mẹ đau bụng chuyển mình, chạy ra bị đầm ngồi
nghỉ. Tự nhiên chớp lóe xuống mặt đầm, rồi một chiếc cầu đá từ
dưới đáy đầm nổi dần lên, nốì bờ vào gị, bà mẹ Dóng theo cầu đá
ấy, đi vào đỉnh gị đẻ Dóng.
Mẹ Dóng rất ngạc nhiên, khi bà đến đỉnh gị thì đã sẵn ở đó
một chiếc chõng đá sạch sẽ, bằng phẳng; một chiếc thông đá chứa
sẵn nưốc, trên một tảng đá lại sẵn dao đá, liềm đá, đĩa bát bằng đá
và bộ chày cối đá để giã cua. Dóng lọt lịng, bà lấy liềm đá cắt rốn,
bà dùng nước ở thông tắm rửa cho con, tắm xong đặt con lên chõng

458


da, chim chóc quanh dầm bay vào gị hót gáy chào mừng: mặt trịi
cũng như đến tận gơe cây đẽ sưởi ấm cho Dóng.
( ao c ụ

già ớ Phù Dực. Phù Đơng

ron kê


thêm: Tục

t r u y ề n có

một điều lạ nửa. hình như tất cá các thứ tơm cá, rau quả ở đầm
Trại Nòn, thiên nhiên chỉ ưu đãi riêng cho mẹ Dóng ăn để lấy sữa
ni Dóng; bởi vì từ khi Dóng ra đời. người ta bng câu thả lưới ở
đầm suốt ngày cũng không được một con gì mang về. Có người
thấy ơi, qt chín mọng quanh bờ đầm. nhưng sắp chạm tay vào
hái, thì quả đã rơi lụp bụp xuống nước. Cũng nhờ nguồn lợi ít ỏi ở
khu đầm, mà mẹ Dóng đã thầm lặng ni Dóng được ba năm, dù
Dóng chỉ nằm im một chỗ. ai nói gì cũng mặc.
Sách Thiên N a m ngữ lục ghi rằng:
... M ột m ìn h con m ọn dưỡng ni,
Vui lịng tích đức, chẳng lời nhỏ to.
G iấc n àn g xem bẵn g tóc tơ,
N h ữ n g m on g con lớn, những chờ con khôn.
B a n ăm luôh g những tiếng đồ,
Đ ẻ sao cứ vậy, ch ẳn g khôn m ỗ p h ầ n .
Lớn sao chẳng lớn m ễ phần,
C hẳng ngồi, chẳng nói, chẳng ăn, ch ỉ nằm .
N gư ời n ằm yêu q u á i tà xâm ,
Cơ d ì a i n ấ y khiến đem đ i vùi,
M ẹ thương m áu m ủ dưỡng nuôi,
A i hay là người: Trời đ ã g iá n g sin h ...

Cúc tàn lan nở, ngày lại tháng qua... Mẹ Dóng âu sầu nhìn
quanh gò đầm, cây ba mùa đổi lá. quýt ba lần nở hoa, Dóng đã ba
tuổi rồi, mà vóc dáng khơng hề cao thêm lớn thêm, cũng chưa hề
biêt cười biêt nói. Mẹ Dóng đang âu sầu, thì bỗng nghe ngồi

đường làng có đồn người đi, vừa gõ vừa rao. Tiếng rao rằng:

459