Tải bản đầy đủ (.pdf) (232 trang)

Giáo trình Quản trị tác nghiệp ngân hàng thương mại: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 232 trang )

Chơng 5
QUảN TRị HOạT ĐộNG CHO THUÊ V ĐầU TƯ
CủA NGÂN HNG THƯƠNG MạI
u t v cho thuờ ti chớnh là những hoạt động quan trọng góp
phần đa dạng hóa các lĩnh vực kinh doanh, giảm thiểu rủi ro, tăng thu
nhập, cung cấp nguồn dự trữ thứ cấp để đảm bảo khả năng thanh khoản
của ngân hàng.
Nội dung chương 5 của Giáo trình giới thiệu các hình thức cho thuê
tài chính và đầu tư chứng khốn; những nội dung cơ bản trong quản trị
đầu tư và cho thuê tài chính của ngân hàng thương mại.
5.1. QUẢN TRỊ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ
5.1.1. Một số vấn đề cơ bản về cho thuê và cho th tài chính
5.1.1.1. Sự hình thành và phát triển hoạt động cho thuê và cho
thuê tài chính

Cho thuê tài sản là một hình thức ra đời từ rất sớm trong lịch sử
nhân loại. Theo các thư tịch cổ, các giao dịch thuê tài sản đã xuất hiện từ
năm 2880 trước công nguyên tại thành phố Sumerian của người UR (Là
một thành phố phía Nam của thành phố Masopotania - gần vịnh Ba Tư là
một phần của IRAP ngày nay). Trong đó người cho th là những thầy tu
cịn những người đi thuê là những người nông dân tự do, tài sản được
đem ra giao dịch cho thuê gồm: Công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật
kéo, nhà cửa, ruộng đất...
Những bộ luật quy định về nguyên tắc của hoạt động cho thuê tài
sản cũng đã ra đời từ rất sớm. Vào khoảng năm 1700 trước Công nguyên,
vua Babilon là Hamunurabi đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan
trọng tạo thành một bộ luật lớn trong đó có những quy định về hoạt động
thuê tài sản. Đồng thời, trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp,
La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ
cho hoạt động sản xuất. Có thể nói rằng, rất nhiều vấn đề trong giao dịch
cho thuê tài chính ngày nay đã xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước.


216


Tuy nhiên, các giao dịch thuê tài sản diễn ra ở thời kỳ trước chỉ là
những hoạt động cho thuê kiểu truyền thống, phương thức giao dịch của
nó tương tự như giao dịch thuê vận hành ngày nay; và trong suốt hàng
ngàn năm lịch sử tính chất giao dịch của hình thức này gần như khơng
thay đổi.
Cho đến đầu thế kỷ XIX, hoạt động cho thuê mới phát triển mạnh,
diễn ra sơi nổi ở Anh, Mỹ, có sự gia tăng cả về số lượng lẫn những loại
tài sản thiết bị cho thuê. Đặc biệt, do sự phát triển mạnh mẽ của ngành
đường sắt, vì nhu cầu máy móc rất lớn, các phương thức tài trợ sẵn có
khó đáp ứng nổi, nên muốn đạt được mục đích cuối cùng là sử dụng thiết
bị, các cơng ty đường sắt phải tìm đến một phương thức tài trợ mới. Điều
này mở ra cơ hội cho các nhà sản xuất và các nhà đầu tư chuyên cung
cấp thiết bị đường sắt như đầu máy, toa xe... trên cơ sở cho thuê.
Hoạt động cho thuê tài sản trở thành một ngành kinh doanh mới của
nền kinh tế theo đà phát triển của phân công lao động xã hội. Đến đầu
những năm 50 của thế kỷ XIX, hoạt động cho thuê tài sản đã tiến một
bước dài với việc công ty United States Leasing Corporation (Hoa Kỳ)
sáng tạo ra một hình thức cho thuê mới gọi là cho thuê tài chính
(Financial Leasing) và giao dịch cho thuê đã có sự thay đổi về chất. Từ
đó cho tới nay, hoạt động cho thuê được chia làm 2 loại: cho thuê hoạt
động hay còn gọi là cho thuê vận hành (Operating Leasing) hay cho thuê
kiểu truyền thống (Traditional Leasing) và cho thuê tài chính (Financial
Leasing).
Cho thuê tài chính (CTTC) phát triển sang các nước châu Âu và
châu Á như ở Pháp, Nhật Bản… vào những năm đầu của thập kỷ 60 thế
kỷ XX; và sang đầu thập kỷ 70 nó đã phát triển rất mạnh mẽ, lan rộng
sang các nước khác như Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia… Cuộc cách

mạng khoa học cơng nghệ vào những năm 1960 có ảnh hưởng then chốt
đến sự phát triển của hoạt động cho thuê (Leasing) khi các công ty thấy
rõ những lợi thế cạnh tranh của CTTC, những thiết bị luôn đổi mới như
máy vi tính, máy móc viễn thơng... sẽ tránh được hao mịn vơ hình và
giải quyết khó khăn về vốn. CTTC ngày càng được áp dụng rộng rãi,
không chỉ đối với các cơng ty nhỏ mới thành lập mà cịn với các công ty
217


lớn; không chỉ với các nước công nghiệp phát triển mà còn với các nước
đang phát triển. Ở Việt Nam, hoạt động CTTC chính thức được triển khai
vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỷ XX và nó đã trở thành một
lĩnh vực kinh doanh mới mẻ nhiều tiềm năng, góp phần đa dạng hố và
làm phong phú thêm thị trường các dịch vụ tài chính của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
Hiện nay, hoạt động CTTC đã có những bước phát triển mạnh mẽ,
khi tốc độ phát triển của khoa học công nghệ ngày càng nhanh, nó là một
phương thức tài trợ có độ an tồn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các
bên tham gia. CTTC trở thành phổ biến trong các hoạt động kinh tế quốc
tế và nó đã góp phần rất lớn vào việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển. Song cùng với sự phát triển mạnh mẽ, phương thức CTTC tại mỗi
quốc gia, mỗi khu vực có đặc điểm riêng biệt thể hiện sự phong phú và
đồng thời cũng là sự phức tạp của các giao dịch CTTC. Lịch sử phát triển
của ngành công nghiệp cho thuê thế giới cho thấy, ở mỗi quốc gia ngành
công nghiệp này đều trải qua những giai đoạn phát triển như nhau, tuy
nhiên chiều dài thời gian của mỗi giai đoạn ở mỗi quốc gia thì khơng
hồn tồn giống nhau do những tiến bộ về kỹ thuật tài trợ. Nhờ những
tiến bộ này, nền cơng nghiệp cho th phát triển sau có thể kế thừa và rút
ngắn thời gian phát triển.
5.1.1.2. Khái niệm và các đặc trưng của cho thuê tài chính

● Khái niệm cho thuê tài chính

CTTC là một trong những dịch vụ tài chính ngân hàng đã phát triển
mạnh tại nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước phát triển; tuy nhiên
nó vẫn là một dịch vụ cịn khá mới mẻ ở Việt Nam. Cho đến nay chưa có
một khn khổ pháp lý chung nào cho mọi giao dịch CTTC trên thế giới,
các bên giao dịch thường dựa vào một trong các nguồn luật sau:
- Hiệp định thống nhất dân sự về CTTC quốc tế (Hiệp hội CTTC
quốc tế thoả thuận ngày 26/5/1988, tại Ohawa-Canada).
- Tiêu chuẩn CTTC của Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế
(International Accounting Standard Committee-IASC), chuẩn mực số 17).
- Luật điều chỉnh hoạt động CTTC của quốc gia.
218


Về lý thuyết cũng như thực tiễn, hiện nay có nhiều quan điểm về
CTTC. Tuỳ theo góc độ nghiên cứu, hoặc theo quy định của luật pháp
mỗi nước mà có các khái niệm khác nhau. Theo công bố của Công ty tài
chính Quốc tế (IFC) về cuộc điều tra được tiến hành tại 37 quốc gia thì
chỉ có 19 quốc gia có định nghĩa rõ ràng về CTTC. Trong số 19 quốc gia
này cũng thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau: 9 quốc gia
định nghĩa các giao dịch CTTC trong luật CTTC, 10 quốc gia còn lại
định nghĩa chúng trong luật thuế, Nghị định của Chính phủ hay Thơng tư
về hạch tốn - kế tốn của Bộ Tài chính.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế tốn quốc tế (IAS) đưa ra định nghĩa về CTTC
như sau: “Cho thuê tài chính là một giao dịch trong đó một bên (người
cho thuê) chuyển giao quyền sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình cho
bên kia (người đi thuê) trong một thời gian nhất định, mà trong thời gian
đó người cho thuê dự định thu vốn tài trợ cùng các chi phí liên quan;
quyền sở hữu tài sản có được chuyển giao hay không tuỳ thuộc vào sự

thoả thuận giữa hai bên”.
Trên cơ sở định nghĩa của IAS, các quốc gia đưa ra khái niệm, tiêu
chuẩn giao dịch phù hợp với mơi trường kinh doanh của đất nước mình.
Ở Việt Nam, khái niệm và các tiêu chuẩn giao dịch CTTC được thể hiện
trong Nghị định của Chính phủ và hệ thống các chuẩn mực kế toán
Việt Nam. Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của cơng ty CTTC “Cho th tài chính là
một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thơng qua việc cho thuê máy móc
thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp
đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua
máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu
cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê
sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã
được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền
lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả
thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài
sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít nhất phải tương đương
với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng”.
219


Chuẩn mực số 06 “Thuê tài sản” trong hệ thống Chuẩn mực kế toán
Việt Nam (VAS) ban hành theo Quyết định 165/2002/QĐ-BTC của Bộ
trưởng Bộ Tài chính nêu định nghĩa dưới góc độ người đi th: “Th tài
chính là th tài sản mà bên cho thuê có sự chuyển giao phần lớn rủi ro
và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên thuê. Quyền sở hữu
tài sản có thể chuyển giao vào cuối thời hạn thuê”.
Từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng:
Theo thơng lệ quốc tế, CTTC được hiểu đơn giản là một dịch vụ tín
dụng dùng để thuận tiện hố việc huy động vốn thông qua việc cung cấp

các tài sản cho thuê mà khơng u cầu phải có một chứng khốn hay một
tài sản cầm cố nào khác. Người cho thuê chuyển giao quyền sử dụng tài
sản kèm theo lời hứa bán lại cho người thuê khi hợp đồng kết thúc với
giá cả được thoả thuận từ trước. CTTC về bản chất là một hoạt động tín
dụng, trong đó mục đích của người cho thuê cũng giống như mục đích
của người cho vay là thu lãi trên vốn đầu tư, còn mục đích của người đi
thuê là sử dụng vốn. Người cho thuê cấp tín dụng dưới dạng hiện vật (tài
sản) chứ không phải bằng tiền, nhưng thực chất là cung cấp tài chính
(cho thuê quyền sử dụng vốn) nên được gọi là CTTC.
Quan điểm về CTTC được quy định trong hai văn bản pháp lý của
Việt Nam hiện nay về cơ bản là phù hợp với chuẩn mực quốc tế về mặt
bản chất. Tuy nhiên, cách đưa ra khái niệm như vậy đã gây ra một số giới
hạn khi triển khai dịch vụ CTTC ở Việt Nam như: không áp dụng CTTC
đối với bất động sản; người cho thuê là sở hữu chủ tài sản, như vậy
không áp dụng phương thức thuê rồi cho thuê lại (cho thuê giáp lưng).
Mặt khác, cách diễn đạt tại Điều 1 của Nghị định 16/2001/NĐ-CP là
thiên về miêu tả trình tự và liệt kê các tiêu thức nhận biết một giao dịch
CTTC; trong khi đó cách diễn đạt khái niệm theo chuẩn mực kế toán số
06 lại đề cập theo một khía cạnh khác mang tính chung chung, cịn q
trừu tượng, gây khó hiểu.
Vì vậy có thể đưa ra khái niệm về CTTC như sau: “CTTC là một
dịch vụ tín dụng trung, dài hạn thơng qua việc cho thuê tài sản trên cơ sở
hợp đồng giữa hai bên, trong đó người cho thuê nắm giữ quyền sở hữu
220


tài sản và chuyển giao quyền sử dụng tài sản cùng với các rủi ro và lợi
ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê trong một thời
gian nhất định. Khi kết thúc thời hạn thuê, quyền sở hữu tài sản, quyền
chọn mua hoặc quyền thuê tiếp được người đi thuê lựa chọn theo các

điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng”.

Khái niệm này thể hiện rõ bản chất và đặc trưng của hoạt động
CTTC, phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ở nước ta.
Như vậy có thể thấy, hoạt động tín dụng trong nền kinh tế có thể
diễn ra dưới hai hình thức: cho vay bằng tiền hoặc cho vay bằng tài sản.
Theo thời gian, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự phân cơng
lao động xã hội, các giao dịch tín dụng này được tiêu chuẩn hóa và do
các tổ chức tài chính trung gian thực hiện. Hình thức CTTC (cho vay
bằng tài sản) do các công ty CTTC, NHTM… thực hiện. Tuy ra đời sau
so với hình thức cho vay bằng tiền của các NHTM nhưng nó lại gắn kết
chặt chẽ với yếu tố phát triển khoa học kỹ thuật, nên đã được ứng dụng
rộng rãi và phát triển mạnh mẽ.
● Các đặc trưng của cho thuê tài chính

Trong lĩnh vực cơng nghiệp cho th (Leasing) có hai hình thức cho
th là CTTC và cho thuê vận hành. Cho thuê vận hành là kiểu cho thuê tài
sản có từ lâu đời, ngày nay nó cịn được gọi là cho th hoạt động hay cho
thuê kiểu truyền thống. CTTC có những đặc trưng khác biệt so với cho thuê
vận hành, căn cứ để phân biệt giữa CTTC và cho thuê vận hành là:
- Những rủi ro và những biện pháp đảm bảo cho giá trị còn lại của
tài sản cho thuê do bên nào thực hiện.
- Quyền sử dụng và hưởng dụng tồn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản
cho thuê mang lại có được chuyển giao cho người đi th khơng.
Dựa trên căn cứ mang tính ngun lý đó hoạt động CTTC và cho
thuê vận hành có những điểm khác nhau cơ bản như sau:
- Đối với hoạt động CTTC thì khơng được huỷ ngang hợp đồng,
trong khi đó hợp đồng cho thuê vận hành có thể được huỷ ngang.
221



- Trong hoạt động CTTC, rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản
thuê do bên đi thuê gánh chịu; còn trong hoạt cho thuê vận hành, bên đi
thuê không chịu rủi ro thiệt hại nếu không phải lỗi do mình gây ra. Nói một
cách khác, rủi ro liên quan đến tài sản được chuyển giao cho bên đi thuê
trong hợp đồng CTTC còn trong hợp đồng cho thuê vận hành thì khơng.
- Đối với hoạt động CTTC, tài sản th trước khi ký hợp đồng có thể
khơng thuộc sở hữu của người cho thuê mà là do người đi thuê tìm, lựa
chọn từ nhà cung cấp và yêu cầu cơng ty CTTC mua để cho th; cịn đối
với hoạt động cho thuê vận hành, tài sản trước khi ký hợp đồng đã thuộc
quyền sở hữu của bên cho thuê.
- CTTC thường có dự định chuyển quyền sở hữu tài sản cho người
đi thuê khi hết hạn hợp đồng, vì bên cho thuê đơn thuần là người cung
cấp tài chính (vốn); cho th vận hành khơng có dự định đó.
- Thời gian cho thuê trong hợp đồng CTTC thường chiếm phần lớn
thời gian hữu ích của tài sản; trong khi đó thời hạn cho thuê của hợp
đồng cho thuê vận hành thường chiếm một phần nhỏ so với thời gian hữu
ích của tài sản.
- Hiện giá của tổng số tiền thuê phải trả trong hợp đồng CTTC ít
nhất bằng giá trị tài sản tại thời điểm ký hợp đồng, do đó người cho thuê
thường thu hồi đủ vốn đầu tư vào tài sản trong một hợp đồng; còn trong
hợp đồng cho thuê vận hành số tiền thuê nhỏ hơn nhiều so với giá trị của
tài sản thuê ban đầu, do vậy để thu hồi vốn đầu tư và có lãi người cho
thuê vận hành bắt buộc phải cho thuê với nhiều bên, qua nhiều hợp đồng.
Tuy có sự khác biệt như vậy nhưng trên thực tế vẫn tồn tại những
trường hợp mập mờ, khơng có ranh giới rõ ràng giữa CTTC và cho thuê
vận hành.
Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế - IAS đã đặt ra 4 tiêu chuẩn làm
cơ sở chung để phân loại và nhận dạng hợp đồng cho thuê tài sản thuộc

hình thức CTTC hay cho thuê vận hành. Tiêu chuẩn phân loại giao dịch
cho thuê do uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế - IAS quy định được thể
hiện theo sơ đồ dưới đây:
222


TÀI SẢN CHO THUÊ

Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho bên th tại thời
điểm chấm dứt hợp đồng



Khơng
Hợp đồng thuê quy định bên thuê được quyền chọn mua tài
sản với giá tượng trưng tại thời điểm chấm dứt hợp đồng



Khơng

Thời hạn th chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản



Khơng
Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tương đương hoặc lớn
hơn giá thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng




Khơng
Th vận hành

Thuê tài chính

Sơ đồ 5.1: Sự khác nhau giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành

Theo chuẩn mực trên, một hợp đồng cho thuê tài sản nếu thoả mãn 1
trong 4 tiêu chuẩn thì được coi là CTTC và nếu khơng thoả mãn cả 4 tiêu
chuẩn thì đó là cho thuê vận hành.
Trên cơ sở chuẩn mực chung của quốc tế, các tiêu chuẩn để phân
loại và nhận biết một giao dịch CTTC ở Việt Nam được quy định trong
Điều 1 Nghị định 16/2001/NĐ-CP và điểm 09 của chuẩn mực kế toán 06
- Thuê tài sản như sau:
- Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê khi
kết thúc thời hạn thuê.
223


- Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, bên thuê có quyền lựa chọn
mua lại tài sản thuê với mức giá ước tính thấp hơn giá trị hợp lý vào cuối
thời hạn thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong
hợp đồng.
- Thời hạn thuê tài sản chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của
tài sản cho dù khơng có sự chuyển giao quyền sở hữu.
- Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, giá trị hiện tại của các khoản
thanh toán tiền thuê tối thiểu chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê.
5.1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính


Hoạt động CTTC vừa mang đặc điểm của một hoạt động cho thuê tài
sản nói chung, vừa mang đặc điểm của một hoạt động tín dụng ngân hàng.
Tuy nhiên, với những đặc điểm giao dịch đặc thù của loại hình dịch vụ
này, nó tạo nên những đặc trưng riêng có khác với các loại dịch vụ kể trên.
- Về hình thức cấp tín dụng: cơng ty CTTC tiến hành đầu tư mua
sắm tài sản theo sự lựa chọn và yêu cầu của bên đi thuê, chuyển giao
quyền sử dụng tài sản cho bên thuê và định kỳ thu tiền thuê để thu hồi
vốn và kiếm lợi nhuận, quyền sở hữu tài sản thuộc bên cho thuê. Như
vậy, hình thức cấp tín dụng của CTTC là cấp tín dụng bằng hiện vật (cho
vay bằng hiện vật) chứ không phải cấp tín dụng bằng tiền như hoạt động
cho vay thơng thường của các NHTM.
- Có sự tách biệt về quyền sở hữu pháp lý và quyền sử dụng đối với
tài sản cho thuê.
Người cho thuê là chủ sở hữu của tài sản cho thuê trong suốt thời
hạn thuê. Khi quyền sở hữu đó chưa được chuyển giao cho người thuê
theo hợp đồng thì người thuê chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không
được quyền bán, thế chấp tài sản thuê hay dùng tài sản thuê làm đồ thế
nợ; không được thay đổi hình dáng, tính năng cơng dụng của tài sản thuê
hoặc chuyển tài sản thuê khỏi địa điểm đã được lắp đặt trong hợp đồng
mà không được sự đồng ý bằng văn bản của người cho thuê; không được
quyền sử dụng tài sản thuê với những mục đích không được thiết kế,
224


hoặc không mong đợi. Nếu người đi thuê vi phạm điều khoản của hợp
đồng thì người cho thuê sẽ thu hồi ngay tài sản với cương vị là sở hữu
chủ về mặt pháp lý đối với tài sản đó.
Mặc dù người cho thuê là người sở hữu về mặt pháp lý nhưng họ
không trực tiếp sử dụng tài sản, quyền lợi này được trao cho người đi
thuê. Đây chính là người sở hữu về mặt kinh tế, người đứng ra khai thác

tính hữu ích của tài sản và cam kết gánh chịu mọi rủi ro liên quan đến tài
sản thuê. Người đi thuê sẽ đền bù cho người cho thuê mọi mất mát hoặc
thiệt hại về tài sản thuê với bất cứ nguyên nhân nào. Người đi thuê đồng
ý bảo hiểm toàn bộ theo yêu cầu cụ thể của người cho thuê và sẽ duy trì
việc bảo hiểm cho đến hết thời hạn thuê. Người đi thuê sẽ tiến hành gìn
giữ và khai thác tài sản thuê ở trạng thái tốt nhất và cam kết thanh tốn
mọi khoản chi phí liên quan đến việc chuẩn bị, thực hiện các bước của
hợp đồng kể cả các khoản chi phí phát sinh ngồi thời hạn th như chi
phí nhập khẩu, bảo trì và các dịch vụ kèm theo...
- Thời hạn tín dụng trong giao dịch CTTC là thời hạn của hợp đồng
thuê. Thời hạn này không được hủy ngang và thường chiếm phần lớn
thời gian hữu dụng của tài sản. Hết thời hạn của hợp đồng thuê, người
thuê có thể được chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hoặc được tiếp tục
thuê theo thỏa thuận của hai bên. Quyền chọn mua hoặc thuê tiếp này là
một đặc trưng quan trọng để phân biệt CTTC với các hình thức cho thuê
giản đơn mà chúng ta quen gọi là cho thuê vận hành.
- Về khả năng kiểm sốt của người cấp tín dụng đối với tính mục
đích trong sử dụng vốn và khả năng hạn chế rủi ro. Trong hoạt động
CTTC, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê cho nên cơng ty
CTTC có quyền và có điều kiện để kiểm sốt chặt chẽ q trình sử dụng
tài sản của bên thuê, đảm bảo tính mục đích của tiền vốn đầu tư. Hình
thái vật chất của vốn đầu tư được xác định chính xác và dễ dàng là tài sản
cho thuê, cơng ty CTTC có quyền dán tem sở hữu lên tài sản đó, qua đó
dễ dàng kiểm tra q trình sử dụng tài sản và đánh giá hiệu quả sử dụng
tài sản thuê; phát hiện sớm các rủi ro tiềm ẩn và có biện pháp kịp thời
phịng ngừa hạn chế rủi ro; chủ động thu hồi tài sản cho thuê khi cần
thiết. Trong hình thức cấp tín dụng bằng tiền của các ngân hàng thương
225



mại thì khả năng kiểm sốt q trình sử dụng vốn của người đi vay để
đảm bảo tính mục đích của tiền vốn bị hạn chế hơn. Do tài sản hình
thành từ vốn vay thuộc quyền sở hữu của bên đi vay và tài sản đó cịn
được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu cho nên ngân hàng khó có thể có đủ cơ
sở để đánh giá đúng kết quả sử dụng vốn vay, phát hiện sớm rủi ro cũng
như biện pháp xử lý kịp thời với chi phí thấp. Qua đó cho thấy độ an tồn
của hình thức tài trợ bằng CTTC cao hơn so với hình thức tài trợ tín dụng
ngân hàng thơng thường.
5.1.1.4. Sự khác biệt của cho thuê tài chính với tín dụng ngân hàng

Về bản chất thì CTTC cũng là một hình thức tín dụng trung dài hạn,
tuy nhiên so với tín dụng ngân hàng nó có những khác biệt chính như sau:
- Hình thức cấp tín dụng của các cơng ty CTTC là cấp tín dụng bằng
tài sản (hiện vật), cịn các NHTM cấp tín dụng bằng tiền. Vì vậy, sau khi
hợp đồng được ký kết, đối với CTTC thì doanh nghiệp đi thuê sẽ được bổ
sung trực tiếp bằng các tài sản cố định; cịn đối với tín dụng ngân hàng,
doanh nghiệp đi vay sẽ được bổ sung vốn bằng tiền.
- Hoạt động CTTC (cho vay bằng hiện vật) thường gắn liền với
quyền sở hữu về tài sản, bên cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản; trong
khi đó tín dụng ngân hàng (cho vay bằng tiền) thì tài sản hình thành từ
vốn vay không thuộc quyền sở hữu của bên cho vay. Vì vậy, nếu doanh
nghiệp đi thuê bị phá sản thì bên cho thuê mặc nhiên thu hồi tài sản của
mình, còn với tư cách là người cho vay, ngân hàng phải chờ sự phán xét
của toà án. Như vậy, về mặt lý thuyết CTTC có độ an tồn cao hơn tín
dụng ngân hàng.
- Hoạt động CTTC khơng bị ràng buộc bởi hạn mức tín dụng, do bên
cho thuê nắm quyền sở hữu tài sản nên trong các hợp đồng CTTC mức
tài trợ vốn có thể đạt tới 100% giá trị tài sản. Trong khi đó, mức tài trợ
vốn của các hợp đồng cho vay của ngân hàng thương mại lại bị giới hạn
bởi một tỷ lệ nhất định so với giá trị của tài sản đảm bảo tiền vay. Chính

sự khác biệt này đã tạo nên tính hấp dẫn của dịch vụ CTTC đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ khi họ muốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh nhưng lại hạn chế về khả năng tài chính.
226


Bảng 5.1: Phân biệt cho thuê tài chính với tín dụng ngân hàng
Tiêu thức

Cho th tài chính

Tín dụng ngân hàng

Hình thức tài trợ

Bằng tài sản

Bằng tiền

Quyền sở hữu tài sản trong
thời gian thực hiện hợp
đồng

Thuộc bên cho thuê (người
cấp tín dụng)

Thuộc bên đi vay (người
được cấp tín dụng)

Giá trị hợp đồng so với giá

trị tài sản

Thường lớn hơn hoặc tương
đương giá trị hợp lý của tài
sản ở thời điểm bắt đầu hợp
đồng

Thường thấp hơn giá trị
hợp lý của tài sản ở thời
điểm bắt đầu hợp đồng

5.1.2. Các hình thức cho thuê tài chính
5.1.2.1. Các chủ thể liên quan đến cho thuê tài chính
 Các chủ thể cung cấp dịch vụ CTTC trên thị trường (người cho thuê)

Người cho thuê (Lessor): là nhà tài trợ vốn cho người đi thuê, là
người sẽ thanh tốn tồn bộ giá trị mua tài sản theo thoả thuận giữa
người đi thuê với nhà cung cấp, là chủ sở hữu tài sản về mặt pháp lý đối
với tài sản thuê. Trong trường hợp cho thuê tài sản của chính họ thì
người cho th cũng đồng thời là nhà cung cấp tài sản.
Người cho thuê chủ yếu là các cơng ty CTTC, ở một số nước cịn có
sự tham gia của các cơng ty tài chính, các NHTM hoặc cơng ty tài chính
con của các tập đồn sản xuất.
Tùy theo luật pháp và định chế của mỗi nước khác nhau mà các chủ
thể chuyên cung cấp dịch vụ CTTC được quy định khác nhau. Hầu hết
các quốc gia đều coi các chủ thể cung cấp dịch vụ CTTC là các tổ chức
tài chính phi ngân hàng. Luật pháp của nhiều quốc gia đều cấm các thể
nhân, doanh nghiệp tư nhân hay các cơng ty phi tài chính và có thể cả các
NHTM khơng được tham gia hoạt động CTTC (Hàn Quốc, Anh
quốc,…). Tuy nhiên, nhiều quốc gia có những quy định rộng rãi hơn, họ

cho phép các tập đồn cơng nghiệp tham gia hoạt động CTTC như là một
hình thức hỗ trợ bán sản phẩm của mình thông qua các công ty con
chuyên kinh doanh CTTC (Mỹ). Bên cạnh đó, có những nước coi cơng ty
CTTC như một công ty thương mại (Thái Lan).
227


Ở các nước đang phát triển, do đặc điểm CTTC của các quốc gia này
là tiếp nhận vốn, công nghệ từ bên ngồi thơng qua CTTC, nên các cơng
ty CTTC cịn có chức năng hoạt động như một cơng ty xuất nhập khẩu để
tài trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các nước này thường cho phép
các công ty 100% vốn nước ngồi, cơng ty liên doanh với nước ngoài
chuyên doanh cho thuê theo định hướng của kế hoạch Nhà nước (Hàn
Quốc, Trung Quốc).
Tóm lại, với bản chất và các đặc điểm của thị trường CTTC - một bộ
phận của thị trường vốn, chủ thể cung cấp dịch vụ CTTC trên thị trường
CTTC phải là một tổ chức tài chính trung gian, đó là các cơng ty CTTC;
NHTM, cơng ty tài chính, cơng ty tài chính con của các tập đồn cơng
nghiệp lớn có thể tham gia kinh doanh CTTC như là một trong các chức
năng hoạt động của các tổ chức đó. Việc xác định rõ vị trí, tính chất hoạt
động của các cơng ty CTTC và mức độ tham gia của các tổ chức tài
chính trung gian khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng môi
trường pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường CTTC. Ngồi ra, các
cơng ty CTTC hoạt động trên thị trường CTTC Việt Nam cần phải lấy
mục tiêu CNH-HĐH làm định hướng phát triển, gắn hoạt động của mình
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
 Chủ thể cầu vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính - Người đi thuê

Người đi thuê (Lessee): là người nhận tài trợ tín dụng của người cho
thuê. Người đi th có quyền sử dụng, hưởng những lợi ích do tài sản

đem lại và có trách nhiệm trả tiền thuê theo thoả thuận.
Người đi thuê là các doanh nghiệp hoặc các cá nhân kinh doanh có
nhu cầu trang bị máy móc thiết bị phục vụ cho mục đích của mình
nhưng khơng có vốn đầu tư hoặc xét thấy việc đầu tư đem lại hiệu quả
không cao.
Cầu về thuê tài chính thường xuất hiện ở các chủ thể là các cá nhân
sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, những chủ thể mà
khả năng tài chính bị hạn chế và khơng có uy tín với ngân hàng trong
quan hệ tín dụng. Họ thường khơng đáp ứng được điều kiện về tài sản
đảm bảo tiền vay của ngân hàng. Mặt khác, giới hạn về hạn mức tín dụng
của ngân hàng trong các hợp đồng cho vay (tối đa bằng 80% giá trị của
228


tài sản đảm bảo tiền vay) đã làm cho nhu cầu đầu tư trang bị những tài
sản hiện đại tiên tiến, có giá trị lớn nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp này không được thực hiện. Trong bối cảnh đó tìm
con đường tài trợ bằng đi thuê tài chính tỏ ra ưu việt hơn cả, các doanh
nghiệp nhỏ và vừa hoặc các cá nhân kinh doanh sẽ có được máy móc
thiết bị như mong muốn để gia tăng năng lực sản xuất kinh doanh của
mình trong điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư.
Với các doanh nghiệp lớn, khả năng tài chính lớn hơn, có thể huy
động vốn từ nhiều nguồn một cách dễ dàng thì cầu về th tài chính sẽ
xuất hiện khi họ cân nhắc chi phí sử dụng vốn, so sánh giữa các nguồn và
thấy rằng đi thuê tài chính sẽ đem lại hiệu quả cao hơn do những đặc
trưng vốn có của nó.
Cầu về th tài chính cũng xuất hiện ở các doanh nghiệp có cơ cấu
đầu tư khơng hợp lý, đầu tư quá nhiều vào tài sản cố định và đang thiếu
vốn lưu động thường xuyên. Thông qua nghiệp vụ bán và tái thuê - một
phương thức giao dịch đặc thù của dịch vụ CTTC, các doanh nghiệp này

có thể lưu động hoá số vốn đã đầu tư cho tài sản cố định để phục vụ cho
các mục đích sử dụng khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì
được quy mơ hoạt động như cũ vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng.
5.1.2.2. Các hình thức cho thuê tài chính

Các giao dịch cho thuê tài chính diễn ra rất phong phú và đa dạng,
tùy theo tính chất trong từng giao dịch mà có thể phân thành nhiều
phương thức cho th tài chính khác nhau:
 Các hình thức cho thuê tài chính cơ bản

Căn cứ vào số bên tham gia trong một hợp đồng CTTC thì phương
thức giao dịch CTTC cơ bản bao gồm: CTTC có sự tham gia của ba bên
và CTTC có sự tham gia của hai bên.
Phương thức cho th tài chính có sự tham gia của 3 bên (còn gọi là
thuê mua thuần - Net Lease)

Tuyệt đại đa số hợp đồng CTTC là các thỏa thuận 3 bên. Hình thức
thỏa thuận CTTC này thường được thực hiện dưới dạng hợp đồng CTTC
trả hết. Người cho th trơng đợi sẽ thu hồi tồn bộ chi phí của tài sản
229


thuê cộng với tiền lãi trong thời hạn thuê được tính theo lãi suất ở mức
mang lại lợi nhuận. Do đó, người cho thuê nhận được tỷ suất lợi nhuận
được xác định trước trên số vốn được dùng để tài trợ cho khoản đầu tư.
Trong phương thức giao dịch này các bên liên quan có những nghĩa
vụ và trách nhiệm như sau:
- Người đi thuê:

+ Lựa chọn loại máy móc thiết bị cần thiết.

+ Lựa chọn nhà cung cấp thiết bị.
+ Thương lượng các điều khoản bảo hành, cách thức bảo dưỡng, các
chi tiết về thủ tục giao nhận, hải quan, vận chuyển, thủ tục cấp giấy
phép... (nếu có).
+ Thương lượng về thời gian biểu lắp đặt thiết bị, đào tạo, về giá
mua, về bảo hiểm...
- Người cho thuê:

+ Xét duyệt tài trợ cho người đi thuê.
+ Xác nhận các chi tiết và giá cả của thiết bị từ phía người đi thuê và
nhà cung ứng.
+ Soạn thảo hợp đồng cho thuê và thực hiện hợp đồng đó với người
đi thuê và người bảo hành (nếu có).
+ Soạn thảo hợp đồng mua thiết bị giữa người cho thuê và nhà
cung ứng.
+ Sau khi thiết bị đã được giao nhận phải thông báo: "Xác nhận thiết
bị đã được giao" để xác nhận tính phù hợp và tình trạng làm việc của
thiết bị, đồng thời thanh toán đầy đủ tiền mua thiết bị theo giá đã được
quy định trong hợp đồng.
Trong bất cứ trường hợp nào, người cho thuê cũng phải có quyền sở
hữu pháp lý rõ ràng. Người cho thuê sẽ đăng ký, cơng chứng hợp đồng
cho th tài chính và đăng ký thiết bị. Sau khi người cho thuê đã thanh
tốn tiền mua thiết bị thì thời hạn th thường bắt đầu.
230


- Người cung ứng:

+ Đàm phán với người đi thuê.
+ Giao thiết bị trong tình trạng làm việc tốt cho người đi thuê.

+ Thực hiện hợp đồng CTTC với người cho thuê và người đi thuê,
lập chứng từ mua bán... trong đó bao gồm cả các chi phí cung cấp dịch
vụ sau khi bán và đào tạo cho người đi thuê nếu có thỏa thuận.
Phương thức CTTC có sự tham gia của 3 bên có thể tổng kết qua
sơ đồ 5.2.
(1)

Người cho thuê

(3)

Hợp đồng cho thuê TC
Quyền sử dụng tài sản
Trả tiền thuê tài sản

Hợp
đồng
mua
tài
sản

(2)

Người đi thuê

(5)

Giao
tài
sản


Quyền Trả tiền
sở hữu mua tài
pháp lý sản
đối với
tài sản

(3)

(3)

(4)
Nhà cung cấp

Bảo trì Trả tiền
và phụ bảo trì
tùng
và phụ
thay thế tùng
thay thế

(6)

(7)

Sơ đồ 5.2: Cho th tài chính có sự tham gia của ba bên
Phương thức cho th tài chính có sự tham gia của hai bên (còn gọi
là hợp đồng CTTC tài trợ trực tiếp - Direct leases).

CTTC tài trợ trực tiếp là phương thức mà người cho thuê sử dụng

thiết bị, tài sản của họ có sẵn trực tiếp tài trợ cho người đi thuê. Người
cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính, cũng có thể
231


là công ty CTTC sử dụng tài sản của họ tài trợ cho người đi thuê. Hình
thức thỏa thuận thuê này thường được thực hiện dưới dạng hợp đồng
CTTC trực tiếp và có những đặc điểm căn bản như sau:
- Thường do các công ty con của các hãng sản xuất máy móc thiết bị
thực hiện.
- Tài sản cho thuê thường có giá trị khơng q lớn và thường là máy
móc thiết bị.
- Chỉ có 2 bên tham gia trực tiếp vào giao dịch là người cho thuê và
người đi thuê.
- Vốn tài trợ hoàn toàn do người cho thuê đảm nhiệm.
- Người cho thuê có thể mua lại thiết bị khi chúng bị lạc hậu.
Đây là một hình thức tài trợ mà các nhà sản xuất thường sử dụng để
đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm do họ sản xuất ra. Mặt khác nhờ luôn
cập nhật những công nghệ mới để chế tạo các loại máy móc thiết bị nên
các nhà sản xuất có thể mua lại những thiết bị đã lạc hậu về mặt công
nghệ để tiếp tục cung cấp những máy móc thiết bị mới, hiện đại do họ
chế tạo ra. Phương thức tài trợ này có thể tổng kết qua sơ đồ 5.3.
(2)

(4)

Người cho
thuê hay
nhà sản xuất


Thiết bị và quyền sử dụng
Dịch vụ bảo trì
và phụ tùng thay thế
Trả tiền thuê
Trả tiền dịch vụ bảo trì và
phụ tùng thay thế

(6)
(1)

Người đi thuê
(3)
(5)

Bán lại thiết bị lạc hậu
Hợp đồng thuê TC

Sơ đồ 5.3: Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên
232


 Các phương thức cho thuê tài chính đặc biệt

Theo tính chất trong từng giao dịch và cách tiếp cận từ phương diện
của người cho thuê và người đi thuê, thì CTTC bao gồm các loại sau:
a) Các phương thức cho thuê tài chính tiếp cận từ phương diện
người cho thuê
Cho thuê tài chính liên kết - Syndicate Leases
(1)
Các định chế

tài chính
các nhà chế tạo

(2)

Hợp đồng thuê tài chính
Quyền sử dụng tài sản
Người đi thuê
Trả tiền thuê tài sản

Các chi nhánh

Các mối quan hệ tương tự như
phương thức cho thuê tài chính
cơ bản có 3 bên tham gia

(3)
(4)

Sơ đồ 5.4: Cho thuê tài chính liên kết

CTTC liên kết là một phương thức CTTC gồm nhiều bên tài trợ cho
một người đi thuê. Phương thức này áp dụng khi tài sản cho th có giá
trị lớn, bản thân một NHTM, cơng ty CTTC khơng có khả năng đáp ứng
hoặc muốn phân tán rủi ro nên phải liên kết với các NHTM, công ty
CTTC khác, hay các nhà sản xuất để tiến hành đồng tài trợ (sự liên kết
theo chiều ngang). Hoặc trong trường hợp các định chế tài chính hay các
hãng sản xuất lớn giao tài sản cho chi nhánh của họ thực hiện giao dịch
tài trợ cho khách hàng thì hình thành sự liên kết theo chiều dọc.
Đặc trưng của phương thức giao dịch này khơng có sự khác biệt lớn

so với phương thức CTTC cơ bản có sự tham gia của ba bên. Tuy vậy,
hợp đồng CTTC này lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận liên kết
vốn của nhiều định chế tài chính hay các nhà sản xuất.
233


Cho thuê tài chính bắc cầu - Leveraged Lease

CTTC bắc cầu là một phương thức đặc biệt của CTTC căn bản, chỉ
mới được áp dụng phổ biến trong thời gian gần đây, xuất phát từ thực tế
các NHTM, công ty CTTC có những hạn chế về nguồn vốn, khơng đủ tài
trợ cho một hợp đồng thuê, chẳng hạn như: cho thuê một máy bay hay
một tàu chở hàng, hay một tổ hợp dây chuyên lớn... Theo phương thức
này, người cho thuê đi vay để mua tài sản cho thuê từ một hay nhiều
người cho vay nào đó. Như vậy, để đạt được một giao dịch CTTC theo
phương thức này lại phụ thuộc vào thỏa thuận vay vốn giữa người cho
thuê với người cho vay.
Người đi vay

Tiền
trả
nợ

Tiền
cho
vay

Tài sản thuê
Người cho thuê


Người đi thuê
Trả tiền thuê

Sơ đồ 5.5: Cho thuê tài chính bắc cầu

Theo luật pháp của một số quốc gia, khoản tiền vay này không được
vượt quá 80% tổng giá trị của tài sản tài trợ. Vật thế chấp cho khoản vay
này là quyền sở hữu tài sản cho thuê và các khoản tiền thuê mà người đi
thuê sẽ trả trong tương lai. Người cho vay được hoàn trả tiền vay từ các
khoản tiền thuê mà người cho thuê nhận được hoặc có thể do người đi
thuê trực tiếp chuyển trả theo yêu cầu của người cho thuê. Sau khi trả hết
nợ vay, những khoản tiền thuê còn lại mới thực sự tạo ra thu nhập và
hoàn vốn cho người cho thuê.
234


Về phía người th khơng có sự khác biệt căn bản trong giao dịch so
với phương thức cho thuê cơ bản. Hình thức cho thuê này đem lại lợi
nhuận và mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn của người
cho thuê, góp phần đáp ứng nhu cầu đa dạng của người thuê.
b) Các phương thức cho thuê tài chính tiếp cận từ phương diện
người thuê

Trên phương diện người thuê, hợp đồng CTTC cơ bản cũng có
những biến thể rất đa dạng. Sự đa dạng này thể hiện tính linh hoạt trong
các hình thức tài trợ của người cho thuê, tạo điều kiện cho người thuê có
thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn tài trợ và đa dạng hóa các hình thức
tài trợ của người cho thuê.
Phương thức bán và tái thuê (Sale and leaseback)


Phương thức bán và tái thuê là một dạng đặc biệt của phương thức
CTTC cơ bản có sự tham gia của hai bên.
Bán và tái thuê là một thỏa thuận tài trợ tài chính mà theo đó người
đi th bán lại tài sản của chính họ cho người cho thuê và đồng thời thuê
lại tài sản mà chính họ vừa bán. Bán và tái thuê được áp dụng trong thực
tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh, khi mà doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn về nguồn vốn lưu động trong khi
vay vốn ngân hàng lại gặp nhiều thủ tục, điều kiện khắt khe mà các
doanh nghiệp khó có thể thỏa mãn; đồng thời năng lực sản xuất của
doanh nghiệp vẫn phải duy trì nên khơng thể giảm bớt tài sản cố định để
chuyển thành tài sản lưu động. Trong trường hợp đó họ buộc phải bán lại
một phần tài sản cố định cho công ty CTTC, sau đó thuê lại tài sản đó để
sử dụng và như vậy sẽ có thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn
lưu động. Đôi lúc các ngân hàng cũng áp dụng phương thức tài trợ này
như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn mà không phải dùng đến biện
pháp thanh lý, tức là đề nghị tuyên bố phá sản khi người đi vay lâm vào
tình trạng khó khăn về tài chính.

235


Cơng ty cho th
tài chính

Thỏa thuận mua bán TS

Chủ sở hữu TS
ban đầu (DN)

Quyền sở hữu TS


Người mua

Trả tiền mua TS

Người bán

Quyền sử dụng tài sản
Người cho thuê

Hợp đồng thuê TS

Người đi thuê

Trả tiền thuê TS

Sơ đồ 5.6: Phương thức bán và tái thuê

Đặc trưng chủ yếu của phương thức giao dịch này là: người đi thuê
giữ lại quyền sử dụng tài sản và chuyển giao quyền sở hữu pháp lý cho
người cho thuê, đồng thời nhận được tiền bán tài sản. Điều đáng lưu ý là
những tài sản được sử dụng vào giao dịch này phải là những tài sản cịn
giá trị sử dụng hữu ích. Giá mua tài sản tùy thuộc vào giá cả hợp lý của
tài sản đó trên thị trường ở thời điểm diễn ra hoạt động mua bán. Người
thuê có đầy đủ các nghĩa vụ thực hiện hợp đồng về bảo dưỡng và làm
dịch vụ đối với tài sản để đảm bảo rằng tài sản th ln được giữ trong
tình trạng hoạt động tốt.
Tiếp cận ở góc độ người cho thuê, ở Việt Nam phương thức này
được gọi là mua và cho thuê lại.
Phương thức cho thuê tài chính giáp lưng - Under Lease


CTTC giáp lưng là một loại giao dịch CTTC mà thông qua sự đồng
ý của người cho thuê, người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai
thuê lại tài sản mà họ đã thuê được từ người cho thuê. Kể từ khi hợp
đồng CTTC giáp lưng được ký kết, quyền sử dụng tài sản và nghĩa vụ
đối với tài sản đó sẽ được chuyển giao từ người đi thuê thứ nhất sang
người đi thuê thứ hai.
236


Tuy nhiên, người đi thuê thứ nhất phải chịu trách nhiệm liên đới đối
với những rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản thuê, vì họ là người
trực tiếp ký kết hợp đồng với người cho thuê ban đầu. Hình thức này
thường được ứng dụng trong trường hợp người đi thuê thứ nhất khi thực
hiện được một phần hợp đồng, vì những lý do khác nhau khơng cịn nhu
cầu sử dụng tài sản thuê nữa, trong khi đó hợp đồng CTTC lại không thể
hủy ngang. Do vậy, họ phải tìm đến người thuê thứ hai để chuyển
nhượng hợp đồng, bởi nếu khơng cho th tiếp được thì dù không sử
dụng tài sản họ vẫn phải trả tiền thuê.

Người
cho thuê

Quyền sử dụng TS

Trả tiền thuê

Người đi
thuê
thứ nhất


Quyền sử dụng TS

Trả tiền thuê

Người đi
thuê
thứ hai

Sơ đồ 5.7: Phương thức cho th tài chính giáp lưng
Phương thức th mua trả góp - Lease Purchase Arrangement

Đây là một phương thức tài trợ khá đặc biệt của hoạt động CTTC,
theo đó các nhà sản xuất hay các định chế tài chính tiến hành thỏa thuận
và ký hợp đồng thuê mua với doanh nghiệp có nhu cầu. Hợp đồng này
cho phép người mua tài sản thanh toán tiền mua thành nhiều kỳ vào
những thời điểm được ấn định trước và mỗi lần trả một phần giá trị của
tài sản cùng tiền lãi. Thông thường, khi hợp đồng có hiệu lực người mua
phải trả ngay cho nhà tài trợ khoản thanh toán đầu tiên chiếm từ 25% 30% giá trị của tài sản, phần còn lại trả góp theo quy định và kết thúc
hợp đồng quyền sở hữu tài sản được chuyển giao cho người mua.
Hình thức tài trợ này có nguồn gốc từ những biện pháp khuyến mại
của các hãng chế tạo lớn nhằm đẩy mạnh việc bán sản phẩm của họ và
thời kỳ đầu mang bản chất của một nghiệp vụ tín dụng thương mại. Thời
kỳ đầu người bán thường chuyển giao quyền sở hữu tài sản ngay cho
người mua khi hợp đồng có hiệu lực; nhưng biện pháp này đem lại cho
người bán quá nhiều rủi ro, cho nên sau này người bán giữ lại quyền sở
hữu của tài sản cho đến khi kết thúc hợp đồng và như vậy hình thức bán
trả góp trở nên tương đồng với CTTC.
237



Sự tham gia có tính chất chun mơn hóa của các định chế tài chính
trong bối cảnh nền KTTT có cạnh tranh đã tạo ra tính hấp dẫn của
phương thức tài trợ này so với hình thức bán trả góp đơn thuần. Các nhà
kinh doanh cho thuê tuy yêu cầu trả trước một phần vốn tài trợ ngay kỳ
thanh toán đầu tiên, nhưng chỉ trích một tỷ lệ thấp để trả nợ, phần còn lại
được coi là khoản tiền gửi ký quỹ của khách hàng. Tiền lãi từ khoản tiền
ký quỹ này sẽ được khấu trừ vào phí thuê mỗi kỳ do đó làm giảm chi phí
của người th mà vẫn đảm bảo được sự an toàn cho giao dịch.
(1)
Người bán
(2)

Người cho thuê

Hợp đồng mua trả góp

Người mua

Quyền sử dụng tài sản
Trả tiền mua tài sản trả
lần đầu tiên
Tiền trả góp định kỳ
Quyền sở hữu tài sản khi kết
thúc hợp đồng

(3)

Người đi thuê


(4)
(5)

Sơ đồ 5.8: Phương thức thuê mua trả góp
5.1.3. Quản trị cho th tài chính
5.1.3.1. Đối tượng dịch vụ của cho thuê tài chính

CTTC là dịch vụ do các NHTM, cơng ty CTTC cung cấp cho khách
hàng. Ngồi dịch vụ chính là CTTC cịn có các dịch vụ kèm theo như
dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ đăng ký đảm bảo tài sản, dịch vụ xác
định giá trị tài sản,…
Dịch vụ CTTC là một trong những dịch vụ tài chính - ngân hàng
thuộc nhóm 1 theo cách phân loại của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) về dịch vụ tài chính - kế tốn. Dịch vụ CTTC là một loại hàng
hố vơ hình (hàng hố phi vật thể), do vậy khi cung cấp ra thị trường
phải đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, số lượng, giá cả như sau:
- Chất lượng: cũng giống như các loại hình dịch vụ khác, dịch vụ
CTTC khi cung cấp cho khách hàng cũng phải đảm bảo về chất lượng.
238


Chất lượng của dịch vụ CTTC được hiểu là khả năng thoả mãn cao nhất
đối với khách hàng đi thuê về mức độ vốn tài trợ thông qua tài sản thuê
và sự phù hợp về mục tiêu hiện đại hoá sản xuất mà tài sản thuê có thể
đáp ứng, về tính kịp thời và đơn giản trong xét duyệt tài trợ, về tính phù
hợp và thuận tiện cho khách hàng thuê trong thanh toán tiền thuê,…
- Khối lượng đủ lớn, chủng loại đa dạng và phong phú đáp ứng được
các nhu cầu khác nhau của mọi đối tượng khách hàng. Các NHTM, cơng
ty CTTC phải có đủ năng lực tài chính để tạo ra khối lượng dịch vụ đủ
lớn đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường; mặt khác, phải tiến

hành cung cấp dịch vụ theo nhiều phương thức khác nhau và cơ cấu tài
sản cho thuê đảm bảo tính đa dạng và phong phú.
- Giá cả của dịch vụ CTTC phải được hình thành trên cơ sở quan hệ
cung cầu về cho thuê trên thị trường, song Nhà nước cũng cần phải quản
lý và điều tiết mức giá của loại hàng hoá đặc thù này trên cơ sở các chính
sách kinh tế vĩ mơ, các cơng cụ của thị trường để hạn chế các mặt tiêu cực.
5.1.3.2. Giá cả dịch vụ cho thuê tài chính

Giá cả của dịch vụ CTTC là một vấn đề quan trọng, có tác động lớn
đến sự phát triển của thị trường. Mang bản chất là một dịch vụ tín dụng
trung dài hạn, nên giá cả CTTC được hiểu là toàn bộ lãi tiền thuê phải trả
tính trên tổng số vốn tài trợ biểu thị theo tỷ lệ % gọi là lãi suất cho thuê.
Như vậy, trong tổng số tiền thuê phải trả theo kỳ hạn, giá cả CTTC
không bao gồm phần nợ gốc phải trả của khách hàng.
Mức giá hợp lý là mức giá mà người đi thuê có thể chấp nhận được
và vẫn đảm bảo tính cạnh tranh trong kinh doanh. Đối với người cho
thuê, mức giá hợp lý là mức giá đem lại thu nhập đủ trang trải toàn bộ
các chi phí và có lợi nhuận hợp lý. Yếu tố rất quan trọng để định giá hợp
lý là phải hiểu nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó phát triển mối quan
hệ tốt với khách hàng để có thể đáp ứng nhu cầu của họ ngày càng tốt
hơn. Những yếu tố này sẽ gây ấn tượng rất tốt với khách hàng và sẽ lôi
cuốn họ đến với nhà tài trợ (các NHTM, cơng ty CTTC…). Về phía
người đi th, hiểu biết về giá cả cũng là một yếu tố rất cần thiết để xem
xét, lựa chọn mức giá có thể chấp nhận được trên cơ sở mức giá do nhà
tài trợ đưa ra trong quá trình thương lượng, ký kết hợp đồng.
239


Các yếu tố hình thành nên giá cả dịch vụ CTTC bao gồm:
- Chi phí sử dụng vốn tính trên lượng vốn đầu tư để hình thành nên

tài sản cho thuê. Phần chi phí này được tính theo một mức lãi suất nhất
định xuất phát từ tình hình cung cầu vốn trên thị trường, lạm phát, công
nghệ, cạnh tranh và nhiều yếu tố khác. Có thể áp dụng lãi suất cố định
hoặc lãi suất thả nổi theo từng trường hợp, nhưng mức lãi suất không
thấp hơn lãi suất đầu vào trong huy động vốn của NHTM, công ty CTTC.
- Chi phí marketing trực tiếp trong q trình triển khai dịch vụ: bao
gồm tất cả các chi phí liên quan trong q trình mua tài sản, chi phí cơng
chứng, chi phí trả hoa hồng cho người mơi giới…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho tài sản cho thuê: bao
gồm tất cả các chi phí cố định và chi phí biến đổi trong quản lý của cơng
ty CTTC được phân bổ cho tài sản thuê.
- Khoản dự phòng cho trường hợp không thu hồi được vốn tài trợ.
Độ lớn của các khoản dự phòng cho sự thiệt hại do không thu hồi được
vốn tài trợ được xác định trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động cho thuê
trước đó và kết quả đánh giá xếp hạng tín dụng trong từng trường hợp.
- Lợi nhuận dự tính. Mức lợi nhuận dự tính thường chịu sự chi phối
của yếu tố cạnh tranh của thị trường. Người cho thuê thường chấp nhận
mức lợi nhuận dự tính thấp hơn đối với các tài sản tài trợ cho các khách
hàng lớn, nếu thấy rằng trong tương lai cịn có thể thu được lợi nhuận từ
những khách hàng này và tài sản cho thuê chỉ là một phần của các dịch
vụ hỗ trợ kèm theo.
- Giá trị cịn lại của tài sản th được tính tốn tuỳ theo điều khoản
quy định về chuyển giao tài sản tại thời điểm kết thúc hợp đồng. Nếu tài
sản được chuyển cho người đi thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng với
mức giá tượng trưng hay hoàn toàn miễn phí, thì người cho th thường
định giá cao hơn so với trường hợp tài sản được chuyển giao theo giá thị
trường hay trả lại cho người cho thuê.
Ngoài các yếu tố trên, nếu người cho thuê còn cung cấp các loại phụ
tùng, thiết bị kỹ thuật hay các loại dịch vụ bảo trì khác theo hình thức tài
trợ trọn gói thì giá th sẽ được tính cả những khoản tiền này. Trong

240


×