HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
HƯƠU SAO: NGUỒN GỐC, ĐẶC TÍNH, LỢI ÍCH VÀ THỰC TRẠNG CHĂN NI
Nguyễn Xn Trạch1*
Tóm tắt
Hươu Sao (Cervus nippon) là một loài động vật nhai lại đã được thuần dưỡng từ lâu đời nay. Việt Nam có một
phân lồi hươu Sao (Cervus nippon pseudaxis) và nghề ni hươu cũng có thể đã có từ hàng trăm năm trước. Đến
nay, các đặc tính sinh học của hươu Sao đã được tư liệu hóa tương đối đầy đủ. Theo đó, đặc thù nhất ở hươu Sao
là hoạt động sinh dục chỉ diễn ra vào một thời gian ngắn trong năm, nhưng trong thời gian đó thì hươu đực lại có
nhu cầu sinh dục đặc biệt mãnh liệt. Điều đó dẫn đến hình thành một số tập tính đặc thù liên quan khác như tập
tính tranh giành quyền thống trị đàn và chiếm lãnh địa của hươu đực để có được đặc quyền giao phối với đàn hươu
cái. Cũng liên quan đến sinh lý sinh dục mà hươu đực có hiện tượng rụng sừng và tái sinh sừng hàng năm với tốc
độ nhanh lạ thường. Chính nhờ có các hoạt chất sinh học liên quan đến năng lực hoạt động sinh dục cao và giúp
tại tạo mô bào nhanh như vậy mà nhung hươu đã được dùng như một loại thuốc quý. Ngoài ra, thịt hươu và một
số sản phẩm khác từ hươu cũng rất có giá trị. Chính vì thế mà chăn ni hươu có thể đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội cao. Mặc dù hươu Sao đã được nuôi từ lâu đời nhưng việc nghiên cứu và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong
chăn nuôi hươu Sao ở châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng cịn nhiều hạn chế so với các lồi hươu khác mới
được nuôi gần đây ở châu Âu, châu Mỹ và châu Đại Dương.
Từ khóa: Đặc điểm sinh học, hươu sao, Việt Nam.
SIKA DEER: ORIGIN, CHACTERISTICS, VALUES AND THE STATUS QUO OF
HUSBANDRY
Abstract
This paper reviews the taxonomic origin, biological chacteristics, socio-economic values of Sika deer (Cervus
nippon) and the status quo of its husbandry in the world and in Vietnam. It shows that Sika deer is a ruminant species
that has been tamed and kept for a very long time in Asia. Vietnam has a subspecies of Sika deer (Cervus nippon
pseudaxis), which has also been raised for hundreds of years. So far, the Sika has been fairly well characterised.
It is clear that the most typical feature of the deer is the seasonal rut, which occurs for only a short time period
every year; nevertheless, during the rut the stag shows extremely strong sexual libido. This is inherently related
to other typical behaviors such as fighting for herd domination and territory accupation, which would bring about
the privilege for the winning stag to mate a harem of hinds. Also in connection to the sexual physiology, the velvet in
the stag is shed and regrenerates every year at an extraordinarily high rate. It is owing to special bioactive agents
stimulating sexual libido and regrowth of tissues that the velvet (young antler) has been made use as a precious
medicine. In addition, the deer has other valuable products for human usage. Therefore, deer keeping should yield
potential siocio-economic benefits. In spite of the fact that Sika deer has been raised for a very long time in Asia
and Vietnam, research and technology development for its husbandry here has been still limited compared to other
species of deer which have recently been raised in Europe, America and Oceania.
Keywords: Biological characteristics, Sika deer, velvet, Vietnam.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăn ni hươu đã có từ lâu đời nay
ở nhiều nước trên thế giới và ngày càng phổ
biến như một ngành sản xuất có hiệu quả kinh
tế cao. Hươu cho một số sản phẩm hàng hóa
Khoa Chăn ni, Học viện Nông nghiệp Việt Nam;
Tác giả liên hệ: Nguyễn Xuân Trạch. Email: ; ĐT: 0904.148.104
1
*
87
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
có giá trị cao như nhung và thịt; ngồi ra các
phụ phẩm như da, xương, sừng, móng,... đều
có thể được sử dụng. Mặc dù khơng nhằm
mục tiêu bảo vệ các lồi có nguy cơ tuyệt
chủng, chăn ni hươu cũng có thể và đóng
một vai trị quan trọng trong việc bảo tồn các
loài động vật hoang dã. Chăn ni hươu có
thể đóng một vai trị quan trọng trong việc
khai thác bền vững các vùng đất đồi núi vốn
không thuận lợi cho các hoạt động sản xuất
khác để tạo việc làm, thu nhập cho người dân,
là một phương tiện xố đói giảm nghèo, là
cơng cụ để góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Hươu Sao (Cervus nippon) là một loài
trong số các loài hươu đã được con người
thuần dưỡng để khai thác sản phẩm. Hươu
Sao có nhiều phân lồi, trong đó Việt Nam
có một phân lồi riêng gọi là hươu Sao Việt
Nam (Cervus nippon pseudaxis)). Trong thiên
nhiên phân lồi hươu này hầu như khơng cịn
tồn tại, nhưng nó đã được thuần dưỡng và
phục hồi số lượng dưới dạng vật ni. Hiện
nay, nghề ni hươu Sao đang được khuyến
khích phát triển vì những lợi kinh tế-xã hội
tiềm tàng mà nó có thể mang lại. Bài viết này
nhằm cung cấp một tổng quan về nguồn gốc
phân loại, đặc điểm sinh học, giá trị kinh tế xã hội của hươu Sao và tình hình chăn ni
hươu Sao trên thế giới cũng như trong nước.
2. HƯƠU SAO TRONG PHÂN LOẠI
ĐỘNG VẬT VÀ VẬT NI
Cho đến nay trên thế giới đã có trên 40
lồi và trên 200 phân lồi hươu được mơ tả về
hình thái và phân bố địa lý (Whitehead, 1993).
Theo thang phân loại động vật, hươu Sao
(Cervus nippon), còn được gọi là hươu Đốm
hoặc hươu Nhật (Sika deer), là một loài thuộc
chi Hươu (Cervus) trong phân họ Hươu Cựu
thế giới (Cervinae), họ Hươu nai (Cervidae),
phân bộ Nhai lại (Ruminatia), bộ Guốc chẵn
(Artiodactyla), lớp Có vú (Mammalia), phân
ngành Có xương sống (Vertebrata), ngành Dây
sống (Chordata), giới Động vật (Animalia)
(Đặng Huy Huỳnh, 1995). Như vậy, hươu Sao
là một loài động vật nhai lại (Hình 1).
Hình 1. Hươu Sao trong thang phân loại với các động vật nhai khác
Hươu Sao có nguồn gốc từ Đơng Á và
có 13 phân lồi đã được mơ tả gắn liền với
các địa phương khác nhau, trong đó có hươu
Sao Việt Nam (Cervus nippon pseudaxis)
88
(Whitehead, 1993). Đây là phân lồi nhiệt
đới, có thể vóc nhỏ nhất trong số các phân lồi
hươu Sao. Về mặt di truyền học thì hươu Sao
có bộ nhiễm sắc thể (NST) lưỡng bội sự biến
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
động giữa các phân loài với 2n = 64 - 68. Hươu
Sao Việt Nam có 2n = 66 NST, trong khi phân
loài hươu Nhật Cervus nippon nippon có 2n
= 67 NST. Đó cũng là lý do một số nhà khoa
học cho rằng nên tách loài hươu Sao thành ít
nhất 4 lồi riêng biệt.
Vì được con người chăn ni đã từ lâu
nên nói chung hươu Sao chịu sự chăm sóc
của con người, nhưng hươu, đặc biệt là hươu
đực, vẫn thể hiện tính hoang dã và trở nên rất
nguy hiểm trong mùa giao phối, sẵn sàng tấn
công con người, khơng phân biệt đó là người
lạ hay chủ ni. Hươu Sao vẫn hồn tồn có
khả năng thích nghi và tìm lại được các bản
năng sinh tồn trong hoang dã nếu được trả lại
tự nhiên. Với những đặc điểm đó thì chỉ có
thể coi hươu ni là động vật hoang dã được
thuần dưỡng chứ chưa phải là động vật được
thuần hóa. Nói một cách khác, hươu là vật
ni nhưng chưa phải là gia súc.
3. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA HƯƠU
SAO
3.1. Ngoại hình và thể vóc
Hươu Sao đã được mơ tả (Đặng Huy
Huỳnh và cs., 1995; Võ Văn Sự và cs., 2005)
là có thân hình thon, gọn, chân dài và mảnh,
đầu nhỏ, cổ dài, tai thường dài hơn đi. Bộ
lơng nhìn chung có màu vàng đậm, con cái
nhạt hơn và con đực thẫm hơn. Trên nền vàng
đỏ rải rác những đốm trắng, sạch gọi là “sao”.
Độ lớn của những sao này nhỏ về phía lưng
và lớn hơn về phía bụng. Những sao ở hai
sống lưng tạo thành hai hàng vạch dọc, còn
các sao ở mình khơng có hàng rõ rệt. Từ gáy
đến cổ và dọc trên sống lưng có một đường
chỉ thẫm, mút đi có lơng màu trắng, mặt
dưới đi trần. Đi hươu có túm lơng màu
trắng với viền lơng đen gần góc đi, mặt
dưới đi trần. Phía dưới gốc đi và mặt
sau đùi có những sợi lơng màu trắng dài 4 6cm, tạo thành “gương” có hình tam giác. Chỉ
những khi hươu xúc cảm thì những lơng của
“gương” này mới dựng lên. Tứ chi có màu
vàng, thẫm hơn ở mặt trước và nhạt hơn ở mặt
sau. Chân, đầu và bụng không có sao. Trong
suốt mùa đơng, bộ lơng trở nên sẫm màu và
xù xì hơn, các đốm ít nổi bật hơn và có một
chiếc bờm hình thành ở mặt sau cổ của con
đực, đặc biệt trong mùa giao phối. Con cái có
một cặp mụn đen đặc biệt trên trán.
Hươu Sao chỉ thay lông một lần trong
năm. Hiện tượng này thấy rõ nhất ở hươu đực.
Cuối mùa thu và trong mùa đông, bộ lơng có
mầu tro thẫm hay xám bẩn; chỉ lưng không rõ
và sao rất mờ, lông xơ xác, rụng và thưa dần.
Từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 4, bộ lông thay
hết, chuyển sang màu vàng tươi rất đẹp, mượt
sạch, chỉ lưng rõ, sao sáng rõ (Võ Văn Sự và
cs., 2005).
Khơng giống với hầu hết các động vật
có sừng khác, chỉ có hươu Sao đực mới có
sừng, hươu cái khơng có. Hươu Sao đực có
hai sừng thẳng đứng, mập mạp với một chiếc
chùy nhô lên từ đỉnh lông mày mỗi bên. Mỗi
sừng thường được chia thành 3 - 4 nhánh.
Gạc (sừng già) có thể dài từ 28 đến 45 cm,
thậm chí đến hơn 80 cm, tùy thuộc vào phân
lồi (Whitehead, 1993).
Hươu Sao có kích thước trung bình
(nhỏ hơn nai, lớn hơn hoẵng), mặc dù chúng
có sự thay đổi kích thước đáng kể trên một số
phân lồi và sự dị hình giới tính đáng kể, con
đực ln lớn hơn nhiều so với con cái. Hươu
Sao Việt Nam có thể vóc bé hơn các phân loài
hươu Sao khác, với khối lượng trưởng thành
của hươu đực là 50 - 70kg và hươu cái 45 60kg (Võ Văn Sự và cs., 2005).
3.2. Đặc điểm sinh trưởng và phát dục
Sinh trưởng của hươu Sao mang tính
mùa vụ, ngay cả khi có đầy đủ thức ăn chất
lượng tốt quanh năm (Whitehead, 1993).
Thời kỳ sinh trưởng bắt đầu từ đầu mùa xuân
và kéo dài khoảng 6 tháng. Sinh trưởng của
hươu bị chậm lại trong mùa đông do hươu
giảm lượng thức ăn thu nhận vì trong mùa
này hươu dường như khơng muốn ăn. Do đó,
trong tự nhiên hươu có thể bị giảm trọng trong
mùa đơng. Tuy nhiên, sau đó hươu lại có sự
sinh trưởng bù vào mùa xuân. Động thái sinh
trưởng của con đực và con cái gần giống nhau,
mặc dù tốc độ sinh trưởng có khác nhau giữa
hai giới tính. Hươu đực bị giảm trọng đáng kể
trong mùa giao phối, đặc biệt là những con
89
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
lớn tuổi. Hươu cái trưởng thành tăng trọng
vào cuối kỳ có chửa, nhưng sau đó lại giảm
trọng có thể tới 20% trong thời gian cho con
bú. Ngồi ra, hươu cũng thường giảm trọng
trong mùa đông. Hươu non có biểu hiện sinh
trưởng chậm trong vụ thu - đơng sau khi cai
sữa và sinh trưởng nhanh trong vụ xuân - hè
khi chúng được 9 - 15 tháng tuổi (Đặng Huy
Huỳnh và cs., 1995).
thường nằm nhiều và nằm tách mẹ đến bữa
mới về bú. Sau 10 - 20 ngày, hươu con đã bắt
đầu tập ăn lá, cỏ. Từ 40 ngày tuổi trở đi hươu
con đã hoạt động khá mạnh, vận động nhanh,
khơng kém gì hươu trưởng thành. Hươu con
trở nên độc lập từ 10 đến 12 tháng tuổi và
đạt được thành thục sinh dục khi được 16 18 tháng tuổi ở cả hai giới tính (Văn Sự và
Trần Cao, 2006). Bảng 1 cho thấy sự thay đổi
khối lượng của hươu Sao Việt Nam qua các
Hươu con đẻ ra tương đối khoẻ, khoảng độ tuổi. Tuổi thọ trung bình của hươu Sao là
nửa giờ sau khi đẻ đã đứng dậy được và bú 15 - 18 năm trong điều kiện nuôi nhốt, mặc dù
mẹ. Trong khoảng 10 ngày đầu, hươu con một trường hợp được ghi nhận là sống trên 25
phát triển nhanh, tăng trọng gần gấp đôi lúc năm; tuổi thọ của hươu Sao chăn thả tự nhiên
mới sinh. Trong những ngày đầu, hươu con là khoảng 18 - 21 năm (Whitehead, 1993).
Bảng 1. Thay đổi khối lượng hươu Sao Việt Nam theo độ tuổi (kg)
Tuổi
Sơ sinh
3 tháng
6 tháng
1 năm
2 năm
Trưởng thành
Hươu đực
3,8
22,5
28,3
40,2
54,2
65,5
Hươu cái
3,4
20,0
24,3
32,9
43,2
51,5
Khối lượng (kg)
Nguồn: />3.3. Đặc điểm phát triển của sừng
Khi được 18 - 25cm thì phân nhánh lần thứ 2.
Sừng hươu Sao đực rụng và tái sinh Nếu để nhung quá tuổi hay không cắt, nhung
trọn vẹn hàng năm theo chu kỳ “chết đi - rụng sẽ hoá xương dần theo chiều từ gốc lên ngọn
xuống - tái sinh” (Đặng Huy Huỳnh và cs., và từ trong ra ngồi, lúc đó nó được gọi là gạc.
1992). Sừng mọc năm sau lớn hơn sừng năm Sừng hươu Sao thường có 4 mấu (khoảng 1/3
trước trong những năm đầu. Cặp sừng đầu số hươu đực sừng chỉ có 3 mấu). Ngọn mấu
tiên có thể xuất hiện vào lúc một năm tuổi. rất nhọn. Vào khoảng cuối tháng 4 đến tháng
Hàng năm các cặp sừng cũ đều rụng vào 7 hươu làm sạch dần lớp da bọc ngoài sừng,
khoảng từ trung tuần tháng Giêng đến cuối để trở lại gạc màu trắng ngà. Phần gốc gạc
tháng Ba. Trong trường hợp thu hoạch nhung to hơn nhưng sần sùi, không nhẵn bóng như
thì phần gốc sừng cịn lại cũng sẽ rụng. Hai phần ngọn (Trần Mạnh Đạt, 2000).
Bộ sừng của hươu đực là biểu hiện của
sừng thường không rụng đồng thời mà cách
nhau 1 - 2 ngày (có trường hợp tới 5 ngày). sức mạnh tính dục, đồng thời cũng được sử
Hầu như nhánh sừng bên phải bao giờ cũng dụng vào mục đích đánh nhau tranh giành
rụng trước. Khoảng 10 - 15 ngày sau khi cặp quyền lực thống trị, đào bới chuẩn bị các vũng
sừng (hay gốc sừng) cũ rụng thì cặp sừng mới đầm tắm và để đánh dấu lãnh địa. Sự phát triển
sẽ xuất hiện chỗ sừng cũ đã rụng (Võ Văn Sự của sừng hươu là một đặc tính sinh dục thứ cấp
và cs., 2005).
đặc trưng của hươu đực. Mức độ phát triển của
Sừng hươu khi còn non gọi là nhung bộ sừng phụ thuộc vào hàm lượng hormone
hay lộc nhung. Bên trong nhung chứa nhiều sinh dục đực (testosterone) tiết ra từ dịch
mạch máu. Lúc này nhung mềm, mọng mầu hồn. Nếu bị thiến thì hươu đực sẽ khơng mọc
hồng nhạt, có những lơng tơ mầu trắng, xám nhung do khơng có hormone testosterone, mặc
rất mịn phủ ngoài. Nhung mọc được 2 - 3cm dù trong thời gian mọc nhung thì hươu đực
thì bắt đầu thì có thể phân nhánh lần thứ nhất. hồn tồn khơng có khả năng phối giống thụ
90
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
thai vì tinh dịch khơng có tinh trùng (Asher và
cs., 2000). Thường thì những hươu đực có bộ
sừng lớn (sản lượng nhung cao) thì sức sinh
sản tốt, đàn con của chúng thường cho năng
suất cao (Võ Văn Sự và cs., 2005).
Sừng hươu có tốc độ phát triển nhanh lạ
thường, như trong cuốn Hải Thượng Y Tông
Tâm Lĩnh (Tập 2), Hải Thượng Lãn Ơng (Lê
Hữu Trác) đã mơ tả: “Sừng chưa đủ hai tháng
đã lớn và dài, nặng đến hàng cân (một cân
bằng 500g), sự sinh trưởng lạ lùng đó khơng
có con gì bằng”. Nhung lứa sau lớn hơn lứa
trước: lứa đầu thường khoảng 0,4kg, lứa thứ 2
khoảng 0,65 - 0,7kg, từ lứa cắt thứ 3 đến thứ
5 khoảng 0,7 - 0,9kg. Sản lượng nhung hươu
tăng lên đến 7 tuổi và sau đó giảm xuống và
từ 14 tuổi trở đi thì giảm rõ rệt. Bình thường
mỗi năm một con hươu đực cho 1 cặp nhung;
tuy nhiên, một số con có thể cho 2, thậm chí
3 lứa nhung trong một năm. Cá biệt đã có con
cho cặp nhung nặng tới 4,82kg.
3.4. Tập tính sinh dục và sinh sản
Cũng như các loài hươu khác, hươu Sao
hoạt động sinh dục theo mùa (Whitehead,
1993). Mùa động dục/phối giống của hươu
nói chung chỉ xảy ra một lần trong năm, tập
trung vào mùa thu (tháng 8 - 10) và đẻ tập
trung vào các tháng 3 - 5 sau một thời gian
mang thai khoảng 215 - 235 ngày. Tuy nhiên,
do thích nghi với điều kiện nhiệt đới và có thể
do ảnh hưởng cả ni nhốt, mùa động dục của
hươu Sao khơng hồn tồn tập trung như các
lồi hươu ơn đới, rải rác vẫn có những con
động dục từ giữa tháng 6 cho đến giữa tháng
12; có những con cái động dục và chửa lại
sau khi đẻ khoảng 3 - 4 tuần mà không chờ
đến mùa động dục như thường lệ. Hươu hoạt
động sinh dục theo mùa là để đồng bộ hóa thời
điểm phối giống và sinh đẻ nhằm đảm bảo
cho giai đoạn nuôi hươu con trùng với khoảng
thời gian cây cỏ tự nhiên phát triển tốt nhất
(tháng 5 - 7). Mùa hè là thời gian hươu mẹ
cho con bú. Đối với những con hươu đực, đó
là cũng thời gian để chúng phục hồi thể trạng
sau một thời chất béo dự trữ đã bị huy động
cạn kiệt trong suốt mùa thu (phối giống) và
mùa đông trước đó (Võ Văn Sự và cs., 2005).
Hươu nói chung và hươu Sao đực nói
riêng có hoạt động sinh dục rất mạnh dưới tác
động kích thích của hormone testosterone tiết
ra từ dịch hoàn vào mùa phối giống (Yamauchi
và Matsuura, 2009). Hải Thượng Lãn Ơng
cũng đã từng đánh giá: “Tính con hươu vốn
dâm mà khơng bao giờ khí lực suy yếu” (Hải
Thượng Y Tông Tâm Lĩnh, Tập 2). Trong tự
nhiên, vào mùa giao phối hươu đực cố tìm
cách chiếm hữu hươu cái tạo thành “hậu cung”
trong một vùng lãnh địa riêng để cho nó giao
phối và loại trừ những con đực khác. Thời kỳ
này, hươu đực bị kích thích mạnh, tính tình
hung dữ hơn, hầu như không ăn, không ngủ,
đi lại lung tung, hay cúi gầm đầu xuống sát
đất, hướng cặp sừng ra phía trước như sẵn
sàng lao vào cuộc ẩu đả, hai chân trước cào
bới đất. Dịch hoàn phát triển mạnh, dương vật
luôn rỉ nước màu đen như nước điếu, mùi rất
hoi (Võ Văn Sự và cs., 2005). Trong mùa phối
giống, hươu đực kêu nhiều hơn, tiếng kêu rít
lên to và kết thúc bằng giọng khàn khàn để
tìm bạn tình và cũng là lời cảnh báo đe dọa
với tình địch (Whitehead, 1993).
Để giành được hươu cái hươu đực
thường phải chiến đấu với nhau (FAO, 1982).
Nhiều cuộc ẩu đả kịch liệt xảy ra giữa những
hươu đực đối thủ ngang sức với mục đích của
chọn lọc tự nhiên là để phát tán nguồn gene
của kẻ khỏe mạnh hơn cho thế hệ sau. Tuy
nhiên, đôi lúc không cần ẩu đã mà những con
hươu đực trội có thể thể hiện uy lực của mình
qua thể vóc, bộ sừng và tiếng rú đe dọa làm
cho những con yếu thế hơn phải chịu chấp
nhận thua cuộc mà không giám nghênh chiến.
Kết quả của những cuộc ẩu đả và/hay hăm
dọa đó là chỉ có một con hươu đực khỏe mạnh
nắm giữ được hậu cung với 3 - 10 hươu cái
hoặc nhiều hơn. Hươu đực càng có uy lực thì
hậu cung càng đơng hươu cái. Nhiệm vụ của
hươu đực giành chiến thắng là phải bảo vệ
được sự gắn kết của hậu cung, khống chế và
vây bắt những con hươu cái thiếu tập trung,
không chung thủy lại. Nhiệm vụ này khơng
hề đơn giản vì ln có những con đực khác
rình rập, cố gắng tìm cách đánh cắp chúng
khỏi đàn.
91
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
Sứ mệnh của hươu đực chiến thắng
là truyền lại được nguồn gene của mình (đã
được chọn lọc qua giao chiến) cho thế hệ sau
thông qua phối giống với hươu cái. Hươu cái
trong mùa động dục cũng thường ít ăn hơn vì
muốn tìm tới hươu đực. Trong tự nhiên, hươu
cái động dục sẽ thích gần và đi tìm những con
đực có bộ sừng lớn nhất và âm thanh vang
nhất để được giao phối. Âm thanh của hươu
đực rất khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi, thể
vóc và sức lực. Khi nghe tiếng kêu của hươu
đực nào mà chúng vểnh tai về phía hươu đực
đó để nghe thì có nghĩa tiếng kêu của con đực
đó đã có ý nghĩa với chúng và chúng đã bị
quyến rũ. Đó là vì hươu cái ln muốn có kẻ
bảo vệ và là bố của con chúng là một con đực
mạnh mẽ hơn là một bạn tình yếu ớt. Ngược
lại, những con hươu cái già thường sinh con
không được khỏe mạnh như hươu cái non,
vì thế để tối ưu hóa việc phát tán nguồn gen
hươu đực sẽ chọn những con hươu cái trẻ và
khỏe nhất để phối giống trước. Sau mùa phối
giống, hươu đực nói chung là rời bỏ lãnh địa
hậu cung đi nơi khác để kiếm ăn nhằm hồi
phục sức khỏe (Whitehead, 1993).
Trái với hươu cái, hươu đực thường
khó mà truyền được gene của mình cho thế
hệ sau khi chúng cịn non vì chưa đủ sức để
giành được quyền giao phối qua chiến đấu
với những con đực lớn tuổi hơn. Nhưng theo
thời gian mọi thứ có thể thay đổi, khơng một
thủ lĩnh nào tồn tại được mãi mãi vì tuổi tác
sẽ làm giảm sinh lực. Mỗi mùa giao phối đến
lại xuất hiện những con hươu đực trẻ nhưng
đủ khỏe hơn sẵn sàng tuyên chiến để giành
ngơi vị và kiểm sốt hậu cung. Vì trong mỗi
mùa giao phối hươu đực phối giống nhiều và
ăn ít hoặc khơng ăn nên nhanh chóng cạn kiệt
nguồn dự trữ chất béo và có thể giảm tới 20
- 30% khối lượng cơ thể (Whitehead, 1993).
Cứ thế, sức khỏe của hươu thủ lĩnh suy giảm
nhanh chóng và có nguy cơ bị mất ngôi vị
cho một trong những kẻ trẻ khỏe hơn trong
mùa phối giống sau khi nó khơng cịn đủ sức
khỏe và uy quyền nữa. Những con hươu già
hết thời sẽ lặng sẽ rút lui sống đơn độc thêm
một thời gian rồi chết.
92
Thời gian của một chu kỳ động dục của
hươu Sao cái khoảng 18 - 21 ngày. Số chu
kỳ động dục trong mỗi mùa động dục là 2+.
Động dục diễn ra dưới tác động kích thích của
hormone và thường bắt đầu trước khi rụng
trứng khoảng 24 giờ. Hiện tượng động dục
tương đối rõ: âm môn xung huyết, tiết niêm
dịch, đầu kỳ niêm dịch dính kéo dài như thuỷ
tinh, giữa kỳ niêm dịch trong suốt chứa đầy âm
đạo và chảy ra quanh cơ quan sinh dục ngồi,
cịn cuối kỳ niêm dịch đục và giảm. Hươu cái
động dục thường biểu hiện không yên tĩnh,
thường dùng cằm chà lên lưng và mông. Thỉnh
thoảng hươu cái động dục tìm đến và nhảy lên
hươu đực hay chà cằm lên lương hươu đực.
Hươu cái động dục cũng thường nhảy lên
hươu cái khác hay cho những con hươu cái
khác nhảy lên (Whitehead, 1993).
Hươu đực có bản năng phát hiện được
những hươu cái sắp chịu đực vài giờ trước
khi trước khi hươu cái có biểu hiện chịu đực
rõ ràng, nên nó tìm đến và đuổi theo hươu cái
đó. Khi động dục cao độ, hươu cái sẽ đứng
yên cho hươu đực nhảy phối (chịu đực). Thời
gian chịu đực trong mỗi lần động dục kéo dài
khoảng 12 giờ (FAO, 1982).
Hươu đực có thể phải nhảy vài lần trước
khi giao phối thành cơng với một lần phóng
tinh, khi đó tồn thân của nó nhảy lên khỏi mặt
đất và hươu cái bị đẩy về phía trước. Phản xạ
phóng tinh chỉ xảy ra trong vòng 20 - 30 giây
(Võ Văn Sự và cs., 2005). Sau khi phối hươu
đực thường ít thể hiện có sự quan tâm nào với
hươu cái nữa. Hầu hết hươu cái cũng khơng
cịn có biểu hiện động dục nào sau khi giao
phối, mặc dù một số con có thể được phối lại
sau 4 - 6 giờ. Nếu giao phối lần đầu mà khơng
có kết quả, thì hươu cái lại động dục trở lại
sau 18 - 21 ngày. Nếu phối giống có chửa thì
sau khi đẻ 90 - 20 ngày hươu mẹ có thể động
dục trở lại, thậm chí có những hươu Sao cái
động dục lại sau khi đẻ 3 - 4 tuần, trong thời
gian đang cho con bú.
Thông thường mỗi năm hươu đẻ 1 lứa,
mỗi lứa đẻ 1 con; tuy vậy, cũng có những con
hươu cái có thể có chửa lại sớm sau khi đẻ nên
có thể có năm có đến 2 lứa đẻ; một số ít lứa đẻ
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
có thể sinh đơi (Whitehead, 1993). Thời gian
nuôi con của hươu nuôi thường là 3 - 4 tháng
(cai sữa), nhưng trong tự nhiên hươu con có
thể theo bú mẹ cho đến 9 - 0 tháng tuổi khi
sữa mẹ khơng cịn nữa (FAO, 1982).
Vài ngày trước khi đẻ, hươu cái ít hoạt
động hơn và thường nằm tách biệt với đàn.
Những biểu hiện bên ngoài dễ thấy như: bụng
to, bầu vú căng và sệ xuống, âm hộ sưng
mọng, đứng nằm không yên, đuôi ve vẩy luôn
và thường quay lại liếm vùng âm môn (Võ
Văn Sự và cs., 2005).
Hươu thường đẻ con vào ban đêm.
Trước lúc đẻ có hiện tượng vỡ màng ối, làm
chảy ra một chất nước nhầy màu vàng đục.
Sau đó 2 chân trước của hươu con ra trước,
rồi đến mõm, đầu, ngực, lưng và 2 chân sau.
Hươu con ra theo chiều lưng - bụng như vậy
là đẻ thuận. Cũng có trường hợp hươu đẻ
ngược: 2 chân sau của hươu con ra trước hoặc
thai ra ngửa. Hiện tượng này ít gặp hơn. Nếu
gặp trường hợp này người chăn ni khơng
can thiệp kịp thời thì hươu con thường bị chết
ngạt và tính mạng hươu mẹ nhiều khi cũng bị
đe dọa. Thời gian từ khi vỡ màng ối cho đến
lúc 2 chân trước con non thò ra thường kéo dài
5 - 10 phút và đến khi đẻ hươu con ra khoảng
25 - 40 phút (cá biệt có trường hợp sau 2 giờ).
Sau khi đẻ, hươu mẹ thường dùng răng cắn
đứt dây rốn, rồi liếm khắp mình con cho khơ
sạch. Nó còn ăn nhau và liếm sạch mọi vết
máu hoặc chất nhầy trên nền chuồng. Sau khi
đẻ từ 30 phút đến 2 giờ thì nhau sẽ bong ra hết
(trung bình là 80 phút). Khối lượng của nhau
khoảng 350 - 450g (Trần Mạnh Đạt, 2000).
Trong tự nhiên, khi đẻ hươu mẹ giấu
con trong lớp cây cỏ rậm rạp sau khi được
sinh ra để tránh sự phát hiện của các loài thú
ăn thịt. Hươu con nằm rất yên tĩnh và tĩnh
lặng trong khi đợi cho đến khi mẹ quay lại
cho bú. Hươu con khơng có mùi nên thú ăn
thịt khó phát hiện khi nó nằm im. Hươu mẹ
kiếm ăn ở cách nơi dấu hươu con một khoảng
cách nhất định để đánh lừa và canh chừng các
kẻ thù ăn thịt săn mồi. Nếu có kẻ thù (như
chó sói) xuất hiện gần hươu con thì hươu mẹ
sẽ đánh động và bỏ chạy để cho kẻ thù đuổi
theo mình ra xa chỗ hươu con nằm và đơi lúc
vì thế mà nó kiệt sức và chết vì con. Nếu thốt
thân nó sẽ tìm đường về lại chỗ hươu con nằm
để cho con bú và chăm sóc. Khi hươu con đã
trở nên cứng cáp sau vài ngày nó bắt đầu
có mùi để hươu mẹ nhận biết và cho đi theo.
Hươu mẹ thường cho con bú 2 lần mỗi ngày
và không cho con của con hươu khác bú. Sau
khoảng 1 tuần hươu con đã có thể chạy rất
nhanh để tự trốn thốt kẻ thù (hươu là động
vật có khả năng chạy rất nhanh). Trong thời
gian theo mẹ, ngoài bú sữa mẹ, hươu con còn
tập ăn thức ăn thực vật để hồn thiện hệ tiêu
hóa dạ dày kép của mình và trở thành một
ĐVNL thực thụ sau khi cai sữa để có thể hồn
tồn sống dựa vào cỏ lá. Ngồi ra, hươu con
cũng tự luyện tập cách đối phó với hoàn cảnh
xung quanh dưới sự giám sát và huấn luyện
của hươu mẹ (Whitehead, 1993).
3.5. Tập tính ăn uống
Hươu Sao là động vật nhai lại, sống
chủ yếu dựa vào cây cỏ làm thức ăn. Trong tự
nhiên, chúng thường sống ở những trảng cỏ,
rừng thưa có nhiều cỏ, lá non và gần nguồn
nước. Hươu có thói quen lựa chọn thức ăn.
Chúng tìm kiếm những thức ăn có tính ngon
miệng cao hơn là những thức ăn kém ngon
miệng. Hươu ưa thích nhất là các loại lá cây.
Chúng thích ăn các loại lá sạch, chủ yếu là
các loại lá mít, lá vả, lá sung, lá cây muối, lá
dướng, lá hu đay (lá giấy), lá ngái, lá ngõa,
lá vông, lá giới, lá khế, lá xoan… Việc sử
dụng thức ăn của hươu bị ảnh hưởng nhiều
bởi mùa vụ: thu nhận thức ăn nhiều nhất vào
mùa xuân khi mà cây cối nói chung có hàm
lượng protein cao nhất và thu nhận thức ăn
thấp nhất vào mùa đông khi thức ăn trở nên
khan hiếm. Trong mùa phối giống hươu đực
ăn rất ít, thậm chí khơng ăn gì (Võ Văn Sự và
Trần Cao, 2006).
3.6. Tập tính xã hội
Ngồi thiên nhiên, hươu Sao thường
sống thành từng đàn, có thể là 5 - 15 con,
cũng có khi nhiều hơn. Các đàn lớn thường
tập trung vào mùa thu và mùa đơng. Bình
thường một số con có thể sống đơn lẻ trong
khi những con khác sống trong các nhóm đơn
93
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
giới. Con đực thường sống một mình trong
nhiều năm và đôi khi cũng tập hợp thành bầy
đàn. Hươu đực và hươu cái sống tách biệt
nhau trong hầu hết thời gian của năm, trừ mùa
động dục/phối giống (FAO, 1982).
Trong mỗi đàn hươu đều có trật tự xã
hội của đàn, trong đó con đầu đàn đóng vai
trị rất quan trọng trong việc dẫn dắt hoạt động
của cả đàn. Tuy nhiên, hệ thống trật tự xã hội
trong bầy đàn này thường là đặc trưng cho
các quần thể hươu trong tự nhiên (Whitehead, 1993). Hệ thống cấp bậc xã hội trong đàn
hươu được quyết định chủ yếu bởi độ lớn của
cặp sừng và/hay cơ thể. Con to và/hay có cặp
sừng (hươu đực) lớn nhất thì được làm thủ
lĩnh như một nguyên tắc bất di bất dịch. Trong
cuốn Vân đài loại ngữ (1773), Lê Q Đơn
đã mơ tả tập tính xã hội của đàn hươu như
sau: “Con hươu to là con chủ. Cả bầy hươu
đều đi theo con chủ này, đều xem con hươu
chủ đi hướng nào, lấy hướng chuyển của cái
đuôi con chủ làm chuẩn”. Hươu Sao là lồi
có giọng hú cao, với hơn 10 âm thanh riêng
lẻ, từ tiếng huýt sáo nhẹ đến tiếng hét lớn để
chuyển tải thông điệp trong giao tiếp xã hội.
Với thân hình to lớn, cặp sừng lộng lẫy và âm
thanh to lớn hươu đực đầu đàn thể hiện uy lực
và quyền thống trị của mình với cả đàn.
Hươu đực được coi là sinh ra để đánh
nhau nhằm giành đặc quyền giao phối với đàn
hươu cái và đồng thời còn nhằm tranh giành
quyền thống trị đàn và tranh chấp lãnh địa.
Các vùng lãnh địa được đánh dấu bằng một
loạt các hố nông hoặc “vết cắt”, tức là các
hố đào với chân trước hoặc sừng, để con đực
đi tiểu và từ đó tỏa ra mùi xạ hương nồng
nàn. Những cuộc ẩu đả giành quyền thống trị
và lãnh địa giữa những con hươu đực xảy ra
bằng cách sử dụng móng guốc và sừng, đơi
khi rất khốc liệt và kéo dài và thậm chí có thể
gây tử vong (Võ Văn Sự và cs., 2005). Bộ
sừng càng to càng thể hiện sức mạnh và uy
quyền của hươu đực. Con đực có bộ sừng lớn
nhất thường sẽ sốn ngơi thống trị và giành
đặc quyền qua giao chiến; tuy nhiên, nhưng
những hành động hăm dọa cũng góp phần
cho việc giành quyền thống trị đó. Người ta
94
đã quan sát thấy rằng những con hươu đực
khơng có sừng khơng dám đánh nhau như
những con đực có sừng. Những con hươu đực
có bộ sừng kém phát triển hay khơng có sừng
sẽ bị cả đàn coi thường, hắt hủi và thậm chí bị
đuổi khỏi đàn (Whiethead, 1993).
Thông thường, người ta chỉ bắt gặp
những con hươu đực kịch chiến dữ dội, cịn
những con hươu cái thì hiếm khi làm thế. Tuy
vậy, tình huống này vẫn có thể xảy ra giữa
những con hươu cái với nhau cũng để tranh
giành quyền lực thống trị, lãnh địa và bạn
tình. Điều này thường xảy ra khi các nhóm
hươu cái được nhập đàn với nhau trên cùng
bãi chăn, lúc đó những con hươu cái thủ lĩnh
của mỗi đàn sẽ đánh nhau. Dù khơng có sừng,
chúng vẫn có thể dùng móng guốc của hai chân
trước để tấn cơng nhau, thậm chí cịn dùng
răng để cắn vào đối thủ. Việc này sẽ dẫn đến
việc thiết lập con đầu đàn và trật tự mới giữa
các hươu cái với nhau. Tuy nhiên, thường thì
những cuộc ẩu đả giữa hươu cái với nhau chỉ
diễn ra trong vài phút và ít khi dẫn đến chấn
thương nghiêm trọng (Whiethead, 1993).
Trong điều kiện ni nhốt, tập tính xã
hội của hươu có những thay đổi nhất định như
là hệ quả của quá trình thuần dưỡng. Hươu cái
đầu đàn được thuần dưỡng tốt rất hữu ích trong
việc duy trì trật tự của những con hươu khác
trong đàn. Nếu hươu đực giống được ni theo
chuồng cá thể thì nó coi đó là lãnh thổ riêng và
nếu cho con hươu khác, thậm chí cả hươu cái,
vào cùng thì nó quyết đánh đến cùng để bảo
vệ lãnh địa thiêng liêng của nó. Tuy nhiên, nếu
ni theo nhóm thì chúng sẽ khơng đánh nhau
trong khu nhốt chung sau khi đã thiết lập trật
tự xã hội ổn định trong nhóm.
4. LỢI ÍCH CỦA HƯƠU SAO ĐỐI VỚI
CON NGƯỜI
Hươu là số ít các lồi vật ni mà được
sử dụng triệt để gần như tất cả các sản phẩm.
Chúng thường được khai thác cho các mục
đích chính như: 1) Lấy nhung và sừng hươu
đực làm thuốc/thực phẩm chức năng; 2) Lấy
thịt làm thực phẩm; 3) Phục vụ cho mục đích
săn bắn; 4) Khai thác và chế biến da dùng
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
trong công nghệ may mặc; và 5) Sừng, móng
được dùng trang trí, làm vật dụng mỹ thuật.
4.1. Cơng dụng của nhung hươu
Chính nhờ có chứa những hoạt chất có
hoạt tính sinh học đặc biệt có khả năng kích
thích tái sinh mơ bào nhanh lạ thường và hoạt
động sinh dục mạnh mẽ mà nhung hươu đã
được sử dụng làm một vị thuốc quý từ hàng
ngàn năm nay trong y học cổ truyền phương
Đơng và ngày nay nó vẫn được quan tâm như
một nguồn lợi và cũng vì thế mà nghề nuôi
hươu không chỉ phát triển ở các nước đang
phát triển ở châu Á mà cả ở nhiều nước phát
triển thuộc châu Âu, châu Mỹ và châu Đại
dương. Theo Đỗ Tất Lợi (1982), nhung hươu
là một trong 4 vị thuốc hàng đầu của Đông y
(sâm, nhung, quế, phụ), được dùng như một
thần dược có thể chữa được nhiều bệnh như
yếu sinh lý, đau lưng, mỏi gối, viêm xương
khớp, chống ung thư, chữa bệnh biếng ăn,
chậm nói, suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ và là thực
phẩm chức năng cao cấp có tác dụng tốt đối
với tồn thân: nâng cao thể lực, bệnh nhân ăn
ngủ tốt hơn, bớt mỏi mệt, những vết thương
chóng lành, lợi tiểu, tăng nhu động ruột và
dạ dày, ảnh hưởng tốt đến việc trao đổi chất
protein và mỡ. Trong cuốn Hải Thượng Y
Tông Tâm Lĩnh (Tập 2), Hải Thượng Lãn
Ơng đã đánh giá: “Nhung hươu có tác dụng
bổ tinh huyết và khí nguyên dương rất nhanh;
người do thận hư đi tiểu đêm nhiều, đau lưng,
hai đầu gối yếu, đi lại khó khăn, sinh hoạt
tình dục kém dùng rất tốt. Nhung hươu có
tác dụng làm đầy tinh, huyết một cách nhanh
chóng, làm cho khí ngun dương đầy nhưng
khơng đi càn, nên chữa chứng di tinh rất hay.
Phụ nữ mắc chứng băng huyết, rong huyết…
nhung hươu là vị thuốc cốt yếu để đào thải
huyết cũ sinh huyết mới”.
Gần đây, các nhà khoa học đã có
những nghiên cứu sâu rộng về thành phần,
tác dụng, ứng dụng lâm sàng cũng như dược
lí của nhung hươu Sao (Byongtae Jeon và
cs., 2009). Người ta đã xác định được trong
nhung hươu có rất nhiều hoạt chất tốt cho sức
khỏe như collagens, chondroitin, pantocrine,
glycosami-noglycans,
axit
hyaluronic,
alkaline phosphatase, protein mơ xương,
bạch cầu trung tính, các khống chất và
prostaglandin. Các chất trong nhung hươu kết
hợp với nhau tạo ra giá trị duy trì chức năng
bình thường của bộ máy sinh sản, nâng cao
sinh lý sinh dục, chữa các chứng hư tổn trên
cơ thể nam giới, điều hòa nội tiết nữ giới...
4.2. Tác dụng của gạc hươu
Gạc hươu thường được dùng để nấu
cao ban long. Y tổ Lê Hữu Trác đã coi cao
ban long là thánh dược và ghi chép lại rằng:
“Cao ban long có tên gọi là bạch giao, bổ
trung ích khí, uống lâu nhẹ mình, tăng tuổi
thọ, thêm tủy, nhiều thịt, tươi mặt, mập khỏe,
chủ yếu dùng trị nội thương nhọc mệt, eo
lưng đau, gầy còm, phụ nữ huyết bế, khơng có
con, n thai khỏi đau, thổ huyết, băng huyết,
chân tay đau nhức, ra nhiều mồ hôi, ngã gãy
tổn thương”. Cao ban long được dùng trong
nhiều bài thuốc, trong đó có bài Nhị tiên cao
(cao ban long và cao quy bản) được xem là
bài thuốc bồi bổ tốt nhất.
4.3. Thịt hươu
Hươu có tỷ lệ thịt xẻ cao và thịt có giá
trị dinh dưỡng rất tốt (Serrano và cs., 2019).
Thịt hươu có rất ít mỡ no và cholesterol, có
giá trị năng lượng bằng một nửa, nhưng có
nhiều protein và các dưỡng chất thiết yếu như
vitamin B, sắt và phốtpho hơn so với thịt bị
nên nó đã trở nên được ưa chuộng bởi những
người quan tâm đến sức khỏe dinh dưỡng, kể
cả những người ăn kiêng (Whitehead, 1993).
Chính vì thế, ở các nước Phương Tây, New
Zealand, Australia, Mỹ người ta xem trọng
thịt hươu vì sự “an tồn” đối với sức khỏe. Ở
châu Âu có truyền thống dành thịt hươu cho
các cuộc chiêu đãi trọng thị và các sự kiện
quan trọng. Ngay người Canada bấy lâu vẫn
xem hươu như là một động vật giải trí (dùng
cho săn bắn), thì nay họ đã có xu hướng ni
hươu lấy thịt. Ở Việt Nam, thịt hươu cũng
được khen là ngon vì có “vị ngọt, tính ấm,
bổ trung, ích khí, mạnh gân cốt”. Tuy nhiên,
riêng với những người bị bệnh gout thì khơng
nên ăn nhiều thịt hươu vì trong đó có chứa
nhiều purin (nguồn sinh axit uric).
95
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
4.4. Các sản phẩm khác của hươu
Ở các nước phương Đơng, ngồi nhung
thì nhiều bộ phận khác của hươu cũng được
sử dụng làm thuốc/thực phẩm chức năng như
hươu bào tử, đi, dịch hồn, dương vật và
máu. Hươu bao tử được dùng để bồi bổ cho
người già, người làm việc quá sức, người mới
ốm dậy hay sản phụ. Trước đây ở các nước
Trung Đông người ta sử dụng rất nhiều các
chất chiết từ phôi hươu, đặc biệt là phôi đực,
để làm thuốc bổ. Thai hươu khô chết lưu cũng
như một số cơ quan của phôi cũng được sử
dụng (Whitehead, 1993).
Hươu đực có hoạt động sinh dục cực
mạnh nên y học cổ truyền phương Đông
thường dùng các bộ phận sinh dục của hươu
đực để trị các bệnh suy giảm năng lực tình
dục ở đàn ơng theo phương châm “ăn gì bổ
nấy”. Dịch hồn và đi hươu đực được cho
là có chứa những hoạt chất tương tự như có
ở trong nhung nên được dùng để làm thuốc.
Trong y học cổ truyền Trung Hoa, dương vật
hươu (lộc pín; 鹿鞭) được cho là có rất nhiều
tác dụng dược lý tăng cương sinh lực nam
giới. Hippocrates cũng đã từng khuyên dùng
dương vật hươu để chữa suy giảm tình dục.
Ngồi ra, nhiều sản phẩm khác từ hươu
cũng được sử dụng. Da hươu có thể thuộc để
may đồ ấm và đồ dùng khác. Phân hươu dùng
làm phân bón rất tốt. Xương hươu cũng được
dùng để nấu cao. Các sợi chỉ làm từ gân hươu
rất tốt cho việc khâu mũ hay khâu vá ủng
vì nó có khả năng giãn nở nên làm cho các
đường may kín nước. Các bộ phận nội tạng
như tim, gan, lưỡi và thận hươu cũng được
dùng ở châu Âu, tim và gan hươu cũng được
dùng ở Bắc Mỹ để làm thực phẩm. Ở các
nước châu Á, da và các bộ phận nội tạng của
hươu đều được dùng làm thực phẩm. Sừng
hươu già được dùng để trang trí nội thất.
5. TÌNH HÌNH CHĂN NI HƯƠU
SAO TRÊN THẾ GIỚI
Hươu Sao có nguồn gốc và được phận
bố rộng rãi ở vùng Đông Á (Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên), đã được du nhập đến
nhiều nơi khác trên thế giới (Nga, các nước
96
Đông Âu, Trung Âu, Tây Âu, New Zealand,
Australia, Morocco, Bắc Mỹ). Ở châu Á hươu
Sao được ni chủ yếu để lấy nhung, cịn các
nơi khác thì chủ yếu ni lấy thịt và các mục
tiêu khác như lấy nhung, săn bắn, trang trí...
Hươu Sao hoang dã được tìm thấy trong các
khu rừng ơn đới và cận nhiệt đới ở Đơng Á,
thích những khu vực có tuyết rơi không quá
10 - 20 cm (3,9 - 7,9 inch) có lẽ để chúng
có thể bới tuyết tìm thức ăn được trong mùa
đơng. Chúng có xu hướng kiếm ăn trong
những khoảng rừng thưa, có thể là để cho bộ
sừng của chúng ít bị vướng phải cây cối. Các
quần thể hươu du nhập cũng được tìm thấy ở
các khu vực có môi trường sống tương tự với
bản địa của chúng. Số lượng của chúng thay
đổi đáng kể ở các quốc gia khác nhau. Mặc
dù chăn nuôi đang phát triển mạnh, nhưng nó
cũng đang bị đe dọa và tuyệt chủng trong tự
nhiên ở nhiều khu vực.
Các quần thể hươu Sao nuôi theo kiểu
chăn thả tự do có nhiều ở châu Úc (New
Zealand), Bắc Mỹ (Kentucky, Maryland,
North Carolina, Texas, Virginia) và ở châu
Âu (Áo, Czech, Đan Mạch, Pháp, Đức,
Ireland, Ba Lan, Anh). Hầu hết những quần
thể này được du nhập vào cuối thế kỷ XIX
(1890s) và đầu thế kỷ XX (1930s), mặc dầu
gần đây cũng có du nhập thêm (FAO, 1982;
Whithead, 1993).
Nhật Bản có số lượng huơu Sao bản địa
lớn nhất trên thế giới, mặc dù số lượng chính
xác là khơng chắc chắn, nó có khả năng nằm
trong khoảng hàng trăm nghìn con và vẫn
đang tăng lên, chủ yếu do những nỗ lực bảo
tồn gần đây và sự tuyệt chủng của loài săn
mồi chính của nó. Do khơng cịn kẻ thù chính,
số lượng của hươu Sao bùng nổ và hiện tại nó
đã quá đông ở nhiều khu vực, gây ra mối đe
dọa cho cả rừng và đất nông nghiệp. Các nỗ
lực hiện đang được thực hiện để kiểm sốt số
lượng thay vì bảo tồn nó.
Theo Masuko và Souma (2009), Trung
Quốc đã từng có quần thể hươu Sao lớn,
nhưng nạn săn bắn và mất môi trường sống đã
khiến số lượng của chúng giảm xuống. Năm
trong tổng số 13 loài hươu trên thế giới được
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
tìm thấy ở Trung Quốc, nhưng hiện nay chỉ
cịn 3 lồi, trong đó có 1 lồi (Cervus nippon
nopschi) đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 8500 hươu
hoang dã và hơn 290.000 hươu được ni tại
các trang trại (McCullough và cs., 2009).
Nga có một quần thể hươu Sao tương
đối lớn và ổn định với khoảng 8.500 - 9.000 cá
thể thuộc phân loài Mãn Châu, nhưng chỉ giới
hạn ở một khu vực nhỏ ở vùng Viễn Đông, đặc
biệt là ở Primorsky Krai (Aramilev, 2009).
Ở Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên, đa phần
các loài hươu đều bị tuyệt chủng, chỉ cịn một
số ít nằm trên các cánh rừng gần biên giới
Nga và Trung Quốc. Một số lượng nhỏ hươu
Sao có thể đang tồn tại ở Triều Tiên, nhưng
loài này đã tuyệt chủng ở Hàn Quốc.
Tại châu Âu, hươu Sao được ghi nhận có
từ cách đây khoảng 150 năm ở một số vùng.
Hiện nay, loài hươu này đang được nuôi để
lấy thịt và nhung với số lượng ngày một tăng
(Bartos, 2009). Ở Vương quốc Anh và Ireland,
một số quần thể hoang dã riêng biệt hiện đang
tồn tại. Một số trong số này nằm ở những khu
vực biệt lập, ví dụ như trên đảo Lundy, nhưng
những quần thể khác lại tiếp xúc với quần thể
hươu Đỏ bản địa và có sự tạp giao giữa hai
lồi với nhau (Whitehead, 1993).
New Zealand hiện là nước nuôi hươu
lấy thịt và nhung nhiều nhất thế giới. Hươu
được ghi nhận xuất hiện lần đầu tiên tại New
Zealand là năm 1885 với 1 con đực và 2 con
cái được nhập bởi John Bathgate (Banwell,
2009). Gần một thế kỷ sau (năm 1980), hơn
100.000 con hươu được nuôi tại các trang trại
ở New Zealand (Couchman, 1980) và đến năm
1986, số lượng đã tăng lên trên 400.000 con
(Banwell, 2009). Hiện nay, New Zealand có
khoảng 1 triệu con hươu, hàng năm sản xuất
hơn 12 triệu tấn thịt hươu và xuất khẩu nhung
hươu với giá trị hơn 65 triệu đôla.
Về công tác giống và sinh sản, hiện
nay trên thế giới người ta đã áp dụng phương
pháp phối giống nhân tạo (PGNT) trong nhân
giống hươu trên cơ sở các nghiên cứu về sinh
lý sinh sản của hươu (Ohnishi, 2009; Masuko
và Souma, 2009; Yamauchi và Matsuura,
2009). PGNT thường được áp dụng với tinh
đơng lạnh của nhưng con hươu đực có giá trị
giống cao đã được chọn lọc và các đàn hươu
cái được gây động dục đồng loạt để thuận lợi
cho việc quản lý phối giống, tăng tỷ lệ thu
thai và thu được những lứa hươu con rất đồng
đều (Asher và cs., 2000). Mặt khác, PGNT
cũng cho phép sinh hươu con có giới tính
mong muốn thơng qua việc sử dụng cơng
nghệ phân tách tinh theo giới tính (Gao và
cs., 2009). Hơn nữa, PGNT cũng cho phép
lai xa giữa các loài hươu. Chính vì thế, hiện
nay cơng nghệ PGNT đã được áp dụng cho
hươu ở nhiều nước; riêng New Zealand hàng
năm có trên 10.000 hươu cái được PGNT.
Comizzoli và cs (2001) đã tạo thành công
phôi của hươu Đỏ và hươu Sao. Tuy nhiên,
các công nghệ sinh sản áp dụng cho hươu vẫn
gặp nhiều khó khăn hơn các lồi gia súc liên
quan đến hoạt động sinh dục mang tính mùa
vụ của hươu. Đối với hươu đực, ngồi mùa
phối giống (mùa thu) thì dịch hồn kém phát
triển và tinh dịch khơng có tinh trùng, nhất là
trong thời gian mọc nhung. Do đó việc khai
thác tinh chỉ có thể thực hiện được trong hay
ngay sau mùa phối giống mà đó là lại là thời
gian hươu đực rất hung dữ. Mặt khác, hươu
cái cũng không rụng trứng trong mùa xuân và
mùa hè cũng như không đáp ứng với việc gây
động dục và rụng trứng chủ động ngồi mùa
động dục tự nhiên (Asher và cs., 2000).
Về ni dưỡng, phương thức chăn nuôi
hươu phổ biến là nuôi chăn thả bán hoang
dã. Đã có khá nhiều nghiên cứu về sinh lý
dinh dưỡng và nhu cầu dinh dưỡng của hươu
(Masuko và Souma, 2009). CSIRO (1990),
AFRC (1993) và NRC (2007) đã đưa ra các
khuyến cáo về tiêu chuẩn ăn cho các loài hươu
như hươu Đỏ (Cervus elaphus), Tuần lộc
(Rangifer tarandus), hươu Sừng tấm (Cervus
canadensis) và hươu Đuôi trắng (Odocoileus
virginianus), nhưng lại khơng có tiêu chuẩn
ăn cho hươu Sao. Tuy nhiên, cũng đã có các
nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của hươu
Sao, chủ yếu được tiến hành ở Trung Quốc
và Nhật Bản (Gao Xihua và cs., 1993, 1997,
2003; Gao và cs., 1996a,b,c; Wang Feng và
cs., 1997; Shin và cs., 2000).
97
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
6. TÌNH HÌNH CHĂN NI HƯƠU
SAO Ở VIỆT NAM
từng được nuôi ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng
Ninh, Hà Tây (Ba Vì), Thanh Hố, Nghệ An,
Hà Tĩnh. Hiện nay, trong thiên nhiên hầu như
khơng cịn mà hươu Sao đang được ni ở
Hà Tĩnh, Nghệ An, Đắk Lắk, Bình Dương,
Hà Giang, Sơn La, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Hải
Phòng, Hà Nội (vườn thú), Ninh Bình, Thành
phố Hồ Chí Minh (vườn thú). Trước 1954,
do chiến tranh, số lượng hươu ni cịn lại
không đáng kể. Sau năm 1954, nhân dân Hà
Tĩnh và Nghệ An mới lại có điều kiện phát
huy tập quán chăn ni hươu trong gia đình.
Năm 1964, một số hươu Sao từ Quỳ Hợp Nghệ An đã được chuyển đến nuôi tại Vườn
quốc gia Cúc Phương. Năm 1967 - 1969, một
số hươu Sao ở Cúc Phương đã được chuyển
đến Ninh Bình, Thanh Hố, Vĩnh Phú, Quảng
Ninh để góp phần giữ giống và nhân giống.
Hươu nuôi ở các địa phương này cũng phát
triển mạnh, tăng nhanh về số lượng. Đến năm
2005, số lượng hươu hiện tại trên địa bàn
huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) là là 6.000 con,
Hương Sơn (Hà tĩnh) có khoảng 11.000 con.
Hươu chủ yếu ni trong nơng hộ. Có 2 trại
nuôi tập trung là Trại hươu xã Quỳnh Vinh
(Quỳnh Lưu) với 80 - 100 con và Xí nghiệp
Giống hươu Hương Sơn với khoảng 200 con.
Chưa có cứ liệu chắc chắn là hươu Sao
được nuôi ở Việt Nam từ bao giờ. Một số tác
giả cho rằng hươu được nuôi ở nước ta từ thế
kỷ XVIII. Điều đó có thể là do suy luận từ
chỗ trong cuốn Vân đài loại ngữ, Lê Q Đơn
(1726 - 1784) đã mơ tả tập tính xã hội của đàn
hươu như đã nói ở phần trên. Mặt khác, thời
kỳ đó Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông (1720
- 1791) cũng đã sử dụng nhung hươu và gạc
hươu trong các bài thuốc khác nhau.
Hương Sơn (Hà Tĩnh) được coi là nơi
nuôi hươu đầu tiên ở Việt Nam. Nơi đó chính
là q mẹ và là nơi gắn liền với hầu hết cuộc
đời và nghề thuốc của Hải Thượng Lãn Ơng.
Có tài liệu cho rằng chính Hải Thượng Lãn
Ơng là người đã thuần dưỡng những con hươu
Sao từ rừng về cho người nông dân Hương
Sơn nuôi.
Theo Võ Văn Sự và cs (2005), vào
những năm 1920 - 1930, một số gia đình ở
Nghệ An và Hà Tĩnh đã ni những đàn hươu
từ 5 - 7 tới vài chục con; năm 1929, ở huyện
Thanh Chương có nhà ni đàn hươu tới 27
con để lấy nhung. Trước đây hươu Sao cũng
Bảng 2. Tổng đàn hươu nai của cả nước và một số tỉnh qua các năm gần đây (con)
Cả nước
Hà Tĩnh
Nghệ An
Đắk Lăk
Ninh Bình
Đồng Nai
Lâm Đồng
Bắc Giang
Phú Yên
Thái Nguyên
Các tỉnh khác
2010
46.382
24.222
17.232
1.192
1.333
1.200
121
318
203
152
409
2012
59.574
31.907
17.707
3.045
1.799
1.162
143
365
380
3.066
2014
63.114
34.817
18.782
2.445
1.925
884
255
619
432
204
2.751
Gần đây, chăn nuôi hươu Sao ở Việt
Nam phát triển mạnh với số lượng đàn hươu
khá ổn định (Bảng 2). Theo kết quả thống kê
đến 01/01/2020 (TCTK, 2020), tổng số hươu
98
2016
55.782
32.903
14.890
2.225
463
717
498
334
3.752
2018
62.792
35.113
15.071
2.950
2.043
1.663
397
904
379
575
3.697
2020
60.939
36.109
14.892
2.243
2.111
1.558
433
234
7
205
3.147
Nguồn: Niên giám thống kê (TCTK, 2020)
nai của cả nước là 60.939 con; trong đó, các
tỉnh có ni nhiều hươu là Hà Tĩnh (36.109
con), Nghệ An (14.892 con), Đắk Lắk (2.243
con), Ninh Bình (2.111 con) và Đồng Nai
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
(1.558 con). Địa phương chăn nuôi hươu
nhiều nhất hiện nay vẫn là huyện Hương
Sơn (Hà Tĩnh). Hiện tại (2020), tồn huyện
có khoảng 10.000 hộ ni hươu với tổng đàn
hươu của huyện có trên 36.000 con, cho thu
hoạch trên 15 tấn nhung với trị giá khoảng
160 tỷ đồng (mỗi kg nhung có giá khoảng 12
triệu đồng).
Nghề ni hươu ở nước cho đến nay
chủ yếu vẫn là chăn nuôi nhỏ lẻ theo phương
thức ni nhốt với mục đích chủ yếu là lấy
nhung, mặc dù gần đây một số hộ đã chuyển
sang chăn nuôi hươu lấy thịt. Chăn nuôi hươu
ở nước ta vẫn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
của nông dân truyền lại cho nhau. Hầu như
khơng có các hoạt động khuyến nông và
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong chăn ni
hươu nên người ni hươu vẫn chưa có được
những kiến thức cập nhật cần thiết về con
hươu và các kỹ thuật chăn nuôi chúng dựa
trên cơ sở khoa học.
Đã có một số nghiên cứu về hươu Sao
tại Việt Nam, chủ yếu là về đặc điểm sinh
học, sinh thái học, đa dạng nguồn gen, nguồn
thức ăn và khả năng sản xuất nhung (Trần
Quốc Bảo, 1981; Lê Viết Ly và cs., 1995;
Trần Mạnh Đạt, 2000; The´venon và cs.,
2003, 2004). Viện Chăn nuôi đã xây dựng
được phần mềm VIETDEER để quản lý
hươu, nhưng vẫn chưa được ứng dụng trong
thực tiễn sản xuất. Cho đến nay, vẫn chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu một cách có hệ
thống về chọn lọc và nhân giống, ni dưỡng
và phịng trị bệnh trong chăn ni hươu Sao ở
Việt Nam. Đó một phần là do cơng tác nghiên
cứu khoa học trên đối tượng vật nuôi tiềm
năng này chưa được quan tâm đúng mức, sự
vào cuộc của các doanh nghiệp cũng như của
Nhà nước còn rất hạn chế. Điều này làm cho
chăn nuôi hươu Sao ở Việt Nam vẫn cịn thiếu
tính bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
AFRC (1993). Energy and protein
requirements of ruminants. An advisory
manual prepared by the AFRC Technical
Committee on Responses to Nutrients.
CAB International, Wallingford, UK.
Aramilev, V.V. (2009). The Sika in Russia. In:
McCullough D.R., Takatsuki S., Kaji K.
(eds) Sika Deer. Springer, Tokyo.
Asher, G.W., Ber, D.K and Evans G.
(2000). Storage of semen and
artificial insemination in deer. Animal
Reproduction Science. 62: 195-211.
Banwell, D.B. (2009). The Sika in New
Zealand. In: McCullough D.R., Takatsuki
S., Kaji K. (eds) Sika Deer. Springer,
Tokyo.
Byongtae Jeon, Sungjin Kim, Sangmoo Lee,
Pyojam Park, Siheung Sung, Jongmoon
Kim and Sangho Moon (2009). Effect
of antler growth period on the chemical
composition of velvet antler in Sika deer
(Cervus nippon). Mammalian Biology.
74 (5): 374-380.
Đặng Huy Huỳnh (1995). Hươu sao (Cervus
nippon) một lồi thú q có giá trị cao
trong kinh tế gia đình. Tuyển tập các cơng
trình nghiên cứu sinh thái và tài nguyên
sinh vật, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, tr 336-34.
Đặng Huy Huỳnh, Đặng Ngọc Cần, Phạm
Trọng Ảnh (1992). Nuôi hươu Sao ở Việt
Nam. NXB Nghệ An.
Đỗ Tất Lợi (1982). Những Cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam. NXB Thời đại.
FAO (1982). Deer Farming - Guidelines on
Practical Aspects. Fao Animal Production
and Health Paper 27.
Gao Q.H., H.J. Wei, C.M. Han, H.Z. Du, Z.G.
Zhang, W.G. Zhao, Y. Zhang and S. Li (2000)
Successful low dose insemination of
flow cytometrically sorted Sika (Cervus
nippon) sperm in Wapiti (Cervus elaphus).
Animal Reproduction Science.118 (1).
Gao Q.H., H.J. Wei, J. Luo, C.M. Han, S.
Schoenian, H.Z. Du, Q.S. Lu and J. Qian
(2009). Flow cytometric sexing of X- and
Y-chromosome-bearing sperm in Sika
deer (Cervus nippon). Small Ruminant
Research. 81 (2): 2009.
Gao Xihua, Yang Fuhe, Li Chunyi and D.R.
Steven (2003). Progress on nutritional
99
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
requirements of deer farmed for velvet
production in China.
Gao Xiuhua, Jin Shundan, Yang Fuhe and
Jin Dezhe (1997). Effects of different
levels of dietary energy and protein on
the yearling sika deer during the antler
growth period. Journal of Economic
Animal. 1(1): 20-25.
Gao Xiuhua, J. Shundan, Y. Fuhe and W.
Feng (1993). Effects of different levels of
dietary protein and energy on the antler
yield and weight during the antler growth
period for two-year male sika deer. Acta
Zoonutrimenta Sinica. 5(2): 43-47.
Gao Xiuhua, Y. Fuhe, C. Jiayin and J.
Shundan (1995). The optimal energy and
protein levels in concentrate for two-year
male sika deer in winter. Special Wild
Economic Animal and Plant Research. 3:
15-21.
Gao Xiuhua, Z. Xiaoming, Y. Fuhe and J.
Shundan (1996a). Energy requirements
for maintenance in adult sika deer. Acta
Zoonutrimenta Sinica. 8(1): 52-55.
Gao Xiuhua, Y. Fuhe and J. Shundan (1996b).
Recent development in requirements of
energy and protein in sika deer. Animal
Nutrition Research Proceeding. 59-61.
Gao Xiuhua and W. Feng (1996c). The
optimal energy and protein levels in
concentrate for yearling sika deer in
winter. Special Wild Economic Animal
and Plant Research. 2: 25-27.
Masuko and Souma (2009.) Nutritional
Physiology of Wild and Domesticated
Japanese Sika Deer. In: McCullough
D.R., Takatsuki S., Kaji K. (eds) Sika
Deer. Springer, Tokyo.
McCullough, D.R., Z.G. Jiang and C.W. Li
(2009). The Sika in Mainland China. In:
McCullough D.R., Takatsuki S., Kaji K.
(eds) Sika Deer. Springer, Tokyo
NRC (2007). Nutrient Requirements of Small
Ruminants: Sheep, Goats, Cervids,
and New World Camelids. National
Academy Press.
100
Ohnishi, N., M. Minami, R. Nishiya, K.
Yamada, H. Nishizuka, H. Higuchi,
A. Nara, M. Suzuki and S. Takatsuki
(2009). Reproduction of Female Sika
Deer in Japan, with Special Reference
to Kinkazan Island, Northern Japan. In:
McCullough D.R., Takatsuki S., Kaji K.
(eds) Sika Deer. Springer, Tokyo.
Serrano, M.P., A. Maggiolino, M. Pateiro,
T. L. Castillejos, R. Domínguez, A.
García, D. Franco, L. Gallego, P. De
Palo and J.M. Lorenzo (2019). Carcass
Characteristics and Meat Quality of Deer.
In: Lorenzo J., Munekata P., Barba F.,
Toldrá F. (eds) More than Beef, Pork and
Chicken – The Production, Processing,
and Quality Traits of Other Sources of
Meat for Human Diet. Springer, Cham.
Shin, H.T., R.J. Hudson, X.H. Gao and J.M.
Suttie (2000). Nutritional Requirements
and management strategies for farmed
Deer. Asian-Australian Journal of Animal
Science. 13(4): 561-573.
The´venon S.,Amelie Bonnet, Francoise
Claro and Jean-Charles Maillard (2003).
Genetic Diversity Analysis of Captive
Populations: The Vietnamese Sika Deer
(Cervus nippon pseudaxis) in Zoological
Parks Sophie. Zoo Biology. 22: 465-475.
The´venon S., L.T. Thuy, L.V. Ly, F. Maudet,
A. Bonnet, P. Jarne and J.-C. Maillard
(2004). Microsatellite Analysis of
Genetic Diversity of the Vietnamese Sika
Deer (Cervus nippon pseudaxis). Journal
of Heredity. 95(1): 11-18.
Trần Mạnh Đạt (2000). Nghiên cứu một số
đặc điểm sinh học và khả năng sản xuất
của hươu Sao (Cervus nippon pseudaxis)
ở miền Trung Việt Nam, Luận án tiến sỹ,
VCN Quốc gia, Hà Nội
Võ Văn Sự, Vũ Ngọc Quý, Hồ Nghĩa Bính và
Phạm Trọng Tuệ (2005). Tài liệu “Kỹ thuật
chăn nuôi hươu sao”. Viện Chăn nuôi Quốc
gia.
Võ Văn Sự và Trần Cao (2006). Nghề nuôi
hươu. Viện Chăn nuôi Quốc gia.
HỘI NGHỊ KHOA HỌC CHĂN NI THÚ Y TỒN QUỐC 2021 - AVS2021: 87-101
Wang F., G. Xiuhua and J. Shundan (1997).
Studies on the optimal Ca and P levels in
diet at the antler growing stage in 3-year
old Sika deer. Acta Zoonutrimenta Sinica.
9(1): 35-38.
Wang F., G. Xiuhua, J. Shund and Y. Fuhe
(1996). Study on adequate energy
density and protein level of concentrated
feed in young Sika deer. ’96 International
Symposium on Deer Science and
Deer Products, 123: 124.
Whitehead G.K. (1993). The Whitehead
encyclopedia of deer. United Kingdom:
Swan-Hill Press.
Yamauchi K. and Yukiko Matsuura (2009).
Endocrinology of Sika Deer. In:
McCullough.
101