Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Xây dựng chế định ly thân trong pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam từ kinh nghiệm của cộng hòa pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.27 MB, 98 trang )

MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN...............................................................................................i

DANH MUC CÁC CHỮ VIẾT TẮT............................................................ ii

MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SÓ VÁN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG VÈ LY THÂN,
X

A

'X

XA

F

CHÊ ĐỊNH LY THÂN VÀ QUY ĐỊNH VÊ LY THẢN TRONG PHÁP

LUẬT CỦA CỘNG HÒA PHÁP.................................................................... 8

1.1. Lý luận chung về ly thân............................................................................. 8

1.1.1. Khái niệm ly thân
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của ly thân................................................................

1.1.3. Quyền yêu cầu ly thân

17


1.1.4. Hậu quả pháp lý.......

18

1.1.5. Chế định ly thân.......

19

1.1.6. Ly thân và các quy định pháp luật khác................................................. 20

1.2. Chế định ly thân của Cộng hòa Pháp........................................................ 25
1.2.1. Nguồn gốc và khái niệm ly thân trong pháp luật của Pháp.................. 25
1.2.2. Phân loại ly thân.....................................................................................
1.2.3. Căn cứ ly thân
1.2.4. Các trường họp ly thân........................................................................... 28
1.2.5. Thủ tục ly thân........................................................................................ 28
1.2.6. Thời hạn ly thân...................................................................................... 31
1.2.7. Hậu quả pháp lý của ly thân................................................................... 32

1.2.8. Quyền thừa kế trong thời gian ly thân................................................... 36
1.2.9. Chấm dứt ly thân................................................................................... 37

KÉT LUẬN CHƯƠNG 1.............................................................................. 39


CHUÔNG 2. THỤC TRẠNG LY THÂN VÀ THỤC TRẠNG PHÁP
LUẬT VÈ LY THÂN Ở VIỆT NAM..........................................................40
2.1. Thực trạng ly thân ở Việt Nam................................................................. 40
2.2. Thực trạng pháp luật về ly thân ở Việt Nam........................................... 43
2.3. Quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân khi vợ chồng ly thân................... 44


2.3.1. Quan hệ nhân thân khi vợ chồng ly thân............................................. 45
2.3.2. Quan hệ tài sản khi ly thân.................................................................... 47
2.3.3. Các trường hợp phát sinh khác.............................................................. 49
2.4. Rút kinh nghiệm khi xây dựng chế định Ly thân tại Việt Nam từ cộng

hòa Pháp........................................................................................................... 51

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................... 56
CHƯƠNG 3. KIẾN NGHỊ• XÂY DƯNG
PHÁP LUẬT
ĐIÈU CHỈNH



VẤN ĐÈ LY THÂN TẠI VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM CỦA CỘNG
HÒA PHÁP...................................................................................................... 58
3.1. Sự cân thiêt luật hóa chê định ly thân trong luật HNVGĐ Việt Nam..... 58

3.2. Kiến nghị xây dụng các nội dung của chế định ly thân............................ 60
3.2.1. Khái niệm................................................................................................ 60
3.2.2. Căn cứ và các trường họp ly thân.......................................................... 61
3.2.3. Nội dung chế định.................................................................................. 66
3.2.4. Thủ tục ly thân........................................................................................ 82
3.2.5. Chế tài điều chỉnh hành vi vi phạm........................................................ 87
3.2.6. Chấm dứt ly thân.....................................................................................89
KÉT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................... 91
KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 93


IV


MỞ ĐẦU

1. Tính câp thiêt của đê tài.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, gia đình ln có vị trí, vai

trị đặc biệt quan trọng. Sự tồn tại của mỗi cộng đồng, làng, nước phụ thuộc

vào sự tồn tại, phát triển của gia đình, nhất là văn hóa gia đình, nơi bào tồn,
lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Đó là hệ

thống những giá trị, chuẩn mực đặc thù điều tiết mối quan hệ giữa các thành

viên trong gia đinh và mối quan hệ giữa gia đình với xã hội. Đó là mơi trường
quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội tốt, xã hội tốt thì gia đình tốt.

Tuy nhiên, xã hội ngày càng phát triển và các mối quan hệ trong cuộc sống

cũng như gia đình ngày càng đa dạng và phức tạp. Kéo theo đó quan hệ hơn
nhân cũng nảy sinh những những vấn đề làm ảnh hưởng đến sự bình yên,
hạnh phúc của mỗi gia đình. Một trong những vấn đề đó là hiện tượng ly thân
ngày càng gia tăng về số lượng và để lại nhiều hệ lụy. Trên thực tế, việc ly

thân phát sinh từ nhiều nguyên nhân do vợ chồng bất đồng từ quan điểm

sổng, mâu thuẫn về cách nuôi dạy con cái, về việc chi tiêu..., nhưng tựu

chung lại bản chất là việc mâu thuẫn nhưng chưa thể tìm được điểm chung.

Khi mâu thuần xảy ra mà chưa thể cùng nhau giải quyết nhưng lại khơng

muốn chấm dứt quan hệ hơn nhân vì nhiều lí do thì ly thân là cách mà hai vợ
chồng coi đó là một biện pháp nhằm giải quyết xung đột tạm thời và khiến họ

có thêm thời gian để suy nghĩ lại tìm hướng giải quyết cho vấn đề của mình.
Bên cạnh đó, hiện nay nhiều nước trên thế giới ngồi việc quy định quyền

ly hơn thì cịn cơng nhận quyền ly thân của vợ chồng. Ly thân được coi như

giải pháp cuối cùng trước khi họ ly hôn và tạo điều kiện để cho họ suy nghĩ
kỹ cũng như giải quyết khúc mắc. Có thể thấy pháp luật một số nước trong đó

I


có Cộng hịa Pháp đêu có quy định vê ly thân nhăm giúp cho các cặp vợ
chồng không bị lúng túng cũng như tạo điều kiện tốt cho họ tái họp trước khi

quyết định ly hôn nhằm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Tuy

nhiên, nước ta hiện nay mới quy định phương thức hịa giải để đồn tụ hoặc
chấm dứt quan hệ bằng ly hôn mà chưa có quy định liên quan đến ly thân.
Chính vì lẽ đó, việc có nên quy định về ly thân hay không trở thành một

chủ đề được tranh luận. Pháp luật HNVGĐ Việt Nam từ trước đến nay, từ

Luật HNVGĐ năm 1959, năm 1986 và đến Luật HNVGĐ năm 2000, 2014


đều không ghi nhận việc ly thân của vợ chồng. Trên thực tế dù chưa được ghi
nhận là một chế định trong Luật HNVGĐ nhưng ly thân vẫn đã và đang phát

sinh nhiều vấn đề hệ lụy.

Thực tế, ly thân không phải là điều mới mẻ, tuy nhiên những hậu quả phát

sinh từ ly thân lại chưa được pháp luật điều chỉnh tồn diện. Đã khơng ít lần,
Dự thảo Luật HNVGĐ sửa đổi đã từng đề xuất luật hóa chế định ly thân
nhưng cơ quan Lập pháp của nước ta vẫn cịn e ngại, chưa chủ động đe nhìn

thẳng vào sự vận động thực tế của xã hội về ly thân, chưa đánh giá đúng tác
động của sự thiếu hụt chế định ly thân để ghi nhận nội dung này một cách
chính thức. Tại mục 1 của Thơng báo số 26-TB/TW ngày 9/5/2011 của Ban

Bí thư Trung ương Đảng về sơ kết chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21/2/2005 của

Ban Bí thư (khóa IX) về “Xây dựng gia đình thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước” đã kết luận một trong những tồn tại của gia đình xuất hiện

ngày càng nhiều và chậm được khắc phục là ly thân.
Trong khi đó, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới lại quy định “ly

thân là quyền của vợ, chồng lựa chọn phương thức giải quyết mâu thuẫn trong

hôn nhân, tạo căn cứ pháp lý cho các quan hệ tài sản, nhân thân, con cái trong
giai đoạn quan hệ hôn nhân nhạy cảm này; tức là họ công nhận quyền ly thân
của vợ, chồng. Chế định ly thân được xem là một chế định bắt kịp với thực tế


2


cuộc sông hôn nhân vợ chông đông thời thê hiện được tinh thân luật hóa

đạo đức khi quy định nghĩa vụ cưu mang lẫn nhau về vật chất bằng tài sản
riêng và chăm sóc về tinh thần cho bên có bệnh nặng, khó khăn trong thời
kỳ ly thân.

Việc sống ly thân giữa vợ chồng vẫn thường xảy ra mà không được pháp
luật điều chỉnh rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của hai bên nên dễ gây ra nhiều

khó khăn, hệ lụy cho cả hai người và xã hội. Các vấn đề đặt ra như nghĩa vụ
chăm sóc, ni dường, giáo dục con chung trong thời gian ly thân, căn cứ xác

định tài sản chung, tài sản riêng phát sinh trong thời gian ly thân, quyền và

nghĩa vụ cùa mồi bên đối với các loại tài sản tương ứng.
Thực tế, ly thân là giải pháp được nhiều cặp vợ chồng lựa chọn để giải

quyết mâu thuẫn khi họ chưa muốn ly hơn và vì vậy Luật HNVGĐ khơng thể
né tránh mà cần quy định rõ ràng. Chẳng hạn như với những người theo đạo
Công giáo, ly thân là giải pháp hữu ích cho họ, theo giáo lý họ không được

phép ly hôn.
Đồng thời, để bảo đảm tự do định đoạt trong quan hệ vợ chồng khi thực

hiện các giao dịch dân sự, theo kịp với sự vận động khách quan từ thực tế


cuộc sống hôn nhân của các cặp vợ chồng, đồng thời góp phần cơng khai,
minh bạch về tình trạng hơn nhân, hịa nhập với xu thế chung của nhiều quốc
gia trên thế giới thì việc quy định chế định ly thân trong Luật HNVGĐ là điều
rất cần thiết. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đi sâu phân tích về tầm quan

trọng của chế định ly thân, việc học hỏi kinh nghiệm từ quy định của Cộng
hòa Pháp về Ly thân từ đó đưa ra những kiến nghị (giải pháp) để các cơ quan

lập pháp nên nghiên cứu đưa vào điều chỉnh ở trong luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh Luật HNVGĐ đã có nhiều bài viết về các khía cạnh của ly

thân như: bài viết: vấn đề ly thân có được quy định trong Luật HNVGĐ Việt

3


Nam năm 1986 của Th.s. Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học số 6

năm 1997; Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HNVGĐ

(được hợp nhất theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật HNVGĐ
năm 2000) - Phiên bản lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương và nhân dân;
“Bố sung chế định ly thân vào Luật Hôn nhân và gia đình - những

vấn đề pháp lý và thực tiễn” của TS. Bùi Minh Hồng đăng trên tạp chí Dân
chủ và pháp luật chuyên đề “sửa đổi, bổ sung Luật HNVGĐ năm 2000” năm

2013; hay “Vấn đề ly thân” của TS. Ngô Thị Hường tại Hội thảo khoa học về
Những nội dung liên quan đến Dự thảo Luật HNVGĐ sửa đổi diễn ra tại


trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014.

Ngay cả khi Luật HNVGĐ 2014 được thơng qua và có hiệu lực thi
hành thì vấn đề ly thân vẫn được đề cập nghiên cứu trong bài viết “Pháp luật
Việt Nam với vấn đề ly thân /Ngô Thu Trang đăng trên tạp chí Nhà nước và

Pháp luật. Viện Nhà nước và Pháp luật,số 8/2016, tr. 39 - 43”.

Đề tài nghiên cứu luận văn đã thực hiện về vấn đề ly thân gồm: “Những
vấn đề pháp lý về ly thân” của Lê Thị Lương đề tài luận văn thạc sĩ, Khoa

Luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2016; “Ly thân - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn: luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Ngọc Sơn, Đại học Luật Hà

Nội năm 2014”, hay “Xây dựng mơ hình chế định ly thân trong Luật HNVGĐ

Việt Nam” của Ngô Thị Thủy đề tài luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học

quốc gia Hà Nội năm 2018.
Có thể nói mồi đề tài về ly thân thơng qua nhiều khía cạnh với những

quan điểm, ý kiến riêng đã đưa ra nhiều góp ý rất giá trị, để xây dựng các thiết
chế pháp lý liên quan đến việc công nhận và không công nhận vấn đề ly thân

trong pháp luật HNVGĐ. Những bài viết này không chỉ đơn thuần là những

bài nghiên cứu mang tính chất khoa học thể hiện sự quan tâm về vấn đề ly
thân, mà chúng còn trở thành những tài liệu pháp lý có giá trị về mặt lý luận


4


cũng như thực tiên quan trọng, cân thiêt. Nó góp phân phục vụ cho các cơng

trình nghiên cứu khoa học sau này cũng như trong quá trình xây dựng và ban
hành pháp luật. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu, học hỏi các nội dung đã nêu trong
các cơng trình nghiên cứu trên, tác giả sẽ tiếp tục phân tích và tìm hiểu một sổ
vấn đề mới.

Với mục đích làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu về ly thân làm

đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỳ luật học với mong muốn sẽ góp phần

nghiên cứu và hiểu rõ hơn chế định này dưới cái nhìn học hỏi từ so sánh với
pháp luật của Cộng hòa Pháp về chế định ly thân, tầm quan trọng của chế

định ly thân mà rất cần được pháp luật công nhận và điều chỉnh, tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp về tài sản, con cái của vợ chồng

trong thời gian sống ly thân. Từ đó kiến nghị xây dựng các nội dung liên quan
đến việc xây dựng mô hình chế định ly thân.

3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là dựa trên cơ sở phân tích về mặt lý

luận vấn đề ly thân và những bất cập trong giai đoạn ly thân mà pháp luật

chưa điều chỉnh đến, từ đó người viết phân tích về khả năng áp dụng các quy
định về ly thân tại Việt Nam và đưa ra hướng đề xuất những giải pháp góp


phàn hồn thiện pháp luật nói chung, Luật HNVGĐ nói riêng.

Phạm vi nghiên cứu của Luận văn bao gồm những quy định của pháp
luật về ly thân theo Luật HNVGĐ Việt Nam và pháp luật về vấn đề ly thân
của Cộng hòa Pháp. Đồng thời, người viết còn nghiên cứu sâu về thực trạng
những bất cập đang tồn tại về một số quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn ly

thân khơng có yếu tố nước ngồi.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận

văn phải giải quyết các vấn đề sau:

5


- Phân tích những vân đê lý luận liên quan vê ly thân trong pháp luật
Việt Nam và pháp luật của Pháp,

- Phân tích, đánh giá khả năng áp dụng các quy định về ly thân tại Việt

Nam.
- Đưa ra những kiến nghị và hướng hoàn thiện pháp luật về ly thân.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài người viết đã sử dụng một số biện

pháp nghiên cứu cơ bản như:

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật

lịch sừ của chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, người viết đặt các vấn đề về ly

thân trong mối liên hệ, quan hệ với nhau, không nghiên cứu một cách riêng lẻ.

Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:

Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp này
được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ những nguyên nhân cần thiết xây
dựng chế định ly thân trong pháp luật Việt Nam.

Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này
được người viết vận dụng đế đưa ra ý kiến nhận xét thực trạng quy định của,

đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc
pháp luật của các nước khác...

Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển
khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến vấn đề ly thân, đặc biệt là các kiến

nghị hoàn thiện. Cụ thề như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái

quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch đề làm rõ nội dung của

kiến nghị đó...
6. Ý nghĩa của luận văn.

Ket quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tở phương diện lý

luận trong khoa học pháp lý của vấn đề ly thân. Cụ thể: Xây dựng được khái
6


niệm và đưa ra những tiêu chí cơ bản nhât đê chỉ ra những bât cập của pháp

luật và sự cần thiết đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về ly thân tại
Việt Nam.

Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sờ quan trọng để
các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có

giá trị đối với các cán bộ đang làm cơng tác hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật về hơn nhân gia đình ở Việt Nam.

7. Bố cục
của luận
văn



Ngồi phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có ba
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về ly thân, chế định ly thân và

quy định về ly thân trong pháp luật của Cộng hòa Pháp

Chương 2: Thực trạng ly thăn và thực trạng pháp luật về ly thân ở


Việt Nam
Chương 3: Kiến nghị xây dựng pháp luật điều chỉnh vấn đề ly thản tại

Việt Nam từ kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp

7


CHUÔNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN CHUNG VÈ LY THÂN,

CHẾ ĐỊNH LY THÂN VÀ QUY ĐỊNH VỀ LY THÂN TRONG PHÁP

LUẬT CỦA CỘNG HÒA PHÁP

1.1. Lý luận chung về ly thân
Hiện nay trên thế giới có hai hệ thống pháp luật điển hình phố biển là

Civil law - Hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (đại diện là Pháp - Đức) và
Common law - Hệ thống Thông luật ( đại diện là Anh - Mỳ) với những đặc
thù tạo nên những dòng họ pháp luật với những đặc điểm pháp lý riêng biệt.

Neu common law là coi trọng sự thỏa thuận và tiền lệ, còn civil law coi trọng
văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù ngày nay pháp luật ở các nước thuộc

hai hệ thống này cũng có nhiều thay đổi theo hướng bổ khuyết những mặt hạn
chế nhưng về cơ bản không làm mất đi đặc trưng vốn có. Trong đó, hệ thống

pháp Luật Việt Nam mang đặc trưng của hệ thống pháp luật Civil law và văn
bản pháp luật vẫn được coi là nguồn chủ yếu của pháp luật. Theo đó, khi xem


xét xây dựng một chế định cũng cần thiết định hướng đặt nó trong hệ thống
nào, trong bài viết này tác giả cũng định hướng xây dựng mơ hình chế định ly
thân theo hệ thống Civil law.
Trong thực tiễn xã hội ly thân diễn ra khá phổ biến và được nhiều nước

công nhận. Một số nước phân biệt ly thân về pháp lý với ly thân thực tế. Ly
thân về pháp lý là trường hợp vợ chồng yêu cầu ly thân và Tịa án ra quyết

định cơng nhận ly thân. Ly thân thực tế là trường hợp vợ chồng tự nguyện
sống riêng mà chưa có quyết định của một có quan thẩm quyền . Pháp luật

một số nước quy định ly thân thực tế là một trong những căn cứ để giải quyết
cho vợ chồng ly hơn, ví dụ: pháp luật Singapore, Philippin, Pháp, Canada...
Pháp luật một số nước không quy định ly thân như: Việt Nam, Trung Quốc ,

Nhật Bản...

8


Bên cạnh đó, hiện nay thê giới có tơn tại hai mơ hình đỏ là: Mơ hình 1

các nước có ghi nhận chế định ly thân và ly hôn, mô hình 2 là chỉ có chế định

ly thân và khơng có chế định ly hơn.Những nước có quy định đầy đủ cả ly
thân và ly hôn cụ thể như Anh, Pháp, Mỹ, Hàn Quốc,... đối với các nước chỉ
có chế định ly thân mà khơng có ly hơn như Philippines. Hiến pháp

Philippines (Điều 15, triệt 2) quy định rằng: “Hôn nhãn là một thê che xã hội

bất khá xâm phạm, là nền táng của gia đình và phái được Nhà nước báo vệ”.
Trước đây, ly hôn từng được xem là hợp pháp tại Philippines, tuy nhiên sau
đó nó đã bị cấm khi Luật dân sự năm 1949 được ban hành. Ly hơn là chuyện

rất khó đối với người dân ở quốc gia này. Để thốt khởi quan hệ hơn nhân họ

chỉ cịn biện pháp là Hủy hơn.Luật lệ cấm ly hôn liên quan đến niềm tin tôn
giáo của đất nước này. Tại Philippines, có đến 83% người theo đạo Thiên
Chúa, bên cạnh cịn có Hồi giáo (chiếm 5%) và các tôn giáo khác. Phần lớn

người dân Philippines đều theo đạo Thiên Chúa, mà theo quan điểm giáo lý
hôn nhân của Thiên Chúa thì hơn nhân là vĩnh cửu nên họ không chấp nhận
việc ly hôn giữa hai vợ chồng.

Philippines là một trong số các quốc gia công nhận chế định ly thân.

Cũng như các nước khác thì tại Philippine cũng quy định rằng ly thân chỉ làm
quan hệ sống chung chấm dứt, họ có thể sống riêng và tách biệt về tài sản.

Theo đó, ly thân hợp pháp được quyết định khi Tòa án đã thực hiện các bước
hướng tới việc hịa giải cho vợ chồng khơng thành. Philippines chú trọng đến

vấn đề ly thân ở quốc gia này vì việc ly thân không chỉ ảnh hưởng lớn đến cá

nhân hai vợ, chồng, con cái, tài sản và đặc biệt là người thứ ba trong các quan
hệ pháp luật về tài sản. Khi quyết định ly thân được đưa ra sẽ làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ như: Vợ hoặc chồng có quyền sống riêng với nhau

nhưng sự ràng buộc trong quan hệ hôn nhân sẽ không bị cắt đứt, tức là họ vần


là vợ chồng hợp pháp; Chế độ sở hữu chung về tài sản vợ chồng sẽ chấm dứt,

9


trường hợp vợ hoặc chơng là người có lơi dân đên ly thân sẽ khơng có qun
được san sẻ bất kỳ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản sở hữu chung. Người

khơng có lồi - người khơng gây ra nguyên nhân của ly thân sẽ được giữ quyền
nuôi con. Vợ hoặc chồng là người đã gây ra nguyên nhân dẫn đến ly thân thì
sẽ bị loại khỏi hàng thừa kế từ người khơng có lỗi. Hơn thế nữa, ở Philipppine

người khơng có lồ có được đặc quyền hủy bỏ các điều khoản có lợi cho người
vợ hoặc chồng vi phạm sẽ bị hủy bở được thực hiện theo ý muốn của họ. Ly
thân sẽ chấm dứt khi có sự đồng ý của hai bên. Đối với việc Tòa đã phân chia
tài sản và tịch thu bất kỳ phần tài sản của người vợ, chồng đã gây ra nguyên

nhân ly thân sẽ khơng được hồn trả, trừ khi cả hai đều phục hồi lại chế độ tài
sản cũ của họ. Quyết định nêu trên của Tòa án sẽ được ghi vào sổ đăng ký dân
sự. Như vậy có thế thấy, không nhũng công nhận chế định ly thân mà các
nước như Pháp, Canada, Philippines còn quy định cụ thể về căn cứ, hậu quả

pháp lý cũng như quyền, nghĩa vụ của vợ chồng khi ly thân.

1.1.1. Khái niệm ly thân
Vấn đề ly thân xâm nhập vào Việt Nam theo Bộ dân luật giàn yếu tại
miền Nam (còn gọi là Bộ luật dân sự Nam Kỳ năm 1883). Đây là văn bản

pháp luật được soạn thảo theo tinh thần của Bộ luật dân sự Pháp. Theo Bộ


I

X













1



luật dân sự Pháp thì chế định ly thân là chế định cùng tồn tại với chế định ly
hôn. Ban đàu, ly thân được đặt ra đế giải quyết quan hệ hôn nhân của những

người theo Cơng giáo, vì luật của Giáo hội cấm ly hôn.

Tuy nhiên, ly thân không chỉ để áp dụng riêng cho những người theo
Cơng giáo. Do đó, nhiều người không theo Công giáo cũng lựa chọn giải

pháp ly thân để giải quyết quan hệ vợ chồng khi cuộc sống chung không được
như ý và dần dần chế định ly thân được áp dụng như một giai đoạn chuyển


tiếp trước khi đi đến ly hôn.

Cổ luật Việt Nam, cũng như Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ
luật dân sự Trung Kỳ năm 1936 không quy định vấn đề ly thân. Thực tế,

10


ngoài Bộ luật dân sự Nam Kỳ năm 1883, vân đê ly thân cũng chì được quy

định trong một số văn bản pháp luật của chế độ Sài Gòn dưới thời Ngơ Đinh
Diệm như Luật gia đình năm 1959, sắc luật năm 1964, theo các văn bản pháp
luật này thì vợ chồng muốn li thân phải yêu cầu Toà án giải quyết.
Pháp luật của nhà nước ta không ghi nhận chế định ly thân, nên thuật

ngữ này khơng có ý nghĩa về mặt pháp lí. Pháp luật HNVGĐ Việt Nam từ
trước đến nay, từ Luật HNVGĐ năm 1959, năm 1986 và đến Luật HNVGĐ

năm 2000, 2014 đều không ghi nhận việc ly thân của vợ chồng. Tuy nhiên, tại
khoản 14, Điều 7 về giải thích từ ngữ tại Dự thảo Luật HNVGĐ sửa đổi trình

Quốc hội vào tháng 10 năm 2013 đã nêu rằng: “Ly thân là tình trạng hơn
nhân mà vợ chồng khơng có nghĩa vụ song chung với nhau được Tòa án câng
nhận theo yêu cầu của vợ, chồng”. Tuy Dự thảo trình lên Quốc hội 2 lần làn

một tháng 10/2013 và lần hai tháng 6/2014 nhưng đến lần thứ hai bị chỉnh lí
và bỏ các quy định về ly thân.

Đối với pháp luật của một số nước như pháp luật của Pháp, chế định ly


thân (Separation de Corps) được quy định tại Điều 296 Bộ luật Dân sự Pháp.

Ly thân là việc giảm độ gắn kết, nó làm nới lỏng mối ràng buộc hôn nhân
nhưng không làm tan biến nó. Cụ thề, đơi bên được giải phóng khỏi nghĩa vụ
chung sống cùng nhau, họ có thể tách ra ớ riêng, tuy nhiên vợ chồng vẫn bị

ràng buộc trong hơn nhân với các nghĩa vụ khơng thể xóa bỏ. Theo pháp luật
của Anh thì ly thân được hiểu là đình chỉ quyền và nghĩa vụ sống chung, chỉ
cịn để lại nghĩa vụ trung thành và không thể kết lập cuộc hơn nhân mới. Như

vậy, ta có thể thấy khái niệm ly thân ở các nước về bản chất là giống nhau,
bởi nó đều cho rằng ly thân khơng làm chấm dứt hơn nhân mà chỉ tạm thời

đình chỉ một số nghĩa vụ và làm giảm mức độ gắn kết chứ khơng hồn tồn
hủy bỏ các nghĩa vụ bởi vì mục đích chính của ly thân đặt ra là để sửa đổi và

hàn gắn hôn nhân.

11


Trên thực tê và theo cách hiêu đơn giản nhât thì ly thân được xem như
một biện pháp hàn gắn mối quan hệ và để giải quyết mâu thuẫn khi có khúc

mắc. Bất cứ việc gì liên quan đến mối quan hệ gia đình theo quan niệm người
Việt thì nó thường mang tính riêng tư, và ly thân cũng khơng nằm ngồi lẽ đó.
Chính bới nó là vấn đề nhạy cảm nên thường chỉ có hai vợ chồng biết và tự

quyết định với nhau. Tuy nhiên ly thân nó khơng chỉ là mối quan hệ riêng tư

của riêng hai vợ chồng mà nó cịn ảnh hưởng đến nhiều mối quan hệ khác.

Hôn nhân là sự liên kết trên cơ sở tự nguyện của hai bên nam nữ, dựa trên
nguyên tắc tự nguyện thì hai vợ chồng tự quyết định với nhau về việc ly thân
của họ, tuy nhiên trường hợp họ khơng thỏa thuận được với nhau thì cần có sự
can thiệp của cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng.

Ly thân là việc vợ chồng khơng có nghĩa vụ sống chung là mâu thuẫn

với quy định về tự do cư trú, Theo khoản 2 điều 15 Luật cư trú văn bản hợp
nhất 2013 “Vợ, chồng có thể có nơi cư trú khác nhau nếu có thỏa thuận”[34].

Tuy nhiên trên thực tế chỉ việc khẳng định ly thân khơng sống chung thì đó
vẫn là một thiếu sót, bởi vì theo quy định tại Điều 14 Luật cư trú thì trong một

số hồn cảnh hai vợ chồng có thể khơng sống cùng nhau có thề do thỏa thuận
hoặc tính chất cơng việc của họ. Như vậy, ngay cả khi chưa ly thân hai vợ
chồng có thể có quyền khơng sống cùng nhau. Do đó khơng loại trừ trường

hợp vợ chồng chưa ly thân vẫn có quyền không ở cùng nơi cư trú. Khái niệm
sống chung tồn tại nhiều hình thức như sống chung nhà, ăn chung, ngủ chung,

sử dụng tài sản chung..., ờ đây ly thân chỉ là đề cập đến vấn đề khơng có quan

hệ vợ chồng, khơng có đời sống tình cảm với nhau do mâu thuẫn.

Trên thực tế xã hội nước ta hiện nay phổ biến việc vợ chồng sống ly
thân là chỉ ăn riêng, ngủ riêng ... nhưng vẫn sống chung nhà. Một phần là do
điều kiện về nơi ở của vợ chồng, một phần là do văn hóa nước ta là vợ chồng
vẫn cịn muốn giữ kín chuyện ly thân, chỉ vợ chồng biết với nhau và không


12


mn đê ai biêt. Chính vì vậy, nêu như quy định răng vợ chơng khơng có

nghĩa vụ sống chung trong thời gian ly thân, thì nên có quy định giải thích rõ

thế nào là nghĩa vụ sống chung cho phù hợp với khái niệm ly thân ở nước ta.

Cụ thể hơn là không nên quy định việc “biệt cư”- tách biệt về chồ ở là bắt
buộc mà chỉ bắt buộc trong một số trường hợp cần thiết như vợ hoặc chồng có

nguy cơ bị bạo lực gia đình về thế xác, tinh thần, hoặc tình dục, bị xúc phạm
danh dự , nhân phẩm...
Do nước ta còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến nên việc công

khai ly thân của vợ chồng còn nhiều e ngại, nên việc cho phép vợ chồng thỏa

thuận ly thân bằng chứng thư ly thân nhưng có sự cơng nhận của cơ quan có
thẩm quyền. Có thể cho phép vợ chồng lựa chọn có thể yêu cầu Tòa án hoặc
cơ quan tư pháp địa phương cơng nhận. Bên cạnh đó, để bảo vệ tốt hơn quyền

của phụ nữ và trẻ em - là những người yếu thế hơn tránh khỏi vấn nạn bạo lực

gia đình... thì nên chấp nhận ly thân pháp lý, đó là việc Tịa án cho phép ly
thân khi có u cầu của một bên và khi xét thấy cần thiết.

Từ những phân tích ở trên, tác giả cho rằng khái niệm ly thân nên hiểu


như sau: Ly thân được hiểu là tình trạng hơn nhản khơng làm chẩm dứt q
pháp luật nhưng quan hệ sống chung của họ chẩm dứt. Việc ly thân có hiệu
lực khi có quyết định từ Tịa án cơng nhận việc ly thân khi có u cầu từ hai
vợ chồng.

1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của ly thân.

Như đã nói ở trên thì việc ly thân ở pháp chỉ chấm dứt nghĩa vụ chung
sống cùng nhau mà không mất đi các nghĩa vụ khác như nghĩa vụ chung thủy,

nghĩa vụ tương trợ giúp đỡ nhau vần phải được duy trì giữa hai vợ chồng.

Như vậy, đây là một khái niệm tiến bộ ở chỗ đã thể hiện được yếu tố nhân văn
bằng nghĩa vụ chăm sóc về vật chất và tinh thần trong một số điều kiện cụ thể
đối với quan hệ vợ chồng thời kỳ ly thân.

13


o nước ta chê định ly thân chưa được pháp luật công nhận, nhưng trên
thực tế, trong xã hội phát triền thì ly thân là giải pháp có xu hướng được nhiều

cặp vợ chồng lựa chọn như là một cách “Ly hôn thử” trước khi cùng nhau đưa

ra giải pháp tốt nhất cho cuộc hơn nhân của mình.

Ly thân có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện cho hai bên vợ
chồng có thời gian suy ngẫm lại về mối quan hệ hơn nhân của mình. Trên

thực tế chế định ly thân không được quy định trong luật HNVGĐ, nhưng khi


xét xử tịa án lại cơng nhận tình trạng ly thân làm căn cứ đề cho ly hôn. Như
vậy, qua q trình phân tích khái qt chung về chế định ly thân cho thấy rằng
việc nên ghi nhận chế định ly thân trong giai đoạn xã hội ngày càng phát triển

như hiện nay là rất cần thiết.

Chế định ly thân ra đời nhằm thực hiện ba mục đích chính đó là: giải
quyết mâu thuẫn của vợ chồng, tạo căn cứ pháp lý điều chỉnh về nhân thân,
tài sản và con trong khi hôn nhân cùa họ chưa chấm dứt và đảm bảo sự minh

bạch, công khai trong các giao dịch dân sự. Vì vậy, ly thân có ý nghĩa sau:
- Giải quyết mâu thuẫn của vợ chồng
Ly thân được coi là một phương thức giúp vợ chồng có thêm thời gian

nhìn nhận lại mối quan hệ hơn nhân, giảm thiểu những căng thẳng, xung đột
gay gắt giữa vợ chồng, để cho các bên có thời gian suy ngẫm, nhìn nhận lại

bản thân, hướng tới sự hịa hợp, đồn tụ. Khác với ly hôn, ly thân là giai đoạn

“quá độ”, giúp vợ chồng có thời gian suy nghĩ để chọn đúng hướng giải quyết

cuộc hôn nhân đang rạn nứt. Tuy nhiên, ly thân chỉ là giải pháp hữu hiệu với
những ai có thiện chí hàn gắn đố vỡ, vun đắp gia đình, biết nhìn nhận phần lồi
của mình và tha thứ lồi của người vợ, chồng. Có thể thấy đây là phương thức

giúp vợ chồng bảo vệ quyền của mình. Tức là nếu vợ chồng cảm thấy cuộc
sống hôn nhân khơng như ý... nên cần có thời gian sống riêng để suy nghĩ có

nên ly hơn hay khơng thì họ có quyền ly thân. Luật Hơn nhân và gia đình nên


quy định ly thân với tư cách là một quyền mới trong hơn nhân và gia đình.

14


- Bảo vệ quyên lợi của các bên đặc biệt là phụ nữ và trẻ em
Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn thì hành vi của vợ, chồng lúc đó đã bị

chi phối, ảnh hưởng nên không tránh khỏi những trường hợp vợ, chồng làm
những việc, nói những lời ảnh hưởng đến bên kia thậm chí cịn xuất hiện hành
động bạo lực. Hơn nữa, khi vợ chồng xảy ra tranh chấp thì thiệt thịi thuộc về

nhũng người yểu thế như phụ nữ và đặc biệt là trẻ em. Hiện nay, vấn nạn bạo
lực gia đình là vấn đề nhức nhối tồn tại trong xã hội và hơn nữa nó đang ngày

càng phát triển, thủ đoạn càng tinh vi hơn và tồn tại dưới các hình thức khác
nhau. Nhưng chủ yếu những trường hợp bạo lực xảy ra do người đàn ông gây
lên, còn bên bị xâm phạm và ảnh hưởng trực tiếp đến cả sức khỏe thể xác lẫn

tinh thần đó chính là phụ nữ và trẻ em. Chính vì vậy, cần có cơ chế pháp lý
đặc biệt để bảo vệ quyền lợi của vợ con. Trong một số trường hợp cần thiết
cho phép bên còn lại yêu cầu ly thân để giúp vợ con tránh xa mối nguy hiểm,

khi đó họ được phép ra ở riêng nhưng vẫn đảm bảo được trách nhiệm, nghĩa
vụ của người chồng với vợ con.

Như vậy, khi xảy ra tình trạng này, việc ly thân tạo khoảng cách an
tồn để đơi bên bình tĩnh và hạn chế tình trạng bạo lực. Do vậy pháp luật cần
có biện pháp phịng ngừa và bảo vệ đối tượng bị xâm phạm quyền và nghĩa vụ


trong thời gian ly thân

- Là căn cứ pháp lý điều chinh các vấn đề đặc biệt là các giao dịch dân
sự phát sinh trong thời kỳ ly thân

Bản chất ly thân trên pháp luật thì họ vẫn là vợ chồng hợp pháp. Tuy
nhiên, lúc ly thân thì thực tế quan hệ hai vợ chồng đã khơng cịn hịa thuận
nữa, sẽ có những tranh chấp và bất hòa. Hơn nữa ly thân là một vấn đề mang

tính riêng tư, hiện tại nếu hai vợ chồng khơng nói ra thì khơng ai biết và nếu
trường hợp một trong hai người có giao dịch với người thứ ba, thì những

người tham gia giao dịch đó với vợ hoặc chồng thì cần thiết phải biết đến tình

15


trạng hơn nhân hiện tại và tình trạng tài sản của họ. Nêu xác định rõ họ đang
trong giai đoạn ly thân thì giao dịch đó chi mang tính chất cá nhân cùa người
tham gia giao dịch. Việc xác định người cịn lại khơng tham gia giao dịch

khơng có nghĩa vụ nào đối với giao dịch đó. Tức là khi tham gia vào giao dịch

người thứ ba phải xác định được đối tượng nghĩa vụ của giao dịch. Như vậy
quyền của người còn lại mới được bảo vệ và họ không phải chịu trách nhiệm

đối với các giao dịch mà mình khơng làm.

Trên thực tế theo dự thảo luật HNVGĐ 2014 thì có một số đại biểu đã

đưa ra ý kiến rằng không nên tách tài sản trong thời gian ly thân bởi vì nếu

phân rõ tài sản thì khả năng hòa hợp, tái hợp của hai vợ chồng sẽ khó khăn
hơn. Tuy nhiên, việc khơng phân rõ tài sản rất dễ xảy ra tranh chấp cũng như
gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của một bên nếu

bên kia có hành vi đùn đẩy, từ chối trách nhiệm. Nên khi được quy định rõ

trong luật thì sẽ có căn cứ cụ thể và giải quyết sẽ dễ dàng hơn. Cơ quan có
thẩm quyền có căn cứ pháp lý để đưa ra quyết định đúng đắn nhất, bảo vệ tối

đa quyền và lợi ích hợp pháp đối với thành viên trong gia đình cũng như các
bên khác trong các giao dịch.

- Thuận lợi và đơn giản hố thủ tục ly hơn về sau
Trong dự thảo luật HNVGĐ 2014 đã có đại biểu đưa ra ý kiến rằng

việc hợp pháp hóa ly thân góp phần đơn giản hóa thủ tục ly hơn về sau.
Hiện nay, ly thân không phải là một trong các căn cứ để Tịa án quyết

định có đồng ý cho ly hơn hay khơng. Tịa án sẽ xem xét đến các yếu tố nhằm

chứng minh cho mục đích đời sống hơn nhân khơng đạt được nhưng:
Thơng thưịng thì việc chứng minh này khá phức tạp (đặc biệt là trong
trường họp đơn phương ly hơn), đó là lý do tại sao các vụ án liên quan đến ly
hơn thường phái tiến hành hịa giải rất nhiều lần, tốn thời gian và công sức

của đôi bên. Một khi giữa các bên đã có thỏa thuận về ly thân trước đó và đã

quyết định tiến tới ly hơn thì Tịa cũng sẽ dễ dàng hơn trong việc chứng minh

16


mục đích hơn nhân khơng đạt được và khơng cân thiêt phải hịa giải nhiêu lân

vì Tịa đã có được thông tin trong hồ sơ hộ tịch do ùy ban nhân dân cấp xã
cung cấp.
- Hạn chế tình trạng đơn phương ly hôn

Đơn phương ly hôn khi một bên muốn chấm dứt hơn nhân nhưng bên
cịn lại thì khơng. Đơn phương ly hôn thường dẫn đến những tranh chấp về tài

sản và con cái, do các bên chưa đạt được sự đồng thuận. Neu các bên đã ly
thân và đã có những thỏa thuận về tài sản chung, con chung trước đó thì khi ly

hơn những tranh chấp hầu như sẽ khơng cịn, các bên dề dàng đạt được sự
đồng thuận và khi đó việc của Tịa án chỉ là cơng nhận sự thuận tình ly hơn
cùa các bên. Mọi việc sẽ trở nên dễ dàng và nhanh chóng.

Nếu sau thời gian ly thân mà cặp vợ chồng vẫn quyết định ly hơn thì
cần xem bản cơng chứng về ly thân hay quyết định ly thân của Toà án như

một bằng chứng về nỗ lực cố gắng hàn gắn của hai bên nhưng khơng thành.

Khi đã có chứng cứ này thì tịa án khơng nên tiến hành thêm bước hịa giải
nữa. Việc quy định về ly thân theo hướng trên, ngoài tác dụng bào đảm giá trị

pháp lý, giúp đơn giản hóa thủ tục ly hơn.

Ly thân thuận tiện làm cho hai bên muốn xác lập lại tình trạng sống

chung. Bởi khi ly hơn, có thể sau một thời gian các cặp vợ chồng lại thấy vẫn

cịn tình cảm với nhau, hoặc vì thương con cái mà muốn kết hơn lại. Lúc đó,
họ phải làm lại từ đầu do đã ly hơn và cỏ quyết định pháp lý thì họ đã trở

thành hai người độc thân, họ cần phải tiến hành lại thù tục đăng ký kết hôn
nếu muốn quay lại cuộc sống hơn nhân như trước đây. Cịn với chế định ly
thân, khi suy nghĩ của hai người thực sự chín chắn, vẫn muốn tiếp tục đời
sống hơn nhân thì vẫn về sống với nhau một cách dễ dàng.

Quyền
1.1.3.

yêu cầu ly thân

Luật HNVGĐ của Nhà nước ta đã ghi nhận ngun tắc hơn nhân tự

nguyện, bình đẳng là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật HNVGĐ

17


Việt Nam. Do đó, việc ly thân xảy ra trong thời kỳ hôn nhân nên cũng cân

phải đảm bảo nguyên tắc này. vấn đề này xuất phát từ việc kết hơn là ý chí tự

nguyện khơng bên nào được ép buộc, lừa dối. Hôn nhân là một quan hệ đặc
biệt mang tính bình đắng, tự nguyện với mục đích gắn kết hai con người cá
biệt cùng nhau xây dựng mái ấm hạnh phúc, bình đắng và bền vững. Vì vậy


địi hỏi phải có sự tự nguyện và đó chính là điều kiện đảm bão cho hơn nhân
có giá trị pháp lí và tồn tại lâu dài. Tuy nhiên khi hơn nhân có trục trặc, bất
hịa vợ chồng cần có thời gian để suy nghĩ và nhìn nhận lại mối quan hệ hơn

nhân của mình thì ly thân được coi như biện pháp cửu vãn hay cịn được gọi

là ly hơn thử. Để cho đơi bên có thời gian và cơ hội nhìn nhận, suy ngẫm lại

mối quan hệ của mình. Việc định đoạt đó được xuất phát trên cơ sở bình đắng
giữa hai vợ chồng, mồi người đều được đưa ra ý kiến và ý kiến đó đều được
tơn trọng, chính vì họ có thể thỏa thuận với nhau như vậy tạo nên sự bình

đẳng. Đơi bên họ có thể đồng thời cùng đưa ra yêu cầu ly thân hoặc một trong

hai người có quyền đơn phương yêu cầu ly thân nếu có lý do chính đáng.
Theo đó, khơng thể có chuyện một bên vợ hoặc chồng ép buộc họ phải ly thân
hoặc bất kỳ ai khác yêu cầu họ ly thân nếu họ cảm thấy chưa thật sự cần thiết.

Neu có trường họp xâm phạm thì việc ly thân đó được coi như vơ hiệu. Pháp
luật cũng khơng thể cưỡng chế ly thân, vì bản chất của ly thân là quyết định
của vợ chồng tương tự như kết hôn và ly hơn; chỉ khi nào vợ, chồng có u
cầu thì pháp luật mới can thiệp đề giải quyết.

1.1.4. Hậu quả pháp lý
Ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật

Hậu quả pháp lý của ly thân hoàn toàn khác với hậu quả pháp lý của ly
hơn. Ly thân nó khơng làm chấm dứt quan hệ vợ chồng mà nó chỉ chấm dứt
việc chung sống cùng nhau. Khi ly thân thì nghĩa vụ chung sống như vợ
chồng khơng cịn nữa, đơi bên khơng cịn chịu sự ràng buộc về việc sinh hoạt


18


của hai vợ chông. Trong giai đoạn này, vợ chông có thê sơng cùng nhà, hoặc
sống riêng khơng chung phịng tùy vào thỏa thuận của hai vợ chồng.

Bởi vì ly thân không làm chấm dứt quan hệ hôn nhân nên các bên vẫn

còn đầy đủ các quyền đối với con chung và tài sản. Mặc dù khơng cịn chung
sống cùng nhà nhưng việc chăm sóc dạy dồ con cái vẫn là trách nhiệm của

người làm cha mẹ, đó là nghĩa vụ mà họ phải thực hiện. Việc họ cùng nhau

quan tâm, chăm sóc con cái góp phần giúp chúng khơng bị “hẫng” và tránh
những cảm xúc tiêu cực ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lí của trẻ.
Bên cạnh đó, tuy khơng có nghĩa vụ sống chung nhưng vẫn phải bảo

đảm nghĩa vụ chung thủy. Tức là trong giai đoạn này đơi bên khơng có quyền

kết hơn hay sống chung với người khác như vợ chồng. Điều đó vi phạm

nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng theo quy định pháp luật về hơn nhân
gia đình Việt Nam đã được cụ thể Tại điều 182 Bộ luật Hình sự về tội vi

phạm chế độ một vợ một chồng mà tùy theo hậu quả sẽ bị phạt cải tạo không
giam giữ hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
1.1.5. Chế định ly thân

Hiện nay pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào quy định về chế

định là gì. Tuy nhiên, có một quan điểm cho rằng chế định pháp luật hay còn
gọi là định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp
luật có đặc điểm giống nhau để điều chinh về nhóm quan hệ xã hội tương ứng

trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được
hiểu theo nghĩa rộng hoặc có thể nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là những
yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội và nghĩa hẹp là tổng thể

các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.

Chế định pháp luật mang tính chất nhóm và mỗi chế định có một đặc
điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau,
chúng không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế

19


định nhăm mục đích tạo ra khả năng đê xây dựng hệ thông quy phạm pháp

luật phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt ra các chế định trong
mối liên hệ qua lại trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như

một ngành luật. Mồi chế định pháp luật dùng mang đặc điểm riêng nhưng nó

cũng cần tuân theo các quy luật vận động khách quan, chịu sự ảnh hưởng, tác
động cùa chế định khác trong hệ thống pháp luật.
Chính vì thế để xây dựng được một chế định pháp luật không phải là

điều dễ dàng, nó phụ thuộc vào rất nhiều vào các chế định khác và nó khơng


thể tồn tại một mình. Điều này cũng được áp dụng đối với quá trình xây dựng
chế định ly thân trong pháp luật HNVGĐ Việt Nam. Ly thân cũng cần được

đặt trong mối quan hệ với các chế định khác cả trong ngành luật HNVGĐ và
với các ngành luật khác. Khi bổ sung quy định pháp luật về HNVGĐ, nó sẽ

tác động khơng nhở đến các quy định khác mà nó cịn có ảnh hưởng đến các
ngành luật khác. Trên cơ sở đó để nghiên cứu sự ảnh hưởng và tác động của

ly thân, để có phương án sửa đổi một số quy định cho phù hợp.
Như những phân tích ở trên đã khẳng định, ly thân khơng phải là chấm
dứt hơn nhân và nó xảy ra trong thời kỳ hơn nhân. Do đó, khi xem xét xây

dựng quy định pháp lý về ly thân trong hệ thống luật HNVGĐ, thì chế định ly
thân nếu đặt trong chương về quan hệ giữa vợ và chồng sẽ là hợp lý và chính
xác nhất.

1.1.6. Ly thân và các quy định pháp luật khác

1.1.6.1. Moi liên hệ với các quy định trong luật HNVGĐ

- Ly thân với chế định kết hôn.
Ket hôn và ly thân đều xuất phát từ ngun tắc tự nguyện, bình đẳng,
theo đó việc kết hơn và ly thân hồn tồn do sự quyết định của vợ, chồng,

khơng ai có quyền can thiệp hay ép buộc. Vợ chồng sẽ tự thỏa thuận với nhau
về việc có kết hơn hay có ly thân khơng, khi nào kết hôn, khi nào nên ly

20



thân... Bản chât của kêt hôn và ly thân đêu có ngn gơc từ q trình xây

dựng tình cảm, nếu tình cảm tốt đẹp thì sẽ dẫn đến quyết định kết hơn. Trong

thời gian chung sống nếu có vấn đề gì xảy ra khiến tình càm của họ rạn nứt
thì vợ chồng có thể lựa chọn giải pháp ly thân.
Ket hôn là xác lập quan hệ vợ chồng dựa trên phương diện tình cảm,

bắt đầu các mối quan hệ về tình cảm, tài sản và con cái. Trong khi đó ly thân
lại tác động theo hướng ngược lại nhưng cũng liên quan đến vấn đề tình cảm.

Bản chất là quan hệ nhân thân giữa vợ chồng, làm gián đoạn mối quan hệ đó,
tiếp sau đó sẽ là kéo theo các vấn đề khác cần giải quyết như tài sản, con cái,
quyền và nghĩa vụ khác... trong thời kỳ ly thân. Chỉ những người đã kết hơn,

có quyết định có hiệu lực pháp luật và trờ thành vợ chồng mới có thể xảy ra

tình trạng ly thân và tình trạng ly thân này mới cần điều chỉnh. Khi vợ chồng
đã kết hơn tức là đã có mối quan hệ chung, khi mối quan hệ chung này tạm

thời bị gián đoạn đó là khi vợ chồng ly thân đương nhiên sẽ kéo theo rất nhiều
hệ lụy cần phải được giải quyết hài hịa.

Nếu kết hơn là gắn chặt và thể hiện mối quan hệ tình cảm giữa hai vợ
chồng thì ly thân là tạm thời cách biệt và gián đoạn tình cảm vợ chồng do bất

hòa, mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến kết hơn và ly thân đều có nguồn gốc từ

tình cảm, cả hai tình trạng này đều có chung mục đích là xây dựng quan hệ vợ

chồng bền chặt hơn chứ không phải là để tạo ra khoảng cách giữa vợ và

chồng. Việc ly thân sẽ chịu sự tác động và ảnh hưởng không nhỏ từ việc kết

hôn, bản chất của việc ly thân được hình thành trên bản chất của việc kết hơn.

Theo đó, kết hơn là bắt đầu mối quan hệ vợ chồng hợp pháp thì việc ly thân

cũng được xác định là khoảng thời gian vợ chồng khơng có quan hệ với nhau.
Khi ly thân thì những vấn đề phát sinh từ việc kết hôn đều sẽ bị ảnh
hưởng, và tác động do tình cảm là nguồn gốc cơ bản của hôn nhân. Dựa trên
những hệ quả hình thành sau kết hơn mà có thể xác định hay đánh giá được

21


những trường hợp có thê xảy ra khi ly thân. Khi kêt hơn vợ chơng sẽ có quan

hệ tình dục hợp pháp, phát sinh vấn đề tài sản chung, giao dịch chung, quyền
và nghĩa vụ ràng buộc nhau, và trách nhiệm đối với con chung..., Từ đây việc

ly thân cũng sẽ xác định được các vấn đề như vợ chồng tạm dừng việc quan
hệ tình dục, tạm dừng quan hệ tài sản chung, giao dịch chung. Liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau trong thời gian ly thân, trách nhiệm

của mỗi người đối với con chung.... Các căn cứ để xác định tình trạng kết hơn
sẽ là nguồn xem xét, đánh giá tình trạng ly thân.

Hậu quả của việc kết hôn là vợ chồng trở thành một gia đình có quyền
và nghĩa vụ với nhau. Cịn hậu quả của ly thân có thể phát triển theo hai

hướng khác nhau, một là quay trở lại tình trạng kết hơn, hai là bắt đầu cho

tình trạng ly hơn. Như vậy, ly thân là một hiện tượng xảy ra trong thời kỳ hơn

nhân. Tức là tình trạng kết hơn của vợ chồng vẫn tồn tại, xét về mặt pháp lý
thì vợ chồng khi kết hơn và ly thân đều vẫn trong mối quan hệ vợ chồng. Do
đó đa phần các quy định về hôn nhân, các nguyên tắc chung của hôn nhân đều

vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên, đế hạn chế một số quan hệ xã hội có nguy cơ

bị xâm phạm như quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, trách nhiệm với
con cái, quan hệ giao dịch với người thứ ba ... Neu tình trạng vợ chồng khơng

cịn bản chất như mới kết hơn, thì việc xây dựng quy định về ly thân để giải

quyết họp lý và hài hịa lợi ích cá nhân trong lợi ích chung của gia đình, là
một điều cần thiết, góp phần bảo vệ tốt những quan hệ xã hội khác.

Khi kết hơn, vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo
luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Nên khi xem xét giải quyết vấn

đề tài sản vợ chồng khi ly thân cũng cần căn cứ vào chế độ tài sản mà vợ
chồng đã lựa chọn trong thời gian hôn nhân để cân nhắc những quy định phù

họp. Do đó những vấn đề phát sinh khi ly thân muốn được giải quyết triệt để
có phần phụ thuộc vào điểm bắt đầu hình thành vấn đề đó khi kết hơn. Có thể

22



khắng định rằng, ly thân chịu sự tác động và ảnh hưởng không nhỏ từ những

quy định pháp lý của kết hơn. Trên cơ sở những quy định đó để xây dựng và

điều chỉnh pháp lý về ly thân cho phù hợp và thống nhất.

- Ly thân với chế định ly hôn.

Ly thân thể hiện quan hệ vợ chồng theo đó một người hay cả hai khơng
cịn muốn sống chung với nhau do mâu thuẫn tình căm. về pháp lý, họ vẫn là

vợ chồng cho tới khi được xử ly hơn, họ khơng cần ra tịa để được sống ly
thân. Tuy nhiên, giải quyết các vấn đề phát sinh từ ly thân lại là nhu cầu và

mong muốn cùa nhiều vợ chồng khi ly thân. Trong quá trình đưa ra quyết

định đối với những hệ q đó khơng tránh khỏi những xung đột và tranh chấp.
Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp trong một số mối

quan hệ khác, nên rất cần những quy định cũng như sự can thiệp của bên thứ
ba là trung gian hòa giải các vấn đề. Ly thân tạo cơ hội cho vợ hay chồng

sống riêng biệt, để có thời gian suy ngẫm lại các vấn đề đang mâu thuẫn, để
có khoảng thời gian chín chắn hơn trước khi đưa ra quyết định mà không phải

cần ly hôn ngay. Mặt ưu điểm là ly thân dễ làm ngược trở lại. Họ có thề thử
chia tay, rồi nhờ hướng dẫn, làm hịa, hay có thế thử sống chung lại rồi ly hơn.

Ngược lại, tình trạng ly hơn là khá rõ ràng, tình trạng pháp lý khi ly
hơn là làm chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật. Cặp vợ chồng nào


thuận tình ly hơn thì phải qua ít nhất mấy lần hịa giải. Nếu khơng thành, hai
đương sự sẽ ra trước một phiên xử dân sự để pháp luật phân giải. Bản án dân

sự về ly hôn phân định rõ ràng: tài sản chung có bao nhiêu, chia ra như thế
nào, ai có bốn phận ni con, ai có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền hằng tháng nuôi
con,... Neu vợ chồng lựa chọn ly hơn ngay thì thủ tục hịa giải cùa vợ chồng

cũng chỉ dựa vào những phân tích của Tòa án, từ những nguyên nhân và mâu
thuẫn mà vợ chồng nêu ra. Cịn khi ly thân thì bản chất vợ chồng đang bắt đầu
q trình tự hịa giải với nhau và tự đưa ra quyết định về hôn nhân của mình.

23


×