MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VÈ THỤC HIỆN PHÁP LUẬT TRỌ
GIÚP XÃ HỘI ĐƠI VĨI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÈ TRỌ GIÚP XÃ HỘI ĐÓI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT........................................................................7
1.1.
Khái quát chung về thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội đối với
ngưòi khuyết tật............................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật và trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật..........7
1.1.2. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật................. 18
1.2.
Quy định pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật ở
Việt Nam hiện nay......................................................................................... 25
1.2.1. Chủ thể thực hiện trợ giúp xã hội cho người khuyết tật................................ 26
1.2.2. Điều kiện xác định người khuyết tật được hưởng trợ giúp xã hội................. 26
1.2.3. Các chế độ trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật..................................... 28
1.2.4. Trình tự thủ tục hưởng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.................. 37
Kết luận chương 1.................................................................................................... 39
CHƯƠNG 2: THựC TIỄN THỤC HIỆN PHÁP LUẬT VÈ TRỌ GIÚP
XÃ HỘI ĐÓI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
SƠN LA.......................................................................................................... 41
2.1.
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Sơn La............................. 41
2.1.1. Thực trạng về người khuyết tật tại Sơn La................................................... 41
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La.......................................................... 42
2.1.3. Chính sách của tinh Sơn La về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật............. 44
2.1.4. Hệ thông cơ quan quản lý nhà nước vê trợ giúp xã hội đôi với người
khuyết tật......................................................................................................... 48
2.2.
Các kết quả đạt được.................................................................................... 48
2.2.1. về trợ cấp xã hội hàng tháng..........................................................................48
2.2.2. về trợ giúp xã hội đột xuất đối với người khuyếttật...................................... 51
2.2.3. về chăm sóc, ni dưỡng tại cộng đồng......................................................... 53
2.2.4. về chăm sóc, ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội,nhà xã hội........................ 56
2.3.
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân............................................................... 58
2.3.1. Tồn tại, hạn chế..............................................................................................58
2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế............................................................................... 62
Kết luận chuông 2...................................................................................................64
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÃN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THựC HIỆN PHÁP LUẬT VÈ TRỢ
GIÚP XÃ HỘI ĐỚI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT.................................. 66
3.1.
Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về trợ giúp xã hội đối vói người khuyết tật............................. 66
3.2.
Hồn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật......... 69
3.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội
đối với người khuyết tật................................................................................ 72
Kết luận chưong 3.................................................................................................... 80
KÉT LUẬN............................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................84
DANH MỤC CÁC CHŨ VIẾT TẢT
BLLĐ
: Bộ luật lao động
ĨLO
: International Labour Organization - Tố chức Lao động Quốc tế
LNKT : Luật người khuyết tật
NKT
: Người khuyết tật
WHO
: World Health Organization - Tổ chức Y tế Thế giới
MỎ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài nghiên cứu
Theo kết quả Điều tra quốc gia về người khuyết tật tại Việt Nam do Tổng
cục Thống kê và UNICEF công bố ngày 11/01/2019, ở Việt Nam hiện có khoảng
hơn 6,2 triệu người (hơn 7% dân số 2 tuổi trở lên) là người khuyết tật. Bên cạnh đó,
có gần 12 triệu người (khoảng 13% dân số) sống chung trong hộ gia đình có người
khuyết tật. Tỷ lệ này dự kiến tăng lên cùng xu hướng già hóa dân số.
Tỷ lệ người bị khuyết tật ở Việt Nam từ 5 tuổi trở lên là 3,7%. Tỷ lệ khuyết tật
của nữ giới cao hơn nam giới (nữ: 4,4%; nam: 3,1%), khu vực nông thôn cao hơn khu
vực thành thị (nông thôn: 3,9%; thành thị: 3,3%). Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền trung có tỷ lệ người khuyết tật cao nhất cả nước (4,5%); Tây Ngun và Đơng
Nam Bộ là hai vùng có tỷ lệ người khuyết tật thấp nhất (đều bằng 2,9%). Tỷ lệ
khuyết tật chịu ảnh hưởng mạnh bởi cơ cấu tuổi, nhóm tuổi từ 60 tuổi trở lên có tỷ lệ
khuyết tật cao nhất (20,7%), cao hơn nhiều so tỷ lệ khuyết tật của cả nước (3,7%).
Những hộ gia đình có thành viên khuyết tật thường nghèo hơn; trẻ em khuyết
tật có nguy cơ ít được đi học hơn các bạn cùng trang lứa; cơ hội việc làm cho người
khuyết tật cũng thấp hơn những người không khuyết tật. Cho dù người khuyết tật là
đối tượng được hường chính sách Bảo hiểm y tế và nghèo không phải là rào cản đối
với việc tiếp cận các cơ sở y tế nhưng rất ít người khuyết tật (2,3%) tiếp cận được
dịch vụ phục hồi chức năng khi bị ốm hoặc bị thương. Bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại
những bất bình đẳng về mức sống và tham gia xã hội đối với người khuyết tật. Đen
cấp Trung học phổ thông chỉ có chưa đến 1/3 trẻ khuyết tật đi học đúng tuổi, so với
tỷ lệ 2/3 trẻ em không khuyết tật, 2% trường tiểu học và trung học cơ sở thiết kế
phù hợp với học sinh khuyết tật và khoảng 1/7 số trường có một giáo viên được đào
tạo về khuyết tật.
Tính đến cuối năm 2018, cả nước đã giải quyết trợ cấp xã hội hàng tháng cho
trên 2,643 triệu đối tượng. Trong đó: người khuyết tật nặng và đặc biệt nặng 896
ngàn người. Kinh phí chi trợ cấp xã hội hàng tháng, cấp thẻ bảo hiềm y tế và hỗ trợ
chi phí mai táng cho các đối tượng khoảng 3 nghìn tỷ đồng/năm [7, tr. 16-17].
Đê giúp người khuyêt tật có thê vượt qua được những khó khăn do khiêm
khuyết cùa cơ thế, hịa nhập vào cuộc sống thì chính sách trợ giúp xã hội đóng vai
trị khơng nhỏ trong việc ổn định cuộc sống của người khuyết tật (NKT). Mục đích
của trợ giúp xã hội nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để cho NKT có thể phát
triển cả về thể chất và tinh thần. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và
Nhà nước cũng đã rất quan tâm đến các chính sách trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật đem lại hiệu quả thiết thực, giúp NKT tự tin vươn lên trong cuộc sống,
hòa nhập cộng đồng.
Hệ thống luật pháp về người khuyết tật cũng đã được hoàn thiện từng bước.
Luật Người khuyết tật đã được ban hành và có hiệu lực thi hành vào ngày
17/6/2010, cùng với đó đã ban hành 6 Nghị định, 21 Thơng tư và nhiều văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật, ủy ban quốc gia về NKT đã được thành lập
và được tố chức cả ở cấp trung ương và địa phương; Thủ tướng đã ban hành Quyết
định số 1019 ngày 05/8/2012 về việc phê duyệt Đề án trợ giúp NKT giai đoạn 20122020 và Quyết định số 1100 ngày 21/6/2016, phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước
quốc tế về quyền của NKT của Thủ tướng Chính phủ. Gần đây nhất, ngày 01/11/2019,
Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 39-CT/TW về Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối
với công tác NKT và ngày 20/11/2019, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động 2019
trong đó có nhiều nội dung điều chỉnh liên quan đến lao động là NKT...
Thống kê, tỉnh Sơn La hiện có 14.995 người khuyết tật, trong đó có 2.349
người khuyết tật đặc biệt nặng, 8.566 người khuyết tật nặng và 4.080 người khuyết
tật nhẹ; có 10.915 người khuyết tật được hưởng chính sách trợ giúp hàng tháng
(trong đó có 2.258 trẻ em) [26]. Dù địa phương đã có nhiều cố gắng, chuyển biến
trong cơng tác chăm sóc người khuyết tật, cuộc sống của người khuyết tật đà có
những cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, trong q trình thực hiện cơng tác trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Do vậy để đảm
bảo thực hiện chính sách an sinh xã hội, để cơng tác trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật đi vào cuộc sống một cách có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội bền vững thì việc nghiên cứu, đánh giá, đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện
2
hiệu quả công tác trợ giúp xã hội đôi với người khuyêt tật là rât cân thiêt. Từ những
lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đổi
với người khuyết tật trên địa bàn tinh Sơn La ” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên
ngành Luật kinh tế.
Khi nghiên cứu đề tài, những câu hởi đặt ra cần phải trả lời đó là:
- Trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là gì?
- Thực trạng thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
trên địa bàn tỉnh Sơn La đang diễn ra như thế nào?
-
,
r
- Những kêt quả đạt được, khó khăn, vướng măc và nguyên nhân của tỉnh
Sơn La khi thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật?
- Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trợ
giúp xã hội đối với người khuyết tật?
2. Tình hình nghiên cứu
Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có liên
quan đến pháp luật trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật nhằm hoàn thiện pháp
luật trong lĩnh vực này như:
- Đe tài “Chỉnh sách bảo trợ xã hội thường xuyên ở cộng đồng Việt Nam”
của Nguyễn Hữu Toàn (2010). Tác giả chỉ ra rằng bảo trợ xã hội khơng chỉ là cứu
đói, hỗ trợ lương thực cho hộ gia đình, cá nhân chịu hậu quả thiên tai, chiến tranh,
tai nạn mà còn mở rộng thành các hợp phần chính sách là trợ giúp thường xuyên và
trợ giúp đột xuất. Mỗi chính sách lại bao gồm các chính sách nhỏ như chính sách
bảo trợ xã hội thường xuyên gồm trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ giúp về y tế, trợ
giúp về giáo dục, trợ giúp về việc làm, trợ giúp về học nghề. Đồng thời bài viết
cũng chỉ ra số lượng người khuyết tật trên cả nước và phạm vi phân bồ người
khuyết tật, dạng khuyết tật và số lượng người khuyết tật cũng như nhu cầu của
người khuyết tật, việc đáp ứng nhu cầu đó cũng như các chính sách cho người
khuyết tật tại Việt Nam.
- “Báo cáo về trẻ khuyết tật tại An Giang và Đồng Nai năm 2011 ” cùa tác
giả Trịnh Thắng và các cộng sự (2011), báo cáo phân tích tình hình chung về kiến
3
thức, thái độ, hành vi của cộng đông đôi với trẻ khuyêt tật ở hai tỉnh An Giang và
Đồng Nai, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ và hành vi của mọi người đối
với trả em khuyết tật; Đưa ra các đề xuất để phát triển chiến lược truyền thơng và
các khuyến nghị chính đối với các nhà hoạch định chính sách.
- Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội (2013), “Bảo cảo năm 20ỉ3 về hoạt động giúp người
khuyết tật Việt Nam
Báo cáo tổng kết những hoạt động và kết quả chủ yếu về hỗ
trợ người khuyết tật đã triến khai trong năm của các bộ, ngành, cơ quan chức
năng, tố chức xã hội với sự điều phối của ban điều phối các hoạt động hồ trợ
người khuyết tật Việt Nam, đánh giá tồn tại, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và
định hướng cho các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật trong năm 2014 cũng như
tiếp tục thúc đẩy thực hiện Luật người khuyết tật và đề án trợ giúp người khuyết
tật của các cơ quan, tổ chức thành viên của Ban điều phối các hoạt động hỗ trợ
người khuyết tật Việt Nam.
- Tác giả Thụy Bình, trong Tạp chí người khuyết tật, năm 2017, bài báo “Kể
VỔH đề gia tăng và một sổ giải pháp giảm thiếu sự gia tăng người khuyết tật và trẻ
em khuyết tật ”. Bài báo đề cập đến các dạng khuyết tật, tỷ lệ người khuyết tật và trẻ
em khuyết tật đang có xu hướng gia tăng do điều kiện vị trí địa lý của nước ta, thời
tiết khắc nghiệt, ô nhiễm môi trường và do nguyên nhân nhiều gia đình có người
khuyết tật và người khuyết tật dấu tình trạng khuyết tật của mình. Bài báo đề cập
giải pháp giảm thiểu sự gia tăng người khuyết tật và trẻ em khuyết tật.
Bên cạnh đó cịn có các cơng trình khác như: PGS-TS Lê Thị Hồi Thu,
2008, Hoàn thiện pháp luật hảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 4 (2018); Lê Thu Hoài, 2016, Pháp luật về bảo trợ
xã hội đối với người khuyết tật tại thành phổ Hồ Chí Minh; Tơ Thanh Mùi, 2013,
Chính sách bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật trong quá trình phát triển bền
vững đất nước, ILSSA; Nguyễn Thị Thu Nhàn hoàn thành luận văn thạc sĩ Xã hội
học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn về đề
tài: Hoạt động thực hiện chính sách xã hội đối với người khuyết tật tại cộng đồng',
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Huế - Trường đại học Luật về Pháp luật v bo
ã
ã
ã
ã
7
ã
4^2
ã
4
ã
ô
ã
X
ã
r
_
_
~
r
trợ xã hội đôi với người khuỵêt tật qua thực tiền áp dụng tại tỉnh Quáng Bĩnh của
Nguyễn Thanh Hoài năm 2019.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã tiếp cận vấn đề pháp luật về trợ giúp xã
hội đôi với người khuyêt tật ở nhiêu góc độ khác nhau và là những tài liệu quý báu
cho tác giả trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nghiên cứu nào về vấn đề này tại địa bàn tỉnh Son La.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tồng quát: Luận văn hệ thống hóa lý luận pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về trợ giúp xã
hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Sơn La. Từ đó
Luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
Mục tiêu cụ thể: Đe thực hiện mục tiêu tổng quát nói trên, luận văn có các
muc tiêu cu thể sau:
- Nghiên cứu khái niệm đặc điểm của NKT, trợ giúp xã hội đối với NKT; khái
niệm, nguyên tắc điều chỉnh và nội dung pháp luật về trợ giúp xã hội đối với NKT.
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về trợ giúp xã hội đối với NKT
ờ Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở đánh giá các yêu tô ảnh hưởng đên thực tiên thực hiện pháp luật
về trợ giúp xã hội đối với NKT ở Sơn La, Luận văn đưa ra các nhận định về các kết
quả đạt được, những điểm còn hạn chế và các nguyên nhân.
- Đề xuất các định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật trợ giúp người khuyết tật từ kinh nghiệm của Sơn La.
4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cún
Đoi tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật và thực tiễn thực hiện tại Sơn La.
Phạm vi nghiên cửu: Luận văn nghiên cứu pháp luật về trợ giúp xã hội đối
với người khuyết tật trên các lĩnh vực: Trợ cấp xã hội hàng tháng; Trợ giúp xã hội
đột xuất đối với người khuyết tật; Chăm sóc, ni dường tại cộng đồng; Chăm sóc,
ni dưỡng tại cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội. Do hạn chế về điều kiện nghiên
5
cứu, Luận văn không nghiên cứu vê thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyêt tranh
chấp liên quan trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật. Đề tài tập trung nghiên cứu
việc thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật trên địa bàn tỉnh
Sơn La từ năm 2015 đên nay.
5. Phuong pháp nghiên cứu
Luận văn được tiêp cận theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ thể, đề tài chủ
yếu sử dụng phương pháp thu thập thống kê, phân tích, so sánh... nhằm đánh giá
thực trạng của các quy định liên quan, đưa ra các kết luận mang tính khoa học để
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
trên đia bàn tỉnh Sơn La.
6. Đóng góp của Luận văn
về phương diện lý luận: Luận văn làm sâu sắc thêm các vấn đề lý luận liên
quan đên pháp luật trợ giúp xã hội và nội dung pháp luật trợ giúp xã hội với người
tât
Vê phương diện thực tiên: Luận văn đã góp phân phân tích, bình luận các
quy định hiện hành của pháp luật trợ giúp xã hội với người khuyết tật từ thực tiễn
thực hiện trên địa bàn tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật trợ giúp xã hội với người khuyêt tật nói chung và nâng cao
hiệu quả thực hiện tại địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng.
7. Kêt câu ln văn
Ngồi phân mở đâu, kêt luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung vê thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội đôi với
người khuyết tật và quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trợ giúp xã hội đối
với người khuyêt tật.
Chương 2\ Thực tiên thực hiện pháp luật vê trợ giúp xã hội đôi với người
khuvêt tât trên đia bàn tỉnh Sơn La.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THựC
• HIỆN
• PHÁP LUẬT
• TRỢ
• GIÚP XÃ
HỘI ĐÓI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TRỌ GIÚP XÃ HỘI ĐÓI VỚI
NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Khái quát chung về thực hiện pháp luật trọ’ giúp xã hội đối với
người khuyết tật
1.1.1. Khái niệm người khuyết tật và trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
1.1.1.1. Khái niệm người khuyết tật
Người khuyết tật là đối tượng có thế được nghiên cứu dưới phương diện
xã hội hoặc góc độ pháp lý. Mặc dù có những đặc điểm khác biệt, người khuyết
tật vẫn được nhà nước và cộng đồng bảo vệ, giúp đỡ. Trong một vài thời điểm,
thuật ngữ người khuyết tật cũng có thể được sử dụng dưới tên gọi người tàn tật.
Quan điểm tiếp cận về người khuyết tật trong mồi thời kỳ lịch sử, mỗi quốc gia
có sự khác biệt cơ bản.
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về người khuyết tật. Có những người nhìn
nhận người khuyết tật như “công dân hạng hai” trong xã hội. Với cách tiếp cận này,
người khuyết tật dường như được xem là “người thừa” trong xã hội, họ đứng bên lề
của xã hội và được xã hội bao bọc, không thực sự là một đối tượng tham gia vào xã
hội để thụ hưởng các quyền như đối với những công dân khác. Với cách tiếp cận
này, người khuyết tật chưa được tham gia một cách thực sự vào xã hội để thụ hưởng
các quyền mà nhà nước ghi nhận.
Người khuyết tật có thể được xem xét dưới góc độ cá nhân. Cách tiếp cận
này cho ràng người khuyết tật là do những hạn chế cá nhân và cần phải được chữa
trị bằng sự hồ trợ của phương tiện y tế. Sự can thiệp hay tác động về xã hội chưa
được chú trọng. Với quan điềm này, dường như người khuyết tật đang đứng bên lề
của xã hội, vấn đề khuyết tật được xem xét dưới góc độ cá nhân. Xã hội và cộng
đồng khơng có sự can thiệp vào tính cá nhân ngồi việc hỗ trợ các phương tiện về y
7
tê đê trợ giúp cho người khuyêt tật. Cũng có những quan điêm lại tiêp cận người
khuyết tật dưới góc độ từ thiện. Người khuyết tật cần phải được xã hội “ban ơn” và
trợ giúp để người khuyết tật hoà nhập vào cộng đồng.Với cách tiếp cận này, người
khuyết tật là đối tượng thụ động hưởng sự trợ giúp cùa xã hội, thụ động trong cách
tiếp cận về quyền [21, tr. 9-101. Cách tiếp cận mới trong giai đoạn hiện nay thừa
nhận người khuyết tật là một cơng dân bình thường trong xã hội. Họ được thực sự
tham gia vào các hoạt động xã hội, được nhà nước tạo mọi điều kiện để thực hiện
nghĩa vụ và thụ hưởng quyền của mình. Với cách tiếp cận dựa trên quyền của người
khuyết tật, xã hội thừa nhận sự bình đẳng của người khuyết tật, sự chủ động trong
việc thực hiện quyền của người khuyết tật và đặc biệt là sự thay đổi trong cách nhìn
nhận, thái độ ý thức của xã hội đối với người khuyết tật. Đây thực sự là bước đột
phá rất quan trọng trong tư duy pháp lý để tạo lập một hành lang pháp lý thiết lập
cho người khuyết tật để người khuyết tật tham gia vào xã hội.
Với cách tiếp cận đó, người khuyết tật đã được thừa nhận trong hành lang
pháp lý quốc tế và trong hệ thống pháp luật quốc gia của các nước. Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) đã ban hành rất nhiều văn bản điều chỉnh mối quan hệ liên quan
đến người khuyết tật. Một trong những văn bản pháp lý mang tính quốc tế phải kề
đến như: Tun ngơn quốc tế về nhân quyền năm 1948; Công ước về các quyền dân
sự, chính trị năm 1966; Tuyên bố về quyền của những người thiểu năng tâm thần
1971; Tuyên bố về quyền cũa người khuyết tật năm 1975; Các nguyên tắc về bảo vệ
người bị thiều năng tâm thần và tăng cường chính sách sức khoẻ tâm thần 1991;
Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hố các cơ hội cho người khuyết tật năm 1993;
Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật năm 2006; Công ước số
100 về trả cơng bình đẳng giữa lao động nam và lao động nừ cho một số cơng việc
có giá trị ngang nhau năm 1951; Công ước số 111 về phân biệt đối xử trong việc
làm và nghề nghiệp năm 1958; Công ước số 159 về phục hồi chức năng lao động và
việc làm của người khuyết tật năm 1983; Bản quy tắc thực hành trong quản lý người
khuyết tật tại cơng sở 2002...
Trong đó, Cơng ước của Liên họp quốc về quyền của người khuyết tật năm
8
2006 và Công ước sô 159 vê phục hôi chức năng lao động và việc làm của người
khuyết tật năm 1983 là một trong số những Công ước cơ bản quan trọng điều chỉnh
trực tiếp về người khuyết tật, thừa nhận người khuyết tật dưới góc độ tiếp cận về
quyền, ghi nhận sự bình đẳng của người khuyết tật khi tham gia vào xã hội, đảm
bảo và tạo mọi điều kiện đế người khuyết tật thực thi quyền và nghĩa vụ của mình,
đặc biệt dưới góc độ bảo đảm việc làm cho người khuyết tật. Điều 1 Công ước về
quyền của người khuyết tật năm 2006 đưa ra định nghĩa về người khuyết tật, trong
đó xác định "Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần
kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng
loạt những rào cản có thê cản trở sự tham gia đầy đủ với hiệu quả của người khuyết
tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác”.
Trong khi đó, xác định người khuyết tật dưới góc độ tham gia vào thị trường
lao động việc làm, Điều 1 Công ước số 159 về phục hồi chức năng lao động và việc
làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: ‘'Người khuyết tật dùng để chỉ một cá
nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với cơng việc đủ và thăng
tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thê chất và tâm
thần được thừa nhận
Trong hành lang pháp lý của các quốc gia, người khuyết tật có thể được các
quốc gia ghi nhận một chương riêng về người khuyết tật trong Bộ luật Lao động
như Philippin, Pháp, Việt Nam... hoặc được ghi nhận trong một văn bản điều chỉnh
riêng về người khuyết tật như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc... Dù được quy định cụ
thể trong Luật đơn hành hay trong luật chung, người khuyết tật vẫn được thừa nhận
trong hành lang pháp lý quốc tế và quốc gia, được pháp luật tạo hành lang pháp lý
để thực thi địa vị pháp lý của người khuyết tật.
Các quốc gia đã định nghĩa người khuyết tật trong hành lang pháp lý trên cơ
sở yếu tố thuộc về cá nhân. Bộ luật Lao động của Philippin năm 1974 quy định:
"Người khuyết tật là những người mà khả năng kiếm sống của họ bị tôn hại do tuồi
tác hoặc khiếm khuyết hoặc thương tật về thê chất hoặc tinh thần”.
Tương đồng với pháp luật Philippin, khái niệm người khuyết tật trong
9
Luật người khuyêt tật của Mỹ xác định: “Người khuyêt tật là người có vân đê vê
thê chất hoặc tinh thần dẫn đến những hạn chế lớn về một hoặc nhiều hoạt động
quan trọng trong cuộc sống, có hồ sơ hoặc tiền sử về vấn đề đó hoặc được cho là
có vấn đề đó”.
Trung Quốc cũng đưa ra định nghĩa người khuyết tật trên cơ sở xác định các
yếu tố thuộc về cá nhân, Điều 2 Luật Bảo vệ người khuyết tật của Trung Quốc ban
hành năm 1990 đưa ra đinh nghĩa: “Người khuyết tật là người bị mất khả năng về
nhìn, nghe, nói hoặc về thể chất, mất khả năng về trí não, rối loạn tâm thần, khuyết
tật bị đa tật hoặc các dạng khuyết tật khác”. Nam Phi cũng xác định khái niệm
người khuyết tật trong Luật Bình đẳng về việc làm, theo đó, người khuyết tật được
hiểu là người “bị suy giảm khả năng về thể lực hoặc trí lực trong một thời gian dài
hoặc tiếp diễn nhiều lần, khiến người đỏ bị hạn chế đảng kể về khả năng tham gia
hoặc phát triển nghề nghiệp” [25].
Có thể khẳng định, thuật ngữ người khuyết tật được quy định trong hệ thống
văn bản pháp lý của một số quốc gia với các tên gọi thống nhất, về cơ bản, thuật
ngữ người khuyết tật trong các văn bản pháp lý của một số quốc gia đều thống nhất
xác định người khuyết tật trên cơ sờ yếu tố cá nhân, chưa xác định người khuyết tật
kết hợp yếu tố cá nhân và yếu tổ xã hội.
Đối với Việt Nam, thuật ngữ người khuyết tật trước đây được ghi nhận dưới
tên gọi là người tàn tật. Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật 1998 ghi nhận “Người tàn tật
theo quy định của pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là người
bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biêu hiện dưới
những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến cho lao động,
sinh hoạt, học tập gặp nhiều khỏ khăn”. Tuy nhiên, thuật ngữ người tàn tật mặc dù
được sử dụng trong văn bản pháp lý song thuật ngữ này lại đưa đến cách nhìn thiếu
tích cực về phía những người khiếm khuyết bộ phận hoặc chức năng của cơ thể. Vơ
hình chung, thuật ngữ này tạo cảm giác đây là những người thừa của xã hội. Qua
quá trình phát triến của pháp luật, thuật ngữ này đã được thay thế bàng thuật ngữ
người khuyết tật. Lần đầu tiên, khái niệm người khuyết tật được ghi nhận trong văn
10
bản Luật do Qc Hội ban hành. Điêu đó cho thây, sự ghi nhận của nhà nước và xã
hội đối với đối tượng đặc biệt này.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật 2010 quy định:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng được biếu hiện dưới dạng tật khiến cho
lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn. Như vậy, người khuyết tật là
người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm
chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp khó khăn.
Tại Điều 3 Luật Người khuyết tật 2010 quy định về Dạng tật và mức độ
khuyết tật:
1. Dạng tật bao gồm:
a) Khuyết tật vận động;
b) Khuyết tật nghe, nói;
c) Khuyết tật nhìn;
d) Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
đ) Khuyết tật trí tuệ;
e) Khuyết tật khác.
2. Người khuyết tật được chia theo mức độ khuyết tật sau đây:
a) Người khuyết tật đặc biệt nặng là người do khuyết tật dẫn đến không
thể tự thực hiện việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
b) Người khuyết tật nặng là người do khuyết tật dẫn đến không thể tự
thực hiện một số việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày;
c) Người khuyết tật nhẹ là người khuyết tật không thuộc trường hợp quy
định tại điểm a và điểm b khoản này.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã có quy định rõ ràng về người như thế nào
thì được coi là người khuyết tật. Dựa trên các cách tiếp cận khái niệm người khuyết
tật trên, có thể thấy sự ghi nhận khái niệm người khuyết tật trong Cơng ước quốc tế
có những điểm khác biệt so với sự ghi nhận trong hành lang pháp lý của các quốc
11
gia. Sự ghi nhận có thê chứa đựng u tơ cá nhân hoặc thừa nhận vừa yêu tô cá
nhân, vừa yếu tố về mặt xã hội. Từ các cách tiếp cận nếu trên có thể đưa ra khái
quát về người khuyết tật và lao động về người khuyết tật như sau:
Người khuyết tật là người có sự biến đơi bất thường về hình thái hay chức
năng của bộ phận nào đó trong cơ thê gây ảnh hưởng đáng kê đến các hoạt động
của cuộc sống trên cơ sở bình đẳng với những người khác.
1.1.1.2. Khái niệm trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
Trợ giúp xã hội là một hoạt động mang tính chất từ thiện, tương thân tương
ái, giúp đỡ nhau của con người, đó là các hình thức, biện pháp giúp đờ của nhà
nước, xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của
xã hội trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro không đủ khả năng để tự lo cuộc
sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Vi vậy, cơng tác trợ giúp xã hội ln là một
vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Trong quá trình chuyển đổi kết cấu nền kinh tể, các đối tượng thuộc nhóm
trợ giúp xã hội (bảo trợ xã hội) tồn tại một cách tất yếu và địi hỏi có sự quan tâm
của nhà nước và tồn xã hội, cộng đồng khơng chỉ ở các nước Đơng Nam Á mà cịn
là nhu càu của hầu hết các nước đang phát triền. Tuy vậy, do hạn chế về khả năng
kinh tế nên các nước có nền kinh tế chuyển đổi thì trong thời kỳ đầu thường quan
tâm đến các chương trình phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết việc làm để mọi
người có thể kiếm được thu nhập từ việc làm mà ít quan tâm đến nhóm đối tượng
yếu thế như người khuyết tật, người khơng cịn khả năng lao động, khơng có nguồn
thu nhập và không nơi nương tựa ... làm cho họ đã khó khăn càng khó khăn hơn
trong việc tồn tại và hòa nhập cộng đồng.
Trong những năm qua cùng với quá trình đối mới đất nước, xây dựng kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa... chúng ta đã thu được những
thành quả lớn về kinh tế, văn hoá, xã hội. Tuy nhiên, nước ta là nước nghèo, chịu
hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai (bão lụt, hạn hán...) thường xuyên xảy
ra gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
nhân dân và điều kiện phát triển kinh tế-văn hố-xã hội. Mặt trái của kinh tế thị
•
1
•
12
•
•
trường: phân hố giàu nghèo, chạy theo lơi sơng thực dụng suy giảm đạo đức, lôi
sống, thất nghiệp... đang là những nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội: Người
già cô đơn, người lang thang, người tàn tật, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn, tệ nạn xã hội... Đây là nhóm đơi tượng cân có sự hơ trợ vê vật chât và tinh
thân của Nhà nước và xà hội.
Là nước có bê dây hàng ngàn năm lịch sử với truyên thông tương thân
tương ái “lá lành đùm lá rách” giúp đờ lẫn nhau, chính vì vậy để phát huy truyền
thống quý báu đó đồng thời nhằm mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội tiến tới công
bằng xã hội, trong quá trình phát triển kinh tế xà hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta ngày càng quan tâm nhiều hơn tới công tác trợ giúp xã hội nhằm đảm bảo
ổn định đời sống của các đối tượng dễ bị tổn thương. Chính vi vậy có thể thấy trợ
giúp xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nó có ý nghĩa kinh tế,
chính trị xã hội và nhân văn sâu sắc, đồng thời là nền tảng thực hiện mục tiêu công
bằng xà hội. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật về chính sách trợ giúp xã hội (pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư
và các vàn bản pháp luật khác có liên quan đến cơng tác bảo trợ xã hội), các chính
sách theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn nhằm điều chỉnh 1Ĩ1Ở rộng đối tượng trợ
giúp xã hội đột xuất, thường xuyên và hỗ trợ về giáo dục, y tế... đối với nhóm
người yếu thế.
Con người vừa là động lực của sự phát triển xã hội, vừa là mục tiêu của việc
xây dựng xà hội. Trong Tuyên ngôn về nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 10.12.1948 đã khẳng định, theo đó, tất cả mọi người, với tư cách là
thành viên xã hội có quyền hưởng bảo đảm xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho sự tự do phát triển con người.
Song con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải có điều kiện bảo
đảm những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở v.v... Đe thoả mãn nhu cầu tối thiểu này,
con người phải lao động làm ra những sản phấm cần thiết và khi xã hội càng phát
triển, của cải xã hội ngày càng nhiều thì mức độ thoả mãn nhu cầu của con người
ngày càng tăng, nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu cho cuộc sống phụ thuộc vào khả
13
năng lao động của con người. Tuy nhiên trong cuộc sơng, các cá nhân, gia đình và
nhiều khi cả cộng đồng có thể gặp phải những rũi ro do thiên tai hay những biến
động trong đời sống kinh tế, xã hội gây ra như bão lụt, bệnh tật, chiến tranh... có
người bị giảm hoặc mất khả năng lao động như già yếu, bệnh nghề nghiệp, tai nạn
lao động...cũng có người sinh ra đã gặp hoàn cảnh đặc biệt (khuyết tật, mồ côi, mắc
bệnh hiểm nghèo...) mà bản thân họ không thể hoặc khơng có khả năng lao động để
tạo của cải đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của bản thân... Bởi
vậy, từ xa xưa, cá nhân mỗi người và mỗi gia đình đều tìm những biện pháp đề
phịng cần thiết đế tự bảo vệ mình trước các rủi ro thơng qua các hoạt động tương
trợ giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng trên cơ sở những quan hệ tình cảm, trách
nhiệm, bổn phận con người và những quan niệm đạo đức trong xã hội [22, tr.10].
Nhưng ở khía cạnh nào đó, những quan hệ này khơng chắc chắn, song cho đến nay
nó vẫn được duy tri như những nét đẹp truyền thống cùa mỗi gia đình, cộng đồng,
bất cứ sự ảnh hưởng cùa đời sống hiện đại, có thể nhận được sự hỗ trợ nhưng hầu
như không chịu sự điều chỉnh của nhà nước. Khi q trinh cơng nghiệp hóa và đơ
thị hóa nông thôn đã làm thay đối cơ cấu xã hội, phát triển kinh tế thị trường trong
giai đoạn đầu thường tập trung vào phát triển kinh tế vi vậy đã xuất hiện các loại rủi
ro mới như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất việc làm, phá sản
do đầu tư, thiên tai vả nhân tai ngày càng khắc nghiệt; nhiều đối tượng có hồn cảnh
đặc biệt, khó khăn khơng được quan tâm, giúp đỡ đúng mức...do đó cơ chế hồ trợ,
trợ giúp có tính truyền thống đã không đú để giúp cho các cá nhân khắc phục hậu
quả rủi ro trong xã hội hiện đại.
Từ thực tế đó, ngày nay bên cạnh những hình thức tương thân tương ái, trợ
giúp truyền thống, để đảm bảo quyền của con người thì xã hội cần một cơ chế an
tồn hơn, chuyên nghiệp hơn đó là sự quản lý và chia sẻ rủi ro có bảo đảm chắc
chắn từ phía Nhà nước, mang tính xã hội và thực hiện trong cả cộng đồng để tất cả
các thành viên đều được bảo vệ và những rủi ro của họ (nếu có) được chia sẻ trong
phạm vi rộng rãi, giúp người gặp rủi ro, có hồn cảnh đặc biệt vượt qua khó khăn đế
tái hòa nhập cộng đồng, đấy là trợ giúp xã hội.
14
Do sự khác nhau vê trun thơng, văn hóa, các thê chê chính trị, cơ câu tơ
chức, cách tiếp cận khác nhau mà có nhiều định nghĩa khác nhau về trợ giúp xã hội.
Trợ giúp xã hội là một thuật ngữ đã được các sách báo, tạp chí bàn đến song vẫn
chưa được ghi nhận chính thửc trong hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam.
Trợ giúp xã hội có thể được hiểu theo nghĩa rộng [20, tr. 23] đó là sự bảo
đảm thực hiện các quyền của con người được sống trong hịa bình, tự do làm ăn,
sinh sống, được học tập, có việc làm nhà ở, được đảm bảo thu nhập đề thỏa mãn
nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già ..., cũng có thể được hiểu
là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sống thiết yếu khác cho người lao động
và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm; cho những người già cô đơn, trẻ mồ côi, người tàn tật, người
nghèo, người bị thiên tại địch họa...
Theo nghĩa hẹp: Có quan điềm cho rằng trợ giúp xã hội (bảo trợ xã hội) là
thuật ngừ được kết hợp từ thuật ngữ “trợ giúp xã hội” và "cứu tế xã hội" trong đó
"cứu tế xã hội" là sự giúp đờ mang tính chất tức thì, cấp thiết bằng tiền hoặc hiện
vật đế giúp đờ cho những thành viên trong xã hội không thế tự lo liệu cuộc sống do
gặp rủi ro, bất hạnh thoát khỏi cảnh hiềm nghèo, có thề dẫn đến cái chết; còn trợ
giúp xã hội là hoạt động chủ yếu của trợ cấp xã hội, nó vừa mang tính chất “cấp
cứu” tức thời vừa mang tính chất tương trợ lâu dài bằng tiền, điều kiện sinh hoạt để
cho thành viên trong xã hội gặp hồn cảnh khó khăn bất hạnh, rủi ro có thể phát huy
nội lực hồ nhập vào cộng đồng và xà hội.
Có quan điểm cho rằng, trợ giúp xã hội (bảo trợ xã hội) là hoạt động mang
tính chất từ thiện của nhà nước và cộng đồng nhàm trợ giúp cho các đối tượng bị rủi
ro, bất hạnh vi những lý do khác nhau không thể tự bảo đảm cuộc sống giúp họ hoà
nhập vào cộng đồng. Với quan điểm này, trợ giúp xã hội là khái niệm dùng để chỉ
mọi hình thức và biện pháp giúp đờ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều
kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bị
bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khơng đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiếu của bản
thân và gia đình.
15
Theo Tơ chức lao động Qc tê (ILO) thì trợ giúp xã hội là sự cung câp phúc
lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thơng qua các cơ chế nhà nuớc hoặc tập thể
nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp. ILO nhấn
mạnh khía cạnh bảo hiểm và mở rộng tạo việc làm cho những đối tượng ở khu vực
kinh tế không chính thức.
Theo Cơ quan Quốc tế Phát triền (OD1) thi trợ giúp xã hội đề cập những
hành động cơng ích nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương, nguy cơ gây sốc và sự
bần cùng hóa, là những điều khơng thể chấp nhận được về mặt xã hội. Với quan
điểm này, trợ giúp xã hội được hướng đến những người nghèo nhất, dễ bị tổn
thương nhất hoặc khó khăn nhất, đấy là nhừng người thuộc tầng lớp có hồn cảnh
khơng ai mong muốn trong xã hội.
Như vậy, trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ bằng tiền mặt hoặc hiện vật, cỏ tính
cấp thiết, "cấp cứu" ở mức độ cần thiết cho những người bị lâm vào cảnh bần cùng
không có khả năng tự lo liệu cuộc sống thường ngày của bản thân và gia đình", " là
sự giúp thêm bằng tiền mặt hoặc điểu kiện và phương tiện sinh sống thích họp để
đối tượng được giúp đỡ và cỏ thê phát huy khả năng, tự lo liệu cuộc Sống của mình
và gia đình, sớm hịa nhập cộng đồng.
Giới hạn nghiên cứu của Luận văn tiếp cận trợ giúp xã hội ở góc độ hẹp, đó
là sự đảm bảo và giúp đỡ của Nhà nước, sự hỗ trợ của nhân dân và cộng đồng
quốc tế về thu nhập và các điều kiện sinh sống bằng các hình thức và biện pháp
khác nhau đối với đối tượng bị lâm vào cảnh rủi ro, bất hạnh, yếu thế hoặc hẫng
hụt trong cuộc sống khi họ không đủ khả năng tự lo được cuộc sổng tối thiểu của
bản thân và gia đình.
Có thể nói khái quát lạt trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ dưới các hình thức khác
nhau của nhà nước và cộng đồng cho các thành viên yếu thế trong xã hội (bị rủi ro, bất
hạnh, khỏ khăn... không đủ khả năng tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản thân và
gia đình), giúp họ bảo đảm và ồn định cuộc sống, hoà nhập vào cộng đồng.
Đối tượng trợ giúp xã hội là mọi thành viên trong xã hội khi có các sự cố xảy
ra do nguyên nhân khách quan và chu quan khác nhau làm họ không đủ khả năng
16
hoặc không tự lo được cuộc sông của bản thân và gia đình. Tùy thuộc vào điêu kiện
phát triển kinh tế và quy định cùa mồi nước mà đối tượng bảo trợ xà hội được mở
rộng đến đâu. Với những nước phát triển, vấn đề xã hội thường được quan tâm
nhiều hơn thì đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội mở rộng, ngược lại những nước
kém phát triển thường tập trung vào phát triển kinh tế còn vấn đề xã hội ít được
quan tâm hơn thì đối tượng thuộc diện trợ giúp xà hội thu hẹp... song có thể nói đối
tượng trợ giúp xã hội là những đối tượng có hồn cảnh khó khăn, yếu thế trong xã
hội như trẻ mồ côi, người già không nơi nương tựa, người tàn tật, người tâm thần...
những người gặp hồn cảnh khó khăn do hậu quả của thiên tai hoặc nguyên nhân
bất khả kháng khác... Có 02 nhóm đối tượng yếu thế chủ yếu sau:
Nhóm đối tượng truyền thống như:
- Người cao tuổi nghèo đói, người tàn tật, trẻ mồ cơi, góa phụ;
- Nạn nhân chiến tranh, cựu chiến binh, lính xuất ngũ và người vô gia cư;
- Người nghèo, không được giáo dục, khơng có tài sản, khủng hoảng về kinh tế;
- Người dân thuộc tầng lớp thấp;
- Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình;
- Người nghèo ở nơng thơn;
- Người tâm thần;
- Những hộ gia đình bố mẹ độc thân.
Nhóm đối tượng yếu thế mới xuất hiện như:
- Người di cư trong nước hoặc quốc tế;
- Người tị nạn trong nước và quốc tể;
- Người lao động nghèo do chuyển đổi kinh tế;
- Thất nghiệp;
- Dân tộc thiểu số;
- Người nghiện, nhiễm HIV/AIDS;
- Trẻ lang thang đường phố, trẻ bị lạm dụng tình dục, sức lao động...;
Như đã phân tích trên, người khuyết tật là đối tượng xã hội yếu thế, đặc biệt
cần sự trợ giúp từ xã hội. Do đó, trợ giúp xã hội với người khuyết tật có thể hiểu là
17
tống hợp các cơ chế, chính sách và các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng xã
hội nhằm giúp cho người khuyết tật ổn định cuộc sống, hoà nhập cộng đồng. Thực
tế cho thấy rằng trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là cần thiết để góp phần
đảm bảo các quyền của người khuyết tật và giúp cho người khuyết tật xóa bỏ tâm
lý tự ti, mặc cảm, vượt lên hồn cảnh đế hịa nhập cộng đồng, góp phần vào sự
phát triển của xà hội. Bởi vậy, để đảm bảo hiệu quả trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật thì Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau (pháp
luật, đạo đức, tập qn...) trong đó pháp luật được coi là cơng cụ quan trọng nhất
để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật.
1.1.2. Thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật
ỉ. 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật
Người khuyết tật là người cần được bảo vệ và bảo đảm hưởng một cách bình
đẳng và đầy đủ tất cả các quyền và tự do cơ bản của con người, và thúc đẩy sự tôn
trọng phấm giá vốn có người khuyết tật. Người khuyết tật được ghi nhận trong các
công ước quốc tế, trong hệ thống pháp luật của các quốc gia nói chung và pháp luật
Việt Nam nói riêng.
Hệ thống pháp luật các nước đều ghi nhận các biện pháp và cơ chế mà các
quốc gia cần thực hiện để bảo đảm cho việc bảo vệ và thực thi quyền của người
khuyết tật bình đẳng với các đối tượng khác trong xã hội. Các quốc gia có thể thơng
qua các biện pháp lập pháp, hành pháp hoặc các biện pháp khác để thi hành các
quyền được thừa nhận trong Cơng ước. Trong q trình thực thi quyền cùa người
khuyết tật, các quốc gia áp dụng mọi biện pháp thích hợp, trong đó có lập pháp, đế
sửa đổi hoặc hủy bỏ các luật, quy định, tập qn và thơng lệ hiện hành có tính chất
phân biệt đối xử đối với người khuyết tật. Đồng thời, tất cả các cơ quan khi thực thi
quyền của người khuyết tật không được vi phạm đến quyền của người khuyết tật,
xoá bở mọi sự phân biệt đối xử trên cơ sở sự khuyết tật do bất kỳ cá nhân, tố chức
hoặc công ty tư nào tiến hành bằng những biện pháp thích hợp. Các cơ quan có
18
thâm quyên trong xây dựng và thi hành pháp luật vê người khut tật, các qc gia
thành viên có trách nhiệm tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia góp ý kiến về
đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật. Việc tham gia một cách đầy đủ, toàn diện trong việc xây dựng chính sách đảm
bảo nguyên tắc tham gia và hòa nhập trọn vẹn và hừu hiệu vào xã hội trong CRPD.
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật bao gồm tổng hợp các
quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh mối
quan hệ giữa nhà nước với người khuyết tật và các chủ thề khác có liên quan khi
người khuyết tật tham gia vào quan hệ pháp luật trợ giúp xã hội, theo đó, các bên
tham gia mang các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo luật định.
Hệ thống các quy phạm này tạo khuôn khố cho hoạt động xã hội, chứa đựng
các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc chung và tác động, điều chỉnh tới các quan hệ
xã hội. Vi vậy hoạt động thực hiện pháp luật không chỉ là sự quan tâm của Nhà
nước mà còn là của mỗi cá nhân bởi kết quả của q trình đó tác động mạnh mẽ tới
mọi mặt của đời sống xã hội. Việc tự giác thực hiện các quy phạm pháp luật gắn
chặt với yêu cầu của các cơ quan trong bộ nhà nước, là mục tiêu và là đòi hòi các tổ
chức, cá nhân trong xã hội tơn trọng, thực hiện chính xác, đầy đủ pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của con
người phù hợp với quy định của luật pháp. Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo
sau khi văn bản pháp luật được ban hành để đưa các quy phạm pháp luật trở thành
các quy tắc xử sự của các chủ thể pháp luật làm cho các yêu cầu, quy định của văn
bản pháp luật trở thành hiện thực, về pháp lý thì thực hiện pháp luật là hành vi hợp
pháp, hành vi đó khơng trái, khơng vượt ra ngồi các quy định của pháp luật. Thực
hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội. Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho
thấy hiện nay có một số quan niệm về thực hiện pháp luật sau:
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn học Lý luận chung về nhà nước và
19
pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị qc gia Hơ Chí
Minh thì “Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho
hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật” [24, tr. 270].
Giáo trình của Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng “Thực hiện
pháp luật là một q trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp
luật đi vào cuộc sống trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể
pháp luật” [23, tr. 494].
Theo Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì: “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật”.
Từ những quan niệm thực hiện pháp luật nêu trên cho thấy các định nghĩa
đều thống nhất về:
- Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhàm thực hiện những yêu
cầu của pháp luật;
- Thực hiện pháp luật là các hoạt động thực tế, hợp pháp, làm cho những quy
định của pháp luật trờ thành hoạt động thực tế trong cuộc sống con người;
- Thực hiện pháp luật là một quá trình của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Với tư cách chủ thể quản lý, nhà nước đã sử dụng pháp luật làm phương tiện
quan trọng nhất để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. khi ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật nhà nước mong muốn các văn bản đó phải được tơn trọng
và thực thi có hiệu quả trong thực tế. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có
mục đích, định hướng nhằm hiện thực hố nội dung các quy định của pháp luật
bằng các hành vi thực tế của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Dưới
góc độ pháp lý, chỉ những hành vi xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật về
người khuyết tật của các chủ thế có đầy đủ khả năng nhận thức được yêu cầu của
quy phạm pháp luật, có khả năng tự chịu trách nhiệm và gánh chịu những hậu quả
bất lợi do hành vi của họ gây ra thì được coi là quá trình thực hiện pháp luật về
người khuyết tật.
20
Như vậy, khái niệm thực hiện pháp luật có thê được hiêu như sau: Thực hiện
pháp luật là một quá trình của chủ thế pháp luật nhằm mục đích làm cho những quy
định của pháp luật đi vào cuộc sắng, trớ thành những hành vỉ thực tế, hợp pháp của
các chủ thê pháp luật.
Ớ Việt Nam, trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật được quan tâm thực
hiện từ rất sớm và được ghi nhận bằng sự ra đời của Pháp lệnh về Người tàn tật
năm 1998. về phương diện trợ giúp xã hội cho người khuyết tật, có thể kể đến sự
ra đời của Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 09/03/2000 của Chính phủ về chính
sách cứu trợ xã hội; Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 cùa Chính phủ
về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội, tiếp đến là Nghị đinh số
13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 67/2007/NĐ-CP; đặc biệt là Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày
21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng
bảo trợ xã hội (Nghị định số 136/2013/NĐ-CP) nay được thay thế bằng Nghị định
số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã
hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội có hiệu lực từ ngày 01/7/2021... và một số
các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành có liên quan. Sự ra đời của Luật Người
khuyết tật năm 2010 đánh dấu sự phát triển của chế độ trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật.
Thực hiện pháp luật trợ giúp xã hội về người khuyết tật là một quá trinh hoạt
động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật về trợ giúp xã hội đối với
người khuyết tật được đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp
trong mối quan hệ giữa quyền của người khuyết tật với quyền của các chủ thể khác
nhau khi tham gia quan hệ pháp luật.
Từ những lập luận trên, có thể đưa ra khái niệm: Thực hiện pháp luật trợ
giúp xã hội về người khuyết tật là hoạt động có mục đích của các chủ thê mà các
chủ thê đỏ có thể là cá nhân, cơ quan nhà nước, tô chức xã hội, các cá nhân được
nhà nước trao quyền nhằm làm cho các quy định của pháp luật về trợ giúp xã hội
đối với người khuyết tật trở thành những hành vi trong thực tế bảo vệ và bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp đối với người khuyết tật.
21
ỉ. ỉ.2.2. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với người
khuyết tật
Trợ giúp xã hội đối với người khuyết tật là tổng thể các cơ chế, chính sách,
giải pháp của Nhà nước và cộng đồng xã hội nhàm trợ giúp và bảo vệ cho người
khuyết tật, trước hết và chủ yếu là những khoản trợ cấp, hồ trợ và các chi phí khác
nhằm giúp cho đối tượng ồn định cuộc sống.
Trên cơ sở của các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật an sinh xã hội, có thể
xác định nguyên tắc điều chỉnh pháp luật trợ giúp xã hội với người khuyết tật
như sau [21, tr. 261-267]:
Thử nhất, nguyên tắc người khuyết tật có quyền được hưởng trợ giúp xã hội
khơng có sự phản biệt theo tiêu chí nào
Xuất phát từ việc đảm bảo quyền con người được quy định trong pháp luật
quốc tế, các quốc gia đều nhận thức rõ vấn đề này và ghi nhận quyền hưởng trợ
giúp xã hội cho công dân trong văn bản pháp luật quốc gia. Đối với người khuyết
tật, quyền hưởng trợ giúp xã hội được ghi nhận trong Hiến pháp và cụ thể hoá trong
các văn bản Luật, dưới luật...
Nguyên tắc thực hiện quyền hưởng trợ giúp xà hội đối với người khuyết tật
khơng có sự phân biệt theo tiêu chí nào cũng chính là nội dung nguyên tắc cơ bản
của Luật an sinh xã hội. Nội dung nguyên tắc thể hiện ở việc quy định phạm vi và
đối tượng áp dụng. Theo đó, mọi thành viên xà hội bị khuyết tật đều có quyền
hưởng trợ giúp xà hội mà khơng có sự phân biệt về địa vị, kinh tế, tơn giáo, giới
tính, thành phần xã hội,...
Thử hai, mức trợ cấp trợ giủp xã hội đối với người khuyết tật khơng phụ
thuộc vào sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu phụ thuộc vào
mức độ khuyết tật và nhu cầu thực tế của đối tượng
Chỉ trong trường hợp cuộc sống thường nhật của người khuyết tật bị đe doạ,
hoặc cần có sự giúp đỡ, hồ trợ để tồn tại thì vấn đề trợ cấp mới được đặt ra. Với
mục đích khơng nhàm bù đắp hoặc thay thế thu nhập của đối tượng hay bảo đảm
đời sống cho người khuyết tật với những yêu cầu định trước mà chỉ nhằm giúp đỡ,
22