Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hình thức của giao dịch dân sự và thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh đắk lắk (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.06 MB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong Luận vãn đăm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia

Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét đê tơi có thế

bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hoài Nam


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH THÚC CỦA

GIAO DỊCH DÂN sự.......................................................................................6

1.1. Khái niệm, đặc điểm của giao dịch dân sự................................................ 6
1.2. Hình thức giao dịch dân sự...................................................................... 14
1.3. Hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ


19

KÉT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................32

CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỤC TIẺN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA

BÀN TỈNH ĐẮK LẮK....................................................................................33

2.1. Pháp luật hiện hành về hình thức của giao dịch dân sự.......................... 33
2.2. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do vi phạm hình thức................. 44
2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hình thức giao dịch dân sự

tại các tịa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.............................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................... 64
CHƯƠNG 3: HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÌNH THỨC CỦA

GIAO DỊCH DÂN sụ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................... 65

3.1. Những hạn chế trong quy định pháp luật về hình thức giao dịch dân sự 65
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hình thức cùa giao dịch dân sự ở Việt

Nam hiện nay.................................................................................................. 73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................... 76
KẾT LUẬN...................................................................................................... 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 79


DANH MỤC TÙ VIẾT TẮT


BLDS:

Bơ lt dân sư

GDDS:

Giao dich
• dân sư•

TANDTC:

Tịa án nhân dân tối cao

GCNQSDĐ:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

QSDĐ:

Quyền sử dụng đất








MỎ ĐẦU


rp/__ 1

A.__ J 1- •

J



y •__ _ 1



__ ______ r

I. Tính cap thiêt cua đê tài nghiên cứu
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình tồn cầu
hóa, tự do hóa thưong mại đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hòi các quốc
gia phải tăng cường mở cửa, hợp tác kinh tế quốc tế trên tất cả các lĩnh vực,

kéo theo đó các giao dịch được xác lập ngày càng nhiều và các tranh chấp xảy
ra cũng theo đó ngày một gia tăng.

Trong giai đoạn hiện nay, khi số lượng và giá trị tài sản trong giao dịch
dân sự càng lớn, đa dạng và phong phú hơn thì vấn đề khơng tn thủ đúng về
hình thức của giao dịch dân sự ngày càng phát sinh nhiều tranh chấp phức tạp.

Thực tế có quá nhiều những giao dịch dân sự không tuân thủ về hình thức gây
ra thiệt hại cho những người tham gia giao dịch, người thứ ba cũng như đề lại


những hậu quả nhất định cho xã hội. Trong một số trường hợp để bào vệ
quyền lợi hợp pháp cho người tham gia giao dịch cũng như tiện cho công tác

quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội mà pháp luật yêu cầu
hình thức đối với các loại giao dịch và hình thức được coi là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự.

Ở Việt Nam, Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành (có hiệu lực từ
ngày 01/7/2017) chưa lâu nhưng việc sứ dụng, áp dụng những quy định đó để
giãi quyết những tranh chấp liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do khơng

tn thủ hình thức đã phát sinh những bất cập nhất định. Vì có những cách
hiểu về giao dịch dân sự vơ hiệu do khơng tn thú hình thức khác nhau nên

cách nhận định, quyết định trong các bản án cũng khác nhau. Vì vậy, việc
nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức
để tìm ra cách giải quyết, khắc phục sao cho hiệu quả, tránh rủi ro nhằm giảm
thiểu thiệt hại cho cá nhân, tổ chức trong xã hội là hết sức cần thiết. Đặc biệt


có ý nghĩa hơn trong bơi cảnh tự do khê ước, tự do thỏa thuận gây ra những
hệ lụy khó lường đối với người thiếu am hiểu pháp luật.

Do vậy,
• J ' học
• viên lựa chọn đề tài: “Hình thức của giao địch dãn sự và
C7

••






thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn tình

Đắk Lẳk” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học với mục đích làm rõ

các quy định của pháp luật Việt Nam về giao dịch dân sự khơng tn thủ hình

thức nhằm đáp ứng những địi hỏi về cả lý luận và thực tiễn đồng thời tác giả
cũng chì ra những tồn tại, vướng mắc và đưa ra những kiến nghị, hoàn thiện

hơn các quy định của pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình
thức nhằm nâng cao hiệu quá điều chỉnh các quan hệ xã hội này.
2. Tình hình nghiên cứu

Việc nghiên cứu về hình thức giao dịch dân sự đã được nhiều nhà khoa
học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ khác nhau và dưới các góc độ khác

nhau. Dưới đây là một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu:

về sách chun khảo, cơng trình nghiên cứu, bài viết: Giáo trình: “Luật

Dân sự Việt Nam” của Đại học Luật Hà Nội [41]; sách ‘‘Bình luận Bộ luật
Dân sự" của tác giả Nguyễn Minh Tuấn [42]; sách "Bình luận khoa học bộ
luật dân sự năm 2005" của tác giả Hoàng Thế Liên [16]; sách "Bình luận

khoa học những điêm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015” của tác giả Đồ Văn


Đại [6]; "Giao dịch dán sự vô hiệu do khơng tn thủ về hình thức" của TS

Nguyễn Văn Cường [5]; "về hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do vi phạm
điều kiện hình thức "của Trần Thị Thu Hà [7]; Tác già Tưởng Duy Lượng
"Những vấn đề cần lưu ỷ khi áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự về giao dịch

dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức” [17]; Dương Anh
Sơn, Lê Minh Hùng, "Hình thức văn bản, văn bản có chứng thực là điều kiện
có hiệu lực của họp đồng" [36]; "Giao dịch dân sự vơ hiệu về hình thức" của

2


Trân Đình Hảo (2015) tham luận tại hội thảo Chê định hợp đông trong dự

thảo Bộ luật dân sự sửa đổi [8];

về luận án tiến sĩ: có các luận án nghiên cứu liên quan có thể kể đến

như: Giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch

dân sự vô hiệu của Nguyễn Văn Cường [5J; “Hiệu lực của hợp đồng theo quy
định của pháp luật Việt Nam ” của Lê Minh Hùng [14]...

Những cơng trình khoa học trên là tư liệu giúp tác giả có thêm những
thơng tin khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn. Tuy nhiên, những

cơng trình trên chưa phản ánh hết các phát sinh gần đây (từ sau khi ban hành
BLDS năm 2015) về hình thức của giao dịch dân sự, cũng như thực tiễn áp


dụng những quy định này đế giải quyết những tranh chấp liên quan. Do vậy,

tác giả lựa chọn đề tài này nhằm góp phần khỏa lấp những khoảng trống

nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hình thức của giao dịch dân sự; các
vụ án dân sự về tranh chấp tại các tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.




X





3.2. Phạm vi nghiên cứu

Hình thức của giao dịch dân sự là vấn đề khá rộng lớn tuy nhiên nhưng
chủ yếu được quy định tập trung trong BLDS 2015 nên trong khuôn khổ luận

văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu tập trung trong BLDS 2015, ngồi ra cịn
nghiên cứu và phân tích các quy định về hình thức giao dịch dân sự trong các

văn bản pháp luật liên quan khác cũng như thực tiễn giải quyết những nội
dung này. Cùng với việc nghiên cứu các quy định hiện hành, tác giả cũng bỏ

ra một liều lượng thích họp cho việc nghiên cứu các quy định về hình thức
giao dịch dân sự qua các thời kỳ.

3


4. Mục
cứu
• đích và nhiệm
• vụ• nghiên
o

4.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần hồn thiện pháp luật về hình

thức cùa giao dịch dân sụ, thơng qua nghiên cứu các tình huống (là các vụ
việc tranh chấp dân sụ liên quan đến hình thức của giao dịch dân sự).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đe đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, luận văn hướng đến
giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận chung của hình thức giao
dịch dân sự như: khái niệm, bàn chất của hình thức giao dịch dân sự; nghiên

cứu hình thức giao dịch dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam xuyên suốt
qua các giai đoạn;

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng những quy

định của pháp luật về hình thức giao dịch dân sự; đánh giá thực trạng quy
định của pháp luật và cách thức giải quyết của cơ quan có thẩm quyền từ đó

xác định những điểm cần sửa đối trong quy định của pháp luật.

Thứ ba, trên cơ sở những bất cập được xác định đưa ra những giải pháp

phù hợp trong việc sửa đối, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành về
hình thức của giao dịch dân sự.
5. Phưong pháp nghiên cứu

Đe tài vận dụng các phương pháp biện chứng duy vật và các phương
pháp nghiên cứu truyền thống của chuyên ngành khoa học pháp lý để giải

quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hình thức của giao dịch
dân sự. Chủ yếu sử dụng các phương pháp: phương pháp phân tích quy phạm;
phương pháp phân tích tài liệu; phương pháp phân tích bản ản; phương pháp
lịch sử; phương pháp so sánh ... để làm rõ mối quan hệ giữa hình thức giao

4


dịch dân sự giữa pháp luật hiện hành và pháp luật qua các giai đoạn trước đó,

giữa các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ỷ nghĩa lý luận'. Luận văn phân tích có hệ thống các quy định của pháp
luật Việt Nam về hình thức của giao dịch dân sự. Qua nghiên cứu, luận văn


chỉ ra những quy định hợp lý và những điềm bất cập, khó thực thi của BLDS
năm 2015 cũng như những điểm cần có hướng dẫn cụ thể và đưa ra những

quan điểm cá nhân để nhằm hoàn thiện những quy định về hình thức của giao
dịch dân sự.

Ỷ nghĩa thực tiền'. Luận văn là cơ sở để tham khảo, nghiên cứu giải quyết
những tranh chấp liên quan đến hình thức của giao dịch dân sự trong thực tể.

Bởi luận văn chì ra những bất cập cũng như phương hướng cần hoàn thiện của
pháp luật về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm về hình thức trong tương lai.
—_

í

7. Cơ câu của luận văn

Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Những vân đê lý luận vê hình thức của giao dịch dân sự;
Chương 2: Pháp luật hiện hành và Thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các

Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
Chương 3. Hồn thiện pháp luật vê hình thức cúa giao dịch dân sự ở Việt

Nam hiện nay.

5



CHƯƠNG 1. NHŨNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN

VỀ HÌNH THÚC CỦA GIAO DỊCH DÂN sự

1.1. Khái niệm, đặc điêm của giao dịch dân sự

1.1.1. Khái niệm giao dịch dân sự

Dưới góc độ pháp lý, đời sống của con người trong xã hội đều được tạo

lập bởi các giao dịch dân sự. Giao dịch dân sự được xem là phương tiện hữu
hiệu đế con người thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Ngay từ khi
nhân loại bước vào giai đoạn trao đổi hàng hóa thì giao dịch dân sự đã được

hình thành và chiếm giữ một vai trị quan trọng trong việc điều tiết các mối
quan hệ xã hội và được thể hiện rõ nét trong lĩnh vực kinh doanh, giúp biến

những dự định hoặc kế hoạch kinh doanh trở thành hiện thực. Nhìn rộng ra
trên bình diện xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển trong xã hội phải
tham gia vào các giao dịch nhất định để hợp tác, chia sẻ hay kiềm chế lẫn

nhau. Khi các bên tham gia giao dịch là họ đã mong muốn cùng nhau trao đổi,
dịch chuyền các lợi ích với nhau và kiềm chế lẫn nhau và tất nhiên phải trên

cơ sở khơng xâm phạm lợi ích hợp pháp cùa người khác hay lợi ích chung của

xã hội.
Khái niệm “giao dịch” theo từ điển Tiếng Việt được hiểu một cách đơn
giản nhất là “sự giao tiếp, tiếp xúc giữa hai hay nhiều đối tác”. Dưới góc độ

xã hội học thì giao dịch là mối quan hệ giữa người với người, được xem là

mối liên hệ phổ biến và lâu đời trong lịch sử xã hội loài người. Trong xã hội
hiện đại ngày nay, giao dịch được xem là công cụ thơng dụng và có hiệu quả,
đảm bảo các quan hệ dân sự được thực hiện trong hành lang pháp lý an toàn

nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự ngày càng pháp triển.
Vì đóng vai trị vơ cùng quan trọng như vậy nên giao dịch dân sự nhanh
chóng được đưa vào hệ thống luật pháp của các quốc gia nhằm làm ổn định,

6


giữ trật tự cho nền kinh tế phát triển và ngày càng được khẳng định trong hệ
thống pháp luật. Trong xã hội phát triển luôn phải đặt ra nhu cầu hoàn thiện,

phát triển chế định giao dịch. Điều này được thể hiện rõ nét trọng hệ thống

pháp luật Việt Nam từ khi hình thành cho đến nay. Tuy thuật ngữ “giao dịch

dân sự” chưa được thể hiện từ những ngày đầu cùa lịch sử lập pháp Việt Nam
nhưng trong nhũng văn bản cố luật cũng đã tìm thấy những thuật ngữ có

nghĩa tương đương hoặc the hiện bản chất của giao dịch như: khế ước hoặc

mua, bán, cho, cầm hoặc hành vi thế hiện ý chí của con người nhằm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự mà khơng phụ thuộc vào ý chí
của bên kia như hành vi lập di chúc... Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã

hội cùng với sự thăng trầm của nền kinh tể, ngày nay thuật ngữ giao dịch dân


sự được nâng tầm thành chế định giao dịch dân sự và chiếm vị trí quan trọng
trong Bộ luật dân sự hiện hành.

Đối với thế giới, sự phát triển của “giao dịch dân sự” tại mồi quốc gia có
những đặc thù riêng. Nét chung nhất có thế thấy được là vị trí cùa chế định
giao dịch dân sự ngày càng được nâng cao và chú trọng. Tuy nhiên, tùy theo

tình hình phát triến kinh tế xã hội ỡ một đất nước mà giao dịch dân sự lại
được quy định ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Ví dụ: tại BLDS của

Nhật Bản quy định về chế định họp đồng và chế định thừa kế theo di chúc;
BLDS của Pháp không nêu ra chế định về giao dịch dân sự mà quy định chế
định hợp đồng và chế định thừa kế... Nhìn chung, pháp luật những nước này
đều khơng có khái niệm về giao dịch dân sự nhưng về bản chất và các loại

hình của giao dịch dân sự như: hợp đồng, hành vi pháp lí đơn phương đều

được quy định cụ thể và chi tiết.
Tác giả đồng tình với định nghĩa về giao dịch dân sự tại Điều 121 BLDS

2005. Khái niệm đã mang tính khái quát cao và thể hiện được bản chất của
giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Bộ luật dân sự sửa đổi

7


các cơ quan lập pháp Việt Nam đã đê cập đên việc thay đôi thuật ngừ “Giao

dịch dân sự” thành thuật ngữ “Hành vi pháp lý” vì cho rằng: thuật ngữ hành


vi pháp lý rộng hơn thuật ngữ giao dịch dân sự và bao quát được hết các hành

vi pháp lý được thực hiện trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự
2015 được thông qua vẫn giữ nguyên khái niệm “Giao dịch dân sự” bởi nó

chứa đựng các hạt nhân hợp lí như sau:

(i) Thuật ngữ “giao dịch dân sự” đặc biệt là thuật ngừ “giao dịch” đã
được sử dụng trong suốt thời gian dài và ăn sâu vào trong tiềm thức của người

dân, được sử dụng khá nhiều và phổ biến. Nó chính thức được thừa nhận với

một khái niệm hồn chỉnh tại BLDS 1995. Vì vậy, với một thuật ngữ đã được
sử dụng nhiều và khơng gây ra nhiều những bất cập trong q trình áp dụng
pháp luật thì việc thay thế sẽ gây ra những tác động về mặt tiêu cực không

nhỏ. Nếu các nhà làm luật thay thế thuật ngừ “hành vi pháp lý” cho thuật ngữ
“giao dịch dân sự” sẽ kéo theo hàng loạt vãn bản pháp lý có liên quan phải
sửa đối những nội dung liên quan đến giao dịch dân sự.

(ii) Hiện nay, nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế - xã hội phát triển
hơn Việt Nam vẫn đang sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” và thuật ngữ
này vẫn có thế bao quát được nhiều hành vi xử xự của con người trong xã hội.

Vì vậy, việc đưa ra một thuật ngữ mới là “hành vi pháp lý” không cần thiết.
(iii) Khái niệm hành vi pháp lý được định nghĩa như sau tại Điều 116 dự
thảo BLDS sửa đối: “Hành vi pháp lý là sự thê hiện ý chí nhằm làm phát

sinh, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hành vi pháp lý hao gồm họp đồng và

hành vi phảp lý đơn phương”. So sánh với khái niệm giao dịch dân sự tại

Điều 116 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đôi hoặc chẩm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.

về băn chất thì cả hai thuật ngữ đều bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý

8


đơn phương. Nên việc sửa đơi ở đây chì đơn thn là việc sửa đơi tên thuật

ngữ cịn nội dung và bản chất vẫn được kế thừa từ BLDS 2015.
(iv) Một số nhà làm luật cho ràng đối với hành vi pháp lý như hành vi

của chủ sở hữu hoặc người có quyền khác tác động trực tiếp lên tài sản thuộc
quyền của mình; hành vi kết hơn, ly hơn, cấp dưỡng... không phù hợp với
thuật ngừ giao dịch dân sự. Tuy nhiên, về mặt bản chất chúng ta có thể xác

định các hành vi của chủ thể dựa trên nguyên tắc thể hiện ý chí: (i) sự thể hiện

ý chí của một người làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự được gọi là hành vi pháp lý đơn phương; (ii) sự thỏa thuận cùa từ hai
bên trở lên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự

được gọi là hợp đồng. Như vậy, hành vi của chủ sở hữu hoặc người có quyền
khác tác động trực tiếp lên tài sản của mình mà làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự là hành vi pháp lý dơn phương. Đối với

hành vi kết hôn, ly hôn, cấp dưỡng... đều là hành vi hai bên xác lập làm phát


sinh quan hệ hôn nhân, chấm dứt quan hệ hôn nhân hoặc phát sinh quan hệ
cấp dưỡng, về mặt bản chất có thể được coi là một loại hợp đồng. Tuy nhiên
kết hôn là một loại hợp đồng đặc biệt. Tại nhiều nước phương Tây, kết hôn

được coi là một dạng họp đồng nhưng tại các nước Châu Á như Việt Nam do
truyền thống văn hóa lâu đời cịn có nhiều tác động đến pháp luật nên vấn đề

kết hôn chưa được thừa nhận là một loại hợp đồng.
Vậy, hành vi nào thỏa mãn khái niệm, bản chất, dấu hiệu, đặc điểm của
giao dịch dân sự thì là giao dịch dân sự và không phụ thuộc vào hành vi đó có

phù hợp với tên của thuật ngữ hay khơng. Vì vậy, đối với những trường hợp
đặc biệt hay ngoại lệ thì các nhà làm luật nên có những quy định riêng để tạo

điều kiện cho việc áp dụng pháp luật được dễ dàng hơn vì việc thay đối thuật

ngữ trong trường hợp này là không thực sự cần thiết.

9


1.1.2. Đặc điêm của giao dịch dân sự

Theo khái niệm đã phân tích ở trên về Giao dịch dân sự, có thể thấy Giao
dịch dân sự có những đặc điểm sau:
1.1.2.1. Sự thê hiện ỷ chỉ của các bên tham gia giao dịch dân sự

Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan của con người mà nội dung


của nó được xác định bởi nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của bản thân họ. Khi
các chủ thể tham gia vào giao dịch các chủ thể đều nhằm mục đích nhất định

thỏa mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc sinh hoạt, tiêu dùng. Đe đạt được
mục đích đó thi các chú thể phải thể hiện ý chí cùa bản thân mình. Ý chí phải

được thể hiện ra bên ngồi bằng một hình thức nhất định để các chủ thế khác
có thể biết được nguyện vọng mong muốn tham gia giao dịch của chủ thể đó.

Bởi vậy, giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Khi tham gia
giao dịch dân sự các chủ thế đều thể hiện được ý chí của mình và mong muốn

đạt mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
Tuy nhiên, ý chí cùa chủ thể phải gắn liền với nội dung và hình thức biểu

đạt. Hành vi có ý chí nhung khơng làm phát sinh hậu quả pháp lý, khơng được

diễn ra một hình thức nhất định phù hợp với quy định cùa pháp luật thì hành
vi đó khơng được coi là giao dịch dân sự. Và khơng phải mọi ý chí, nguyện

vọng của các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự đều được pháp luật chấp

nhận.
Quan điểm về tự do ý chí trong giao dịch được hình thành và phát triển

mạnh mẽ trong khoa học pháp lý của Pháp từ thế kỷ XVIII. Theo đó, cá nhân
chỉ có thể bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình, được tun bố một cách trực
tiếp thông qua các hợp đồng hoặc gián tiếp thông qua pháp luật, theo đó pháp
luật thể hiện ý chí chung của các cá nhân trong xã hội nên quy định của pháp


luật có giá trị thúc buộc chung mà các cá nhân gián tiếp ưng thuận. Trong giai

đoạn này, các chủ thể được tự do bày tỏ ý chí khi tham gia vào giao dịch mà

10


không bị bât kỳ yêu tô nào ngăn cản. Từ đó nảy sinh những trường hợp khi
tham gia giao dịch để thỏa mãn nhu cầu của mình các chủ thể đã bất chấp vi

phạm lợi ích của cá nhân khác hoặc lợi ích của cộng đồng, do đó ngun tắc
độc tơn về ý chí chỉ mang tính hình thức, các giao dịch khơng cịn có ý nghĩa
với mục đích thỏa mãn nhu cầu của mình nữa. Cùng với sự phát triển của xã

hội và đảm bảo sự cơng bằng, bình đẳng giữa các chủ thề trong xã hội thì Nhà

nước phải có sự can thiệp vào quan hệ giao dịch dân sự bằng công cụ pháp

luật và đưa ra những giới hạn về tự do ý chí như hạn chế tự do giao kết hợp

đồng, hạn chế tự do không giao kết hợp đồng, hạn chế tự do ấn định các nội
dung của họp đồng. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với giao dịch dân sự

không chỉ tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể mà cịn góp phần bảo vệ trật tự
xã hội, đạo đức xã hội. Vì vậy, tuy giao dịch dân sự phải thể hiện ý chí cùa
các bên tham gia giao dịch nhưng ý chí này cần phải phù hợp với pháp luật và

đạo đức xã hội.
/. 1.2.2. Sự tự nguyện của các hên tham gia giao dịch dân sự


Đây là đặc điểm quan trọng để thiết lập nên một giao dịch dân sự. Khi
các chủ thể mong muốn đạt được một nhu cầu vật chất hoặc tinh thần nhất

định, họ sẽ tự nguyện tham gia vào một giao dịch dân sự đế đạt được điều đó.

Tuy nhiên, để tham vào các giao dịch dân sự đó thì chủ thế cũng phải có năng
lực hành vi dân sự theo luật định. Đối với những người hạn chế năng lực hành
vi dân sự và người mất năng lực hành vi dân sự chỉ được tham gia một số giao
dịch nhất định hoặc thông qua người đại diện và không bị xem là vi phạm sự

tự nguyện. Quy định này nhằm đảm bảo tính cơng bằng và sự tự nguyện của
các chủ thể này. Bởi lẽ, nhũng chủ thể này không nhận thức hoặc làm chủ

được hành vi của mình, khơng nhận thức đúng đắn về một vấn đề phức tạp, từ
đó nếu để các chủ thể này tham gia vào tất cả các loại giao dịch thì họ sẽ dễ bị

thiệt thịi hơn trong quan hệ dân sự.

11


Sự tự nguyện cũng là nguyên tăc cơ bản cùa quan hệ pháp luật dân sự.

Trong quan hệ dân sự, các bên hồn tồn tự nguyện, khơng bên nào được áp
đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Do vậy, trong các giao
dịch dân sự nếu thiếu yếu tố này không thể coi là giao dịch được. Tuy nhiên,
trong thực tiễn sự tự nguyện này mang tính tương đối. Trong một số loại giao

dịch thì chủ thề sử dụng dịch vụ khơng có sự lựa chọn nào khác và buộc phải
lựa chọn một chủ thể cung cấp dịch vụ nhất định. Điều này thường xảy ra đối

với những dịch vụ độc quyền của nhà nước, bên cung ứng dịch vụ đã soạn sẵn

những điều khoản cùa họp đồng (họp đồng mẫu). Khách hàng thể hiện sự

chấp thuận của mình qua việc ký kết hợp đồng mà khơng được thay đổi hay
sửa đổi hoặc thỏa thuận sửa đổi bất kỳ một điều khoản nào của họp đồng do
bên cung cấp đã soạn sằn. Xét về mặt khách quan thì ý chí chung của giáo

dịch được thể hiện vì cả bên cung ứng dịch vụ và bên nhận dịch vụ đều mong
muốn tham gia vào giao dịch này, không có sự cưỡng ép. Tuy nhiên, bên nhận

dịch vụ tham gia vào giao dịch lại miễn cưỡng vì khơng cịn sự lựa chọn nào

khác.
1.1.2.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều
cẩm của luật và không trải đạo đức xã hội

Bên cạnh yếu tố ý chí và tự nguyện thì của các chù thể tham gia giao
dịch cũng phải tuân theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Pháp luật
ớ đây được hiểu là quy tắc xử xự chung có tính bắt buộc chung đối với công

dân. Đạo đức xã hội là những chuấn mực ứng xử chung giữa người với người

trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tơn trọng. Các chủ thể có
thể tự do bày tỏ ý chí và giao kết với nhau khơng vi phạm điều cấm của luật.

Tuy nhiên, đế xác định nội dung của giao dịch dân sự trái luật hay không
dễ dàng hơn việc xác định nội dung giao dịch trái với đạo đức xã hội rất

nhiều. Thuật ngữ đạo đức xã hội đã được các nhà làm luật định nghĩa rõ ràng


12


tại Điều 123 BLDS 2015 nhưng trong thực tiễn quan niệm đạo đức xã hội lại
rất dễ gây tranh cãi. Mồi một quốc gia, dân tộc, mỗi thời kỳ và mồi con người

lại có những quan niệm đạo đức khác nhau.
Pháp luật ngoài việc tạo điều kiện để cho các giao kết trở thành hiện
thực, còn phải đặt ra những quy phạm pháp luật bảo vệ lợi ích chung của xã
hội, trong đó có lợi Ích của chính các chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, Điều

117 BLDS 2015 đã quy định: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự

không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” [1, điểm c,
Điều 117] là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự để

đảm bảo ý nghĩa của điều luật này được thực thi trong thực tiễn thì các nhà

làm luật cần quy định rõ hơn về khái niệm đạo đức xã hội.
Tóm lại, ý chí và sự tự nguyện của chủ thể đảm bảo cho giao dịch thể
hiện đúng ý chí cùa các bên tham gia; nội dung khơng vi phạm điều cấm của
luật và không trái đạo đức xã hội đe đảm bảo cho một giao dịch hợp pháp,

được pháp luật công nhận đây là những yếu tố quan trọng góp phần tạo nên
một giao dịch dân sự họp pháp.

Bên cạnh đó, thơng qua khái niệm và đặc điểm cùa giao dịch dân sự
cũng giúp nhận thấy được một số ý nghĩa quan trọng cùa chế định giao dịch
dân sự trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, việc xây dựng


chế định giao dịch là cơng cụ pháp lý quan trọng bảo đảm an tồn cho các chủ

thể khi tham gia giao dịch trong xã hội hiện nay. Các chủ thế có quyền tự do
giao kết, tự nguyện tham giao dịch nhưng sự tự do này bị giới hạn trong

khuôn khổ của pháp luật. Các quy định về điều kiện để các chủ thể tham gia
giao dịch; quy định về biện pháp chế tài đối với các giao dịch khơng tn theo
các điều kiện
• có hiệu
• lực
• của giao dịch dân sự... là cơng cụ• bảo vệ• trật
• tự•

cơng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia giao dịch.

Thứ hai, chế định giao dịch đảm bảo cho việc quản lý của nhà nước đối với

13


quan hệ giao dịch dân sự, góp phân ơn định trật tự xã hội. Với những ý nghĩa
nêu trên giao dịch dân sự chiếm một vị trí khá quan trọng trong hệ thống pháp

luật của nước ta từ xưa đến nay.
1.2. Hình thức giao dịch dân sự
1.2.1. Khái niệm

Hình thức là phương tiện biểu đạt nội dung, nếu nội dung khơng được


thể hiện bằng một hình thức nhất định thì nội dung mãi chỉ là ý chí, mong
muốn trong tiềm thức của con người. Với đặc điểm như vậy hình thức có một

ý nghĩa khá quan trọng trong thế giới khách quan. Theo Vũ Văn Mau, vai trị
của hình thức hợp đồng có thể tóm tắt trong bốn điểm: (i) các hình thức trọng

thể được ấn định cho một số hành vi quan trọng, cốt để các đương sự chú
trọng đặc biệt việc mình sắp làm; (ii) các hình thức chứng cứ để dẫn chứng

trước pháp luật (luật tố tụng trong trường hợp này chỉ chấp nhận hai cách dẫn

chứng: “chứng thư hợp đồng’’ và “sự thú nhận của đương sự”); (iii) các hình
thức cấp-tư-năng nhằm đảm bảo quyền định đoạt của những người chưa hồn

tồn có tư cách chủ thể độc lập để tự mình xác lập các giao dịch dân sự (ví dụ

người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện
các giao dịch liên quan đến tài sản của mình); (iv) các hình thức cơng bố
trong trường họp có liên quan đến người thứ ba [18].

Yếu tố cơ bản để tạo ra giao dịch dân sự là ý chí cúa các chủ thể, sự thể
hiện ý chí ra bên ngồi và sự thống nhất giữa các yếu tố đó với nhau. Ý chí là

nguyện vọng và mong muốn chủ quan bên trong của con người mà nội dung
của nó được xác định bởi nhu cầu nhất định của họ, không phải lúc nào người

khác cũng có thể biết được. Vì vậy, ý chí cần phải được biếu đạt ra bên ngồi,
để các bên có thể biết được và chấp nhận ý chí của nhau. Khi các bên đã
thống nhất ỷ chí với nhau và biểu đạt sự thống nhất ra bên ngồi thì đây được


coi là hình thức của giao dịch dân sự.

14


Hình thức của giao dịch dân sự có vai trị là sự cơng bơ ỷ chí của chủ thê
tham gia giao dịch, là cách thức để truyền đạt thông tin với chủ thể không
tham gia về sự xác lập giao dịch, là cơ sở để tạo nên chứng cứ khi có tranh

chấp và góp phần đảm bào an tồn trong giao lưu dân sự. Dưới bất kỳ dạng
nào, hình thức của hợp đồng đều mang chức năng vô cùng quan trọng: chức

năng lưu giữ thông tin. Chức năng này được biểu hiện dưới hai góc độ là khả
năng ghi nhớ và khả năng tái hiện. Con người - thông qua giác quan có khả

năng ghi nhớ những nội dung giao dịch đã được xác lập. Sự ghi nhớ này
không chỉ nhằm mục đích giúp nhận biết được một sự việc đã diễn ra mà quan
trọng hơn, nỏ giúp người ta có thể tái hiện lại sự việc đó. Mặc dù việc giao kết

giao dịch dân sự xuất phát vào từng nhu cầu của các chủ thế nhưng không loại

trừ khả năng nó khơng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Khả năng tái
hiện này nhằm mục đích đề phịng sự gian trá của bất kỳ bên nào trong quá
trình thực hiện giao dịch dân sự. Tuy nhiên, không phải bất kỳ hình thức lưu
giữ thơng tin nào cũng có khả năng tái hiện lại sự việc như nhau. Khả năng

lưu giữ thơng tin càng chắc chắn thì khả năng tái hiện, phản ánh lại thơng tin
lại càng chính xác so với thơng tin ban đầu. Vì vậy khơng phải ngẫu nhiên mà

với những giao dịch có giá trị cao hay việc thực hiện hợp đồng kéo dài người


ta thường lựa chọn hình thức văn bản. Bằng việc thể hiện dưới một hình thức
nhất định, giao dịch dân sự được khẳng định là đã được thiết lập và nó có giá

trị thực hiện đối với các bên.






Hình thức giao dịch dân sự có thể là phương tiện thế hiện nội dung của
giao dịch dưới một dạng vật chất nhất định như: nói, viết, hành vi cụ thể hoặc

có the là những thủ tục, cách thức tạo nên giao dịch theo quy định của pháp

luật.

Tuy nhiên, càn phân biệt hình thức giao dịch dân sự với ý nghĩa là
phương tiện biểu hiện ra bên ngoài nội dung giao dịch với các phương tiện

15


trao đôi thông tin khác. Giao dịch dân sự là một q trình trao đơi thơng tin

mà trong q trình đó mà người ta phải sử dụng phương tiện trao đổi thơng
tin. Nói phương tiện trao đổi thơng tin là muốn nói đến cách thúc truyền tải
thơng tin như bằng miệng, bằng hành vi, bằng chữ viết hay bằng các dạng trao


đối hiện đại khác như điện thoại hay điện tín... Bản thân q trình trao đổi
thơng tin này chưa được coi là hình thức của giao dịch dân sự bới nó chỉ phản
ánh ý chí của từng bên.

Như vậy, hình thức giao dịch dân sự có thế được định nghĩa: “Hình thức

giao dịch dân sự là phương tiện biêu hiện ra bên ngoài của nội dung giao
dịch dân sự
1.2.2. Mối liên hệ• giữa
hình thức và điều kiện
dịch
O
• có hiệu
• lực
• của giao
O
• dân
sự

Hình thức giao dịch được quy định trong pháp luật của hầu hết các quốc

gia. Nhưng cách thể hiện và sự thừa nhận yếu tổ này trong pháp luật của các

nước lại không giống nhau và được tiếp cận ở hai khuynh hướng.
Khuynh hướng thứ nhất, một số nước quy định hình thức nhất định cho

một số loại giao dịch, nếu vi phạm quy định này thì giao dịch đó vơ hiệu. Tiêu
biểu cho xu hướng này là: Đức, Thái Lan... Theo Điều 115 Bộ luật dân sự và
thương mại Thái Lan năm 1995 thì: “Một hành vi pháp lý khơng theo đủng
hình thức quy định của pháp luật thì vơ hiệu


Hình thức của giao dịch được

xem là cơ sở để tạo nên chứng cứ khi có tranh chấp về giao dịch dân sự. Đồng
thời, cũng là để bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùa người dân. Tại pháp

luật dân sự của các quốc gia này, hình thức là một yếu tố quan trọng và được
các nhà làm luật xây dựng khá tỉ mỉ và chặt chẽ.

Khuynh hướng thứ hai, một số quốc gia có quy định về hình thức của
giao dịch nhung yếu tố hình thức khơng được coi là một điều kiện để xác định
hiệu lực của giao dịch dân sự. Đại diện cho khuynh hướng này là: Pháp, Nhật

16


Bản...Theo pháp luật Nhật Bản đã quy định: "Mặc dù nhà nước yêu câu tuân

thủ hình thức đặc biệt, thì giao dịch pháp lý vẫn hồn tồn có đặc diêm khơng
theo một hình thức bắt buộc nào ”[45, tr.l 18]. Đồng thời với đó nguyên tắc tự
do giao dịch dân sự trong pháp luật Nhật Bản thừa nhận cả việc tự do lựa

chọn hình thức giao kết. Cách quy định này có ưu điểm tạo ra khung pháp luật

mở cho các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình thức giao dịch
nhất định. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì với một số giao

dịch dân sự có giá trị lớn, việc khơng tn thủ theo hình thức mà pháp luật
quy định sẽ khiến các chủ thể khơng có chứng cứ đủ điều kiện pháp lý để


chứng minh trước tịa. Vì vậy, trong thực tiễn khi tham gia các giao dịch quan
trọng, có giá trị tài sản lớn các chủ thể thông thường đều chọn hình thức giao

dịch bằng văn bản hoặc cẩn trọng hon là văn bản có cơng chứng để bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của mình. BLDS Pháp cũng khơng coi hình thức là
điều kiện chủ yếu để xác định một hợp đồng có hiệu lực. Điều 1108 Bộ luật
dân sự Pháp có quy định về bốn điều kiện cần thiết để hợp đồng có hiệu lực

như sau: Có sự thỏa thuận của các bên cam kết; có nãng lực giao kết họp
đồng; sự cam kết có đối tượng xác thực; nghĩa vụ có căn cứ hợp pháp. Trong
BLDS Pháp khơng có quy định nào về việc họp đồng dân sự khơng tn thủ
quy định về hình thức sẽ bị vơ hiệu. Cách quy định này có un điểm tạo ra

khung pháp luật mở cho các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình
thức giao dịch nhất định. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì

với một số giao dịch dân sự có giá trị lớn, việc khơng tn thủ theo hình thức

mà pháp luật quy định sẽ khiến các chủ thể khơng có chứng cứ đủ điều kiện
pháp lý đe chứng minh trước tòa. Vì vậy, trong thực tiễn khi tham gia các
giao dịch quan trọng, có giá trị tài sản lớn các chủ thể thơng thường đều chọn

hình thức giao dịch bằng văn bản hoặc cẩn trọng hon là văn bản có cơng

chứng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

17



ơ Việt Nam, Điêu 119 BLDS 2015 quy định vê hình thức của giao dịch
dân sự như sau: “Giao dịch dân sự được thê hiện bằng lịi nói, bằng vãn bản
hay hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dãn sự thơng qua phương tiện điện

tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch
điện tử được coi là là giao dịch bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao
dịch dãn sự phải được thê hiện bằng vãn bản có cơng chứng, chứng thực,

đăng ký thì phải tuân thủ theo quy định đó ”. Theo quy định này thì một số

loại giao dịch đơn thuần, chủ thể tham gia có thể lựa chọn bất kỳ hình thức
giao dịch nào. Nhưng những giao dịch dân sự đặc biệt và có giá trị lớn thì nhà

nước quy định giao dịch đó phải tn thủ một hình thức nhất định nhằm để
nhà nước kiếm sốt sự chuyển dịch tài sản trong xã hội và đảm bảo trật tự

kinh tế thị trường.

Tác giả cho rằng quy định về hình thức giao dịch dân sự tại BLDS 2015
là khá phù hợp. Các nhà làm luật đã quan tâm đến hình thức mới của giao
dịch dân sự trong thời kỳ hiện đại như: Hình thức thơng điệp dữ liệu (telex,

fax...), tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia giao dịch tự do lựa chọn hình
thức giao dịch phù hợp với mình, một số giao dịch nhất định vẫn phải tuân

theo hình thức luật định. Đối với những giao dịch quy định hình thức là điều
kiện bắt buộc thì hình thức cũng là một trong những yếu tố để xác định hiệu

lực của giao dịch đó. Việc quy định này đã gây ra nhiều bất cập và vướng mắc
khi áp dụng trong thực tiễn. Tại nhiều nước trên thế giới vẫn có những quy


định
• bắt buộc
• về mặt
• hình thức đối với một
• số loại
• giao dịch
• như Việt
• Nam
nhưng ý nghĩa của việc quy định đó là nhằm minh bạch hóa giao dịch (đảm

bảo quyền lợi của người thứ ba) hoặc mục tiêu quản lý hành chính (quản lý,
thống kê của cơ quan nhà nước) và mục tiêu để hình thức được xác định là

điều kiện có hiệu lực của giao dịch chi quy định trong nhũng trường hợp rất
đặc biệt. Tác giả đồng tình với quan điểm này và thấy rằng các nhà làm luật

18


có thê kê thừa, xây dựng quy định vê hình thức giao dịch dân sự theo kinh

nghiệm trên.
Mặt khác, giao dịch dân sự sẽ khơng bị vơ hiệu bởi hình thức trừ một số
trường hợp yêu cầu hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.

Đối với quan hệ dân sự nói chung và quan hệ giao dịch nói riêng, quan trọng
nhất là ý chí của chủ thể vào thời điểm xác lập giao dịch có tự nguyện hay
khơng tự nguyện, chủ thế có đáp ứng được yêu cầu về chủ thể trong từng loại
giao dịch không và nội dung của giao dịch do các bên thỏa thuận có vi phạm

các điều cấm của pháp luật hay khơng. Những điều kiện về chủ thể, ý chí của

chủ thể, mục đích và nội dung cần xác định để xác định một giao dịch dân sự
có hiệu lực hay không.

Tuy nhiên, quy định ờ khoản 2 điều 117 BLDS về hình thức của giao
dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có

quy định. Quy định này đã để mở và tạo điều kiện thuận lợi cho các bên chủ

thế tham gia giao dịch dân sự thực hiện đầy đủ các quyền dân sự của mình.
Trên thực tể có những giao dịch hịa tồn phản ánh trung thực và khách quan

ỷ chí tự nguyện của các bên, nhưng các bên lại khơng tn thủ các quy định
về hình thức nào đó mà giao dịch bị tuyên vô hiệu. Quy định về hình thức của
giao dịch dân sự khơng rõ ràng là cơ hội cho những chủ thể không trung thực

lạm dụng để hủy một giao dịch dân sự bất lợi cho mình hoặc dựa vào đó để

mang lại những lợi ích vật chất có lợi cho mình mà gây thiệt hại cho người
khác. Vì vậy, khoản 2 Điều 117 BLDS là một quy định không cứng nhắc và

chỉ áp dụng trong một số trường hợp cụ thể.
1.3. Hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật Việt Nam qua các thòi kỳ

1.3.1. Hình thức giao dịch dân sự trong các đạo luật phong kiến Việt Nam

Giao dịch dân sự đã phát sinh từ khi con người biết trao đổi hàng hỏa
nhưng trong trong các đạo luật phong kiến Việt Nam đều khơng có khái niệm


19


giao dịch dân sự. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học pháp lý, vê bản chât giao

dịch dân sự đã được thể hiện ở các khái niệm như: khế ước, mua, bán, cho,

cầm... và vấn đề thừa kế theo di chúc. Vi vậy, để có thể tìm hiểu rõ hơn các
quy định về hình thức của giao dịch dân sự trong thời đại phong kiến, tác giả
sẽ phân tích một số bộ luật tiêu biểu cho thời kỳ lịch sử này.
triêu hình luật

Qc triêu hình luật là bộ luật hình chính thức và quan trọng nhât của
triêu đại nhà Lê (1428-1788). Hình thức của các giao dịch được quy định
trong Quốc triều hình luật khá chi tiết. Những giao dịch đơn giản trong cuộc

sổng hàng ngày như mua bán tài sản có giá trị thấp, ít quan trọng: mua bán
thực phẩm với sổ lượng ít; mua bán lương thực với sổ lượng ít... thì khơng

cần lập văn tự. Người mua và người bán có thể tự do thỏa thuận mua bán
bằng lời nói. Đối với những giao dịch với giá trị tài săn lớn như: mua bán đất,

nhà, ruộng, vườn... Quốc triều hình luật đã quy định rõ ràng về hình thức là
phải lập thành văn tự do quan trưởng làng viết và làm chứng. Bộ luật Quốc

triều hình luật đã có những quy định: “Lổn tự là bằng chứng đê chứng minh
khi xảy ra tranh chấp" (Điều 366) được coi là điềm khá tiến bộ. Tuy nhiên,
Bộ luật lại chỉ quy định văn tự lập một bản và do một bên giữ, luật pháp chưa

dự liệu được các trường hợp văn tự có thể bị mất, hỏng hoặc một bên cố tình

hủy đi văn tự. Khi đó việc chứng minh và bảo vệ quyên lợi hợp pháp cho các
chủ thể tham gia giao dịch sẽ rất khó khăn.

Trong xã hội phong kiên sô người dân biêt chừ không nhiêu, do vậy bộ
luật cũng đã quy định đối với người giao kết giao dịch khơng biết chữ thì có

thể nhờ người viết thay. Và việc viết thay văn tự phải có người chứng kiến đế
đàm bảo khách quan, đúng nội dung đã thỏa thuận. Những người viêt thay
phải ký vào văn tự. Người viêt hộ văn tự hoặc làm chúng mà có hành vi gian

dối, giả mạo văn tự thì bị trừng phạt nặng. Việc Quốc triều hình luật khá chú

20


trọng đên vân đê này cho thây sự khoa học, tiên bộ cua trình độ lập pháp thời

Lê khi bảo vệ sự công bằng cho người không biết chữ. Vi phạm về mặt hình
thức của giao dịch các chủ thể phái gánh chịu chế tài khá nghiêm ngặt ngồi

sự vơ hiệu của giao dịch dân sự chế tài còn mang bản chất của chế độ phong
kiến nặng tính trừng phạt của luật hình nên cịn bao gồm cả hình phạt đánh và

phạt tiền (Điều 266 Quốc triều hình luật có quy định: “Những người làm chúc
thư hay văn khế mà không nhờ các quan trưởng trong làng viết thay và chứng

kiến thỉ phải phạt 80 trượng và phạt tiền tùy theo việc nặng nhẹ. Chúc thư hay
văn khế ấy sẽ khơng có giả trị. Neu biết chữ mà viết lẩy thì được ”).

Khơng chỉ chú trọng vào mặt hình thức của giao dịch dân sự, Quốc triều

hình luật cịn quy định một số giao dịch phải tuân theo một trình tự nhất định,

ví dụ: "Việc mua nơ tỳ phải lập thành vãn tự. Sau đó phải trình quan đế xét
hỏi lại" (Điều 363). Việc quy định trình tự giao dịch như trên giúp cho nhà

nước phong kiến có thể kiểm soát hầu hết các giao dịch lớn liên quan đến tài
sản của người dân. Đồng thời nó cũng thế hiện hình thức quản lý của bộ máy
nhà nước thời kỳ nhà Lê.

1.3.1.2. Bộ luật Gia Long
Bộ luật Gia Long được ban hành vào năm 1813 dưới thời nhà Nguyễn và

được đánh giá là một bộ luật đày đủ và hoàn chỉnh nhất của chế độ phong
kiến Việt Nam. Bộ luật gồm 398 điều, trong đó về việc dân có 11 điều; ruộng,

nhà có 10 điều; về hơn nhân có 16 điều; cho vay tiền có 3 điều. Bộ luật cũng
khơng có khái niệm về giao dịch, chỉ nêu các loại khế ước chung như: mua,

bán, cho thuê, cho vay... và chế định về thừa kế.

Các chủ thể có thể lựa chọn hình thức của khế ước. Cũng giống như
Quốc triều hình luật, đối với những vật có giá trị như ruộng, đất, trâu, bò, nhà

ở... hoặc một số tiền lớn thì các bên thường lập thành một văn khế để làm
bằng chứng và do người trái chủ giữ. Với những vay nợ đơn thuần, hình thức

21


của khê ước có thê chỉ là vay miệng (băng lời nói), khơng làm giây tờ, nêu sơ


tiền hoặc số thóc cho vay khơng lớn, đặc biệt là vay ngắn hạn. Bộ luật Gia
Long khơng có một điều nào quy định về hình thức của khế ước.
1.3.2. Hình thức giao dịch dân sự trong pháp luật thời Pháp thuộc

Người Pháp nố súng xâm lược nước ta vào năm 1858. Sau khi áp đặt

thành công sự đô hộ lên Việt Nam, Pháp đã ban hành ba BLDS áp dụng cho
ba miền của Việt Nam là: Bộ luật giản yếu Nam Kỳ (ban hành năm 1883), Bộ
luật bắc Kỳ (ban hành năm 1931), Bộ luật Hoàng Việt Trung Kỳ (ban hành

năm 1936). Pháp luật dân sự trong thời kỳ này khơng có quy định riêng rẽ về

mặt hình thức của khế ước. Tuy nhiên, đối với một số loại khế ước thì các nhà

làm luật vẫn quy định những hình thức nhất định cho loại giao dịch cụ thề đó.
Điều 951 của Bộ luật Hoàng Việt Trung kỳ quy định về Khể ước sinh
thời tặng dữ như sau: “Sinh thời tặng dữ là một loại khế ước do bên chủ bỏ
dứt ngay một tài sản gì đê cho bên người thu tặng nhận lấy”. Như vậy, Bộ
luật Hoàng Việt Trung kỳ đã có sự phân biệt hình thức của khế ước tặng dữ

giữa bất động sản và động sản. Đối với bất động sản phải lập thành văn bản

có viên chức thị thực trước mặt người thụ tặng và người này phải đồng ý mới
có hiệu lực. Đối với việc tặng dừ vật là động sản hoặc tiền bạc khơng địi hởi
phải có hình thức nhất định, bởi vì có thể trao tay vật mà khơng cần lập văn

bản. Có thể thấy quy định này rất gần đối với những quy định của Bộ luật dân

sự hiện hành về việc trao tặng bất động sản. Bất động sản là vật có giá trị lớn

nên việc có sự làm chứng của viên chức thời bấy giờ hay công chứng viên

thời này giúp đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia giao dịch. Đồng
thời, cũng thế hiện sự quản lý cùa nhà nước đối với tài nguyên bất động sản

của nước ta.

Các quy định về thừa kế được ghi nhận trong các bộ luật Bắc kỳ và
Hoàng Việt Trung kỳ. Bộ luật Hồng Việt Trung kỳ quy định về hình thức

22


×