Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Giám định tư pháp trong tố tụng dân sự (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.63 MB, 87 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận vãn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các sổ liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ luận vãn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Hiên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1

1 .Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn............................................. 4
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn............................................................ 4
3.2. Nhiệm vụ................................................................................................... 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn........................................... 5

4.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn.............................. 5
5.1. Cơ sở lý luận.............................................................................................. 5

5.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn................................................. 6
7. Kết cấu của luận văn..................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP

TRONG TỐ TỤNG DÂN sự........................................................................... 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm giám định tư pháp trong tố tụng dân sự.................. 8

1.1.1. Khái niệm giám định tư pháp trong tố tụng dân sự............................... 8

1.1.2. Đặc điểm của giám định tư pháp trong tố tụng dân sự......................... 11
1.2. Ý nghĩa của giám định tư pháp trong tố tụng dân sự.............................. 13

1.3. Phân loại giám định tư pháp trong tố tụng dân sự.................................. 15

1.3.1 Giám định theo quyết định trưng cầu của tòa án và giám định theo yêu
cầu của đương sự............................................................................................. 15

1.3.2. Giám định lần đầu, giám định bố sung, giám định lại.......................... 15

1.3.3. Giám định cá nhân và giám định tập thể............................................... 16
1.3.4. Giám định chuyên khoa, giám định tổng hợp....................................... 17
1.3.5. Các loại giám định theo từng lĩnh vực chuyên môn............................. 17


1.4. Các điêu kiện bảo đảm hoạt động giám định tư pháp trong tô tụng dân sự


........................................................................................................................ 20

1.4.1. Các quy định của pháp luật về bảo đảm hoạt động giám định tư pháp
trong tố tụng dân sự........................................................................................ 21

1.4.2. Trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ Giám định viên tư
pháp................................................................................................................ 23

1.4.3. Trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự và khả năng trợ giúp thực tế
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự............................ 25

1.4.4. Cơ sở vật chất, các cơ chế bảo vệ để bảo đảm cho hoạt động giám định
tư pháp trong tố tụng dân sự............................................................................ 26

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 29
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THựC TIỄN

GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN sự................................ 30
\

r

2.1. Thực trạng pháp luật hiện hành vê giám định tư pháp trong tô tụng dân sự

......................................................................................................................... 30

2.1.1. Chủ thể trong hoạt động giám định tư pháp........................................ 30
2.1.2. Trình tự, thủ tục trưng cầu, yêu cầu giám định tư pháp....................... 35
2.2. Ưu điểm, nguyên nhân ưu điểm của giám định tư pháp trong tố tụng dân


sự.................................................................................................................... 38
2.3. Hạn chế, nguyên nhân hạn chế của hoạt động giám định tư pháp trong tố

tụng dân sự..................................................................................................... 41

2.3.1. Hạn chế, khó khăn của giám định tư pháp trong tố tụng dân sự......... 41
2.3.2. Nguyên nhân hạn chế của hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng

dân sự............................................................................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................... 57

CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN

Sự.................................................................................................................... 59


3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng
dân sự.............................................................................................................. 59

3.1.1. Cơ sở và yêu cầu về lập pháp................................................................ 59
3.1.2. Cơ sở và yêu cầu về thực tiễn............................................................... 60

3.2. Hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự......... 61
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự..................................................... 61
3.2.2. Hoàn thiện Luật giám định tư pháp...................................................... 69

3.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác giám định tư pháp trong tố tụng
dân sự.............................................................................................................. 72


3.3.1. Nâng cao nhận thức và năng lực của các chủ thể về giám định tư pháp
trong tố tụng dân sự........................................................................................ 72

3.3.2. Củng cố và xây dựng đội ngũ giám định viên tư pháp đủ về số lượng,
chắc về nghiệp vụ........................................................................................... 73

3.3.3. Tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ giám định tư
pháp cho các tổ chức giám định...................................................................... 74

3.3.4. Thực hiện xã hội hóa giám định tư pháp trong một số lĩnh vực của tố
tụng dân sự...................................................................................................... 74

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................ 77
KẾT LUẬN..................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 80


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT

TÊN VIẾT TẮT

BLDS
BLTTDS

TÊN ĐÀY ĐỦ

Bơ• lt
• Dân sư•
Bộ luật Tố tụng dân sự


TTDS

Tố tụng dân sự

TAND

Tịa án nhân dân

VADS

Vu• án dân sư•

VKS

Viên
• kiểm sát

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

GĐTP

Giám định tư pháp

KLGĐ

Kết luận giám định


GĐV

Giám đinh
• viên

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

TCGĐ

Trưng cầu giám định


MỞ ĐÀU
l.
Tính
câp thiêt của đê tài
Trong những năm qua, thực hiện nghị quyết của Đảng, các nghị quyết của
Bộ chính trị như Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 2/1/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48 - NQ/TW
ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cãi cách tư
pháp đến năm 2020, công cuộc cải cách tư pháp được thực hiện với quyết tâm
cao, cơng tác xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật có những tiến bộ
quan trọng, Một trong những nội dung cơ bản của công tác cải cách tư pháp
là: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tồ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định tịa án có vị trí trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bồ trợ tư
pháp”, [3], Công tác giám định tư pháp là một trong các hoạt động bổ trợ tư

pháp, xuất hiện và tồn tại do nhu cầu của hoạt động tố tụng, có ý nghĩa đặc
biệt và khơng thể thiếu trong bất kỳ nền tư pháp nào. Để tiếp tục hoàn thiện
the chế về giám định tư pháp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám định tư pháp, bảo
đảm đáp ứng tốt hơn nữa yêu cầu giám định của hoạt động tố tụng dân sự, Bộ
luật TTDS năm 2015 đã được quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam khóa IX sửa đổi và một trong những sứa đổi của Bộ Luật TTDS đó
là các quy định về giám định tư pháp trong TTDS.

Trong thời đại 4.0, khi đất nước ta đang mớ cửa hội nhập quốc tế, ứng
dụng các thành tựu nổi bật của khoa học công nghệ hiện đại vào công cuộc
phát triển đất nước, cùng với sự phát triển của xã hội dân sự, các tranh chấp
cũng như các vi phạm trong các giao dịch dân sự cũng ngày càng lớn và phát
triển phức tạp, từ đó làm phát sinh nhu cầu giám định tư pháp, nhất là giám
định trong tố tụng dân sự trở lên cấp bách hơn lúc nào hết. Trong nhiều vụ
việc dân sự, để làm sáng tỏ một số tình tiết nhất định địi hỏi phài sử dụng
những kiến thức chun mơn cần thiết với sự hồ trợ của giám định viên. Ket
luận
của giám định
viên là một
kết luận
khoa học
về chun
mơn được
thể
*





J

hiện dưới hình thức một văn bản viết hoặc được trình bày tại phiên tòa, được
đưa ra sau khi đã nghiên cứu những vấn đề cần vận dụng kiến thức chuyên
môn trả lời cho những yêu cầu do Tòa án trưng cầu. Trong trường hợp việc
đánh giá chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác định
chữ viết, chừ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác định nguyên nhân
gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN... và theo sự thỏa thuận lựa chọn
1


của các bên đương sự hoặc có yêu câu của đương sự vê việc trưng câu giám
định, Tòa án cần phải trưng cầu giám định khoa học để làm căn cứ giải quyết
vụ án.
Từ thực tế trên, cần nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc các quy định
về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự cả về phương diện lý luận, lập pháp
và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật,
nâng cao hiệu quả của công tác giám định trong hoạt động TTDS là một việc
làm cấp thiết. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Giám định tư pháp trong tố
tụng dân sự” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2.
Tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ớ Việt Nam thời gian qua, vấn đề giám định tư pháp trong q trình giải
quyết các vụ án nói chung và các vụ án dân sự nói riêng đang là vấn đề thu
hút sự quan tâm của nhiều cơ quan, ban ngành. Sau khi Luật giám định tư
pháp và Bộ luật TTDS có hiệu lực, cũng đã có một vài cơng trình nghiên cứu
về hoạt động giám định tư pháp trong TTDS nhung các cơng trình này mới
chỉ đề cập đến một nội dung cụ thể nào đó của hoạt động giám định tư pháp
hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về hoạt động giám định tư pháp với tư

cách là một hoạt động thu thập chứng cứ quan trọng của quá trình chứng minh
như trong các giáo trình: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố
tụng dân sự Việt Nam; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình
Luật tố tụng dân sự Việt Nam; Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng
Dân sự và giáo trình của một số cơ sở đào tạo khác cũng có những phần viết
về hoạt động giám định nhung chưa nhiều và chỉ là một tiếu mục khiêm tốn
cùa các chương viết về chứng cứ, chứng minh.

Nghiên cứu về hoạt động giám định tư pháp trên một số lình vực cụ thể có
các đề tài:

Luận văn thạc sĩ “Giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn, bảo
vệ năm 2017 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên cứu
các vấn đề liên quan đến hoạt động giám định tư pháp trong quá trình giải
quyết các vụ án về tham nhũng trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015.
Kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
giám định tư pháp đối với các tội phạm về tham nhũng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự;
Luận văn thạc sĩ “Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự (trên cơ sờ số
liệu thực tiền địa bàn thành phố Hà Nội)” của tác giả Lê Thị Nguyệt Ánh, bảo
2


vệ năm 2015 tại Khoa Luật, Đại học Quôc gia Hà Nội. Luận văn đã nghiên
cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giám định tư pháp, phản
ánh thực trạng sinh động về giám định tư pháp trong 05 năm (2010 - 2014)
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó chỉ ra những hạn chế, bất cập của hoạt
động này trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự và kiến nghị hồn
thiện;

Luận văn thạc sĩ “Trưng cầu giám định trong quá trình chứng minh vụ án
hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Đức,
bào vệ năm 2017 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn nghiên
cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về trưng cầu giám định trong quá trình
chứng minh vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự về trung cầu giám định từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa.

Các cơng trình nghiên cứu kể trên đều là những cơng trình nghiên cứu về
hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng hình sự.

Ngồi ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về một
nội dung nào đó của hoạt động giám định tư pháp hoặc bình luận về các vụ
việc liên quan đến hoạt động giám định tư pháp, chẳng hạn như:
- Bài viết “thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
giám định hồ trợ xử lý xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu” (2017) của
tác giả Hà Thị Nguyệt Thu đăng trên Tạp chí Khoa học và cơng nghệ Việt
Nam;
- Bài viết “Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định trong tố tụng dân sự
- Kiến nghị hoàn thiện” (2020) của tác giả Nguyễn Xn Bình, đăng trên Tạp
chí Tòa án nhân dân;
- Bài viết “Bàn về người giám định trong tố tụng dân sự” (2020) của tác
giả Đặng Thanh Hoa, Ngơ Tựu Đức đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân...
Từ thực tế trên cho thấy, các công trình nghiên cứu kế trên cũng chỉ mới
dừng lại ở việc đề cập một cách gián tiếp hoặc nghiên cứu một góc độ hẹp của
giám định tư pháp hoặc có cơng trình nghiên cứu chun sâu về hoạt động
giám định tư pháp, phàn lớn tiếp cận nghiên cún theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự. Cho đến nay, đề tài giám định tư pháp trong tố tụng dân sự là
một lĩnh vực mới, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
cũng như chưa có bất kì cơng trình nào nghiên cứu một cách tồng thể, tồn
diện về vấn đề này. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Giám định tư pháp trong

3


tô tụng dân sự” làm luận văn thạc sĩ của mình. Đây là đê tài đâu tiên nghiên
cứu chuyên sâu, tồn diện và có hệ thống về giám định tư pháp trong tố tụng
dân sự. Luận văn phản ánh thực tiễn hoạt động giám định tư pháp trong tố
tụng dân sự. Từ đó tác giả tìm ra những hạn chế, bất cập của hoạt động này
theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhằm đề xuất những kiến nghị,
giải pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động giám
định tư pháp trong tố tụng dân sự.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sờ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám định tư
pháp trong tố tụng dân sự, kết quả nghiên cứu của luận văn nhàm chỉ ra
những điểm cịn thiếu sót hoặc chưa họp lý trong các quy định của pháp luật
hiện hành về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự. Ngoài ra, việc nghiên
cứu cũng nhằm làm sáng rõ việc bảo đảm thực hiện quyền yêu cầu tòa án
trưng cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định của đương sự trên thực
tể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn sẽ đề xuất một số giải
pháp nhằm góp phần hoàn thiện Pháp luật TTDS Việt Nam về giám định tư
pháp và bảo đảm thực hiện quyền giám định tư pháp đồng thời nâng cao hiệu
quả của việc bảo đảm thực hiện quyền yêu cầu giám định tư pháp trên trên
thực tế.

3.2. Nhiệm vụ
Để thực
• hiện
• được
• mục
• tiêu này,z luận

• văn đã hồn thành một
• số nhiệm
• vụ•
nghiên cứu cụ thể sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giám định tư pháp;
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về giám định tư pháp trong tố tụng dân
sự và thực tiễn áp dụng pháp luật về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
thông qua các hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về giám định tư pháp, chỉ ra ưu điểm, nguyên nhân của những ưu điềm cũng
như tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cùa những tồn tại, hạn chế.
- Đề xuất một số các giải pháp về hoàn thiện pháp luật nâng cao hiệu quả
hoạt động giám định trong tố tụng dân sự.

4


4. Đôi tưọng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đoi tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về giám định tư pháp
trong TTDS, qua đó tập trung làm sáng tỏ về thực trạng pháp luật, thực tiễn
hoạt động giám định tư pháp trong TTDS và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn, việc nghiên cứu đề tài
sẽ được giới hạn trong phạm vi sau đây:

về thực trạng pháp luật, Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở các
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giám định tư pháp nói chung
và giám định tư pháp trong tố tụng dân sự nói riêng. Theo đó, luận văn tập

trung nghiên cứu các quy định về giám định tư pháp theo Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015, Luật giám định tư pháp năm 2012 và tinh thần áp dụng tương tự
Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “chứng minh
và chứng cứ” cùa Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo luật
sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật tố tụng dân sự.
về nội dung, nếu theo tên gọi thì đề tài có nội dung nghiên cứu rất rộng,
bao gồm tất cả các hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự như:
giám định tổn thương cơ thể, giám định xây dựng, giám định môi trường,
giám định văn hỏa, giám định giao thông cơng chính, giám định sở hữu trí
tuệ... Tuy vậy, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ
tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ băn về giám định tư pháp trong TTDS
như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và phân loại hoạt động giám định trong
TTDS; các điều kiện bảo đảm hoạt động giám định tư pháp trong TTDS; chủ
thể của hoạt động giám tư pháp trong TTDS; trình tự, thủ tục trưng cầu, yêu
cầu giám định theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
về thời gian và không gian, Luận văn nghiên cứu về giám định tư pháp
trong tố tụng dân sự kể từ năm 2017 đến nay, trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
5. Cư sở lý luận và phưưng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Co’ sở lý luận
Đe thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được
tiến hành dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điếm của Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về xây dựng
nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng dân sự, về vấn đề cải cách tư
pháp cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như lịch sử
5


pháp luật, lý luận vê nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật Dân sự
và tố tụng dân sự.

5.2. Phuong pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sử
dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp
một số phương pháp nghiên cứu khoa học của các chuyên ngành khác như
phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so
sánh; phương pháp thống kê.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: đây là phương pháp chù yếu được tác
giả sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu. Phương pháp này được tác giả sử
dụng để phân tích và tổng hợp các cơ sở lý luận về giám định tư pháp trong tố
tụng dân sự. Phương pháp này sẽ được sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của
luận văn.
Phương pháp lược sử: để tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển các quy
định của pháp luật về giám định tư pháp trong BLTTDS năm 2015 so với các
quy định của Pháp luật TTDS trước đây.

Phương pháp so sánh: dùng để so sánh quy định của BLTTDS năm 2015
với quy định của các văn bản ban hành trước đó và các nguồn tài liệu có liên
quan. Tác giả cũng sử dụng phương pháp này để so sánh các quy định trong
BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 với BLTTDS năm 2015 về
giám định tư pháp đê làm rõ nội dung của đề tài cần nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa: tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc những kết quà
nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến đương sự của các tác giả trước.
Phương pháp này sẽ được sử dụng ở Chương 1 và Chương 2 của luận văn.

Phương pháp nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn: dựa trên các quy
định của pháp luật, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật về giám định tư
pháp trong tố tụng dân sự để tìm ra những điểm bất cập, hạn chế, thiếu sót.
Phương pháp này được tác giả sử dụng chủ yếu ở Chương 2 cùa đề tài.
Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp

giải thích, bình luận để hồn thành đề tài
6. Ý nghĩa khoa học
văn
• và thực
• tiễn cùa luận

- về lý luận, luận văn là cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống về giám định tư pháp trong pháp luật TTDS Việt Nam. Những đóng
góp của luận văn thê hiện trên một số phương diện sau đây:
6


Sau khi Luật giám định tư pháp và BLTTDS 2015 có hiệu lực, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu, khảo sát chuyên sâu về thực hiện các quy định của
pháp luật về hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự. Luận văn là
cơng trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện câ về lý luận,
luật thực định và thực tiễn thực hiện qua q trình giãi quyết các vụ việc dân
sự, từ đó chỉ ra thực trạng pháp luật về giám định tư pháp trong TTDS cũng
như những bất cập, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật.

- về thực tiễn, trên cơ sở tổng họp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất
những giải pháp cụ thế nhằm hoàn thiện pháp luật về giám định tư pháp trong
TTDS, nâng cao hiệu quả của hoạt động giám định tư pháp nói chung và giám
định tư pháp trong TTDS nói riêng.
Luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn
liên quan đến giám định tư pháp trong TTDS. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện
pháp luật về giám định tư pháp trong TTDS.
7. Kết cấu cùa luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề chung về giám định tư pháp trong tố tụng dân
sự

Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành và thực tiễn giám định tư pháp
trong tố tụng dân sự
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả
giám định tư pháp trong tố tụng dân sự

7


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ GIÁM ĐỊNH Tư
PHÁP TRONG TỐ TỤNG DÂN sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm giám định tu’ pháp trong tố tụng dân sự
Thuật ngữ giám định có nguồn gốc chữ La tinh là “Expertis”, có nghĩa là
xem xét, tìm hiếu, nghiên cứu, kiếm tra, làm rõ, chứng minh, kết luận... Đó là
q trình các chủ thể dùng các kiến thức chuyên môn về các lĩnh vực khoa
học kỹ thuật và những kinh nghiệm thực tiễn đế nghiên cứu, xét nghiệm, so
sánh và kết luận về một người, một sự vật, sự việc, hiện tượng... giúp cho cơ
quan trung cầu, yêu cầu giám định có nhận thức khách quan để giải quyết vấn
đề đặt ra trên cơ sở khoa học. Giám định có nhiều lĩnh vực như: giám định
pháp y, giám định pháp y tâm than, giám định kỹ thuật hình sự, giám định văn
hóa, giám định âm thanh, giám định xây dựng... Trong mỗi lĩnh vực giám
định lại được chia ra thành nhiều chuyên ngành giám định cụ thể.

Theo từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “Giám định” là “việc xem xét và kết

luận về một sự vật, hiện tượng mà cơ quan nhà nước cần tìm hiêu và xác
định” [22, tr.389,1071 ]. Từ điển Bách Khoa Việt Nam cũng có cách định
nghĩa tương tự về nghĩa của từ giám định trong ngành luật là “kiểm tra và kết
luận về một hiện tượng hoặc một vấn đề mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và
xác định” [24,tr. 1211 ].

Như vậy, “giám định” là việc sử dụng những kiến thức, phương tiện kĩ
thuật, kinh nghiệm thực tiễn để nghiên cứu, xem xét, đánh giá và đưa ra kết
luận về một sự vật, hiện tượng, từ đó giúp cho con người có những nhận thức
khách quan để giải quyết một vấn đề nào đó.
Theo quy định của pháp luật, giám định tư pháp là một hoạt động bổ trợ
tư pháp, là việc kiểm tra, xem xét và đi đến kết luận về một vấn đề nào đó
theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho việc xét xử và
giải quyết các tranh chấp của cơ quan này, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc
lực cho quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng khi giải quyết một số vụ việc cụ thể để làm rõ các tình tiết có liên quan
đến chun môn, khoa học kĩ thuật. Hoạt động GĐTP ra đời và đã mang lại
nhiều kết quả to lớn đã đóng góp khơng nhỏ vào việc giải quyết các vụ, việc
dân sự được nhanh chóng, chính xác, khách quan, khoa học và đúng pháp
luật. Ngược lại, nếu hoạt động giám định tư pháp khơng có hiệu quả thì việc
giải quyết các tranh chấp dân sự khó có thể nhanh chóng, chính xác và công
bằng.
8


Hoạt động giám định tư pháp khác hoạt động giám định thơng thường như
giám định chất lượng hàng hóa, giám định chất lượng cơng trình xây dựng...
do các hoạt động này phục vụ hoạt động quản lý Nhà nước theo yêu cầu của
cơ quan quân lý nhà nước còn hoạt động giám định tư pháp là hoạt động giám
định theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật giám
định tư pháp. Ví dụ, cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng nhận đơn khiếu
nại của công dân đề nghị xem xét việc nhà hàng xóm tiến hành xây dựng đã
làm lún, nứt nhà mình. Cơ quan nhận đơn khiếu nại cùa cơng dân có thể trưng
cầu tổ chức có năng lực tiến hành giám định về nguyên nhân gây lún, nút để
có căn cứ giải quyết khiếu nại theo yêu cầu của người khiếu nại. Trường hợp
này tổ chức được trưng cầu giám định tiến hành giám định để kết luận về
nguyên nhân gây lún, nứt và trả kết quả giám định cho cơ quan quản lý nhà
nước đã trưng cầu giám định, hoạt động giám định này không phải là giám
định tư pháp.
Hiện nay các nước trên thể giới đều có những quan niệm về GĐTP nói
chung và GĐTP trong TTDS nói riêng. Nhìn chung, đại đa số các nước đều
có quan niệm giám định tư pháp là việc giám định được thực hiện bởi nhà
chuyên môn (người am hiểu, tinh thông về lĩnh vực cần giám định) để làm
sáng tỏ vấn đề có liên quan, theo trưng cầu của cơ quan điều tra, truy tố và xét
xử hoặc cả theo yêu cầu của người tham gia tố tụng (nước theo cơ chế tranh
tụng) đến vụ án dưới góc độ chun mơn nhằm phục vụ cho việc giải quyết
vụ án. Chẳng hạn như Pháp có quy định: việc giám định được thực hiện chỉ
theo trưng cầu của thẩm phán (có thẩm phán điều tra, thẩm phán xét xử và
thấm phán thi hành án) thì được coi là giám định tư pháp, mà khơng có chủ
thể tố tụng nào khác. Tuy nhiên, Thụy Điển lại không căn cứ vào chủ thể
trưng cầu, yêu cầu giám định bởi tố chức, cá nhân nào mà quan trọng là việc
giám định đó có được đánh giá và sử dụng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ
án hay không, nếu kết luận giám định nào phù hợp vói các chứng cứ khác của
vụ án và được Hội đồng xét xử chấp nhận làm căn cứ để giải quyết vụ án thì
được coi là giám định tư pháp. Trong trường hợp kết luận giám định do người
tham gia tố tụng tự mình yêu cầu và được chấp nhận làm căn cứ cho việc xét
xử vụ• án thì sẽ được
• Nhà nước hồn trả chi phí
1 cho việc

• thực
• hiện
• vụ• việc

giám định đó.

Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự mà cụ thể là các vụ việc dân
sự, hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại, sở hữu trí tuệ... nếu
phát sinh những vấn đề vướng mắc liên quan đến kiến thức thuộc các lĩnh vực
9


chun mơn thì các cơ quan tiên hành tơ tụng sẽ nhờ những cá nhân, tô chức
hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn xem xét, đánh giá và kết luận khách
quan những vấn đề đó để phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Trong khoa học
pháp lý ở Việt Nam hiện nay, mới chỉ có khái niệm về giám định chứ chưa có
khái niệm về giám định tư pháp trong TTDS trong luật thực định. Tuy nhiên,
dựa trên các quy định của pháp luật, giám định tư pháp trong TTDS có thể
được hiểu như sau:

Điều 79 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về người giám định, trong đó
xác định rõ “người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết
theo quy định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định mà Tịa
án trưng cầu giám định hoặc được đương sự yêu cầu giám định theo quy định
của pháp luật”; đồng thời quy định rõ quyền và nghĩa vụ của họ trong quá
trình TTDS tại Điều 80. Hơn nữa, bản KLGĐ được thực hiện bởi các GĐV có
chun mơn, nghiệp vụ và thực hiện trên nguyên tắc “tuân thủ pháp luật, tuân
theo quy chuẩn chun mơn, trung thực, chính xác, khách quan” là một nguồn
chứng cứ (Điều 94 BLTTDS năm 2015).
Luật giám định tư pháp quy định chù thể tiến hành GĐTP bao gồm giám

định viên tư pháp và người GĐTP theo vụ việc. Trong đó, giám định viên tư
pháp là người đủ tiêu chuẩn về quốc tịch, sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình
độ và thực tế cơng tác, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm để
thực hiện GĐTP. Người GĐTP theo vụ việc là người chưa được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bổ nhiệm là giám định viên tư pháp nhưng là người đủ
tiêu chuẩn về quốc tịch, sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ và thực tế hoạt
động chuyên môn, kinh nghiệm, được lựa chọn là người GĐTP theo vụ việc.

Giám định tư pháp là cơng việc địi hỏi người làm cơng tác này là những
giám định viên tư pháp có đủ trình độ chun mơn, nghiệp vụ, có kiến thức về
pháp luật, phẩm chất chính trị, có hiểu biết về các lĩnh vực khoa học khác
nhau để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình điều tra, xét xử và giải quyết các vụ, việc dân sự.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu “Giám định tư pháp trong tố tụng
dân sự là việc người giám định tư pháp, người có kiến thức chun mơn trong
những lĩnh vực khác nhau, sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa
học, kỳ thuật nghiệp vụ để kết luận về chun mơn những vấn đề có liên quan
đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự theo quyết định
trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, hoặc theo
yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật”.
10


Có thê thây răng kêt luận của cơ quan, tơ chức giám định - được coi là
một trong những nguồn chứng cứ quan trọng quyết định đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên đương sự trong các vụ việc dân sự. Do đó việc giám
định tư pháp được coi là phương tiện hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự, tổ chức xã hội... Các loại giám định thường gặp
khi giải quyết trong các vụ án như giám định ADN (truy nhận cha cho con),
giám định văn hóa (tranh quyền tác giả), giám định chữ ký (tranh chấp hợp

đồng, thừa kế) giám định thương tích (bồi thường ngồi họp đồng) giám định
xây dựng (tranh chấp hợp đồng xây dựng, tranh chấp bồi thường trong lĩnh
vực xây dựng), giám định tâm thần (trong các vụ án ly hôn)...
ỉ.1.2. Đặc điếm của giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
Giám định tư pháp trong TTDS là hoạt động của cơ quan chuyên mơn
nhằm đưa ra kết luận có tính chất khoa học về các vấn đề có liên quan đến vụ
việc dân sự, phục vụ cho quá trình giải quyết các vụ, việc dân sự. Hoạt động
này được tiến hành bởi các cơ quan chun mơn theo trình tự, thủ tục và thời
hạn do BLTTDS quy định. Các cơ quan chuyên môn sẽ sử dụng tri thức khoa
học để nghiên cửu, kết luận các vấn đề cần giám định nhằm xác lập, thu thập,
củng cố, kiếm tra và đánh giá các tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc giải
quyết các vụ, việc dân sự. Từ bản chất của giám định tư pháp trong tố tụng
dân sự có thể rút ra một số đặc điểm đặc trưng của hoạt động giám định tư
pháp trong tố tụng dân sự như sau:

Thứ nhất, giám định tư pháp trong tố tụng dân sự là hoạt động được thực
hiện theo một quy trình, thủ tục được pháp luật tố tụng dân sự và Luật giám
định tư pháp quy định do cơ quan, người có thấm quyền trưng cầu giám định
hoặc do đương sự tự mình yêu cầu giám định theo quy định của pháp luật.

Trưng cầu giám định và yêu cầu giám định về cơ bản là giống nhau, chỉ
khác nhau ở chủ thể yêu cầu. Trưng cầu giám định là việc Tòa án ra quyết
định trưng cầu giám định. Yêu cầu giám định là đương sự yêu cầu cơ quan tổ
chức tiến hành hoạt động giám định theo quy định của Luật giám định tư
pháp. Quy định về yêu cầu giám định lần đầu tiên ghi nhận trong BLTTDS
năm 2015 tại Điều 102 như sau: “Đương sự có quyền u cầu Tịa án trưng
cầu giám định hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án
trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự
yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm”.


11


Tóm lại, hoạt động giám định trong TTDS được thực hiện theo một quy
trình do pháp luật tố tụng dân sự quy định hết sức chặt chẽ về thủ tục, thời
hạn, hình thức, chủ thế trưng cầu giám định, người có quyền yêu cầu giám
định, trường hợp giám định... Các thủ tục này được quy định trong Luật Giám
định tư pháp và trong Bộ luật TTDS.

Thứ hai, giám định tư pháp trong tố tụng dân sự là hoạt động không
mang tính hành chính, mệnh lệnh - phục tùng mà mang tính khoa học. Chất
lượng, giá trị của kết luận giám định khơng phụ thuộc vào cấp hành chính mà
phụ thuộc vào trình độ, năng lực và uy tín cùa tổ chức, người giám định.

GĐTP là hoạt động mang tính khoa học, chun mơn cao. Tính chun
mơn khoa học trong q trình thực hiện giám định biểu hiện ở việc người thực
hiện giám định hoàn toàn độc lập và chủ động lựa chọn phương pháp giám
định phù hợp và tự chịu trách nhiệm về kết luận giám định mà không bị ràng
buộc, áp đặt bởi các cơ quan chủ quản. Ket quả giám định và giá trị sử dụng
của chúng cũng khơng phụ thuộc vào cấp hành chính hay lần giám định mà
phụ thuộc vào năng lực chuyên môn của tổ chức giám định, người giám định
và phương pháp khoa học được áp dụng.
Thứ ba, các kết quả giám định đưa ra phải dựa trên các căn cứ khoa học
có độ tin cậy cao nhưng vẫn có thể bị thay thế bằng các kết quả giám định
khác.
Hoạt động GĐTP trong TTDS được thực hiện trên cơ sở các phương
pháp khoa học, trình tự thủ tục tiến hành giám định cũng trên cơ sở khoa học
nên kết quả giám định được đưa ra cũng phải dựa trên các căn cứ khoa học đã
được thừa nhận. Có thể nói, kết quả giám định luôn được các cơ quan THTT

coi là một nguồn chứng cứ đặc biệt quan trọng và hữu ích trong việc giải
quyết vụ, việc dân sự. Nguồn chứng cứ này vừa khách quan vừa đảm bảo tính
hợp pháp của hoạt động chứng minh. Đây là cơ sở, căn cứ để giải quyết vụ
việc dân sự. Tuy nhiên không phải tất cả các kết luận giám định đều là bất di
bất dịch mà kết luận giám định vẫn được bổ sung hoặc thay thế bởi các kết
quả giám định khác. Theo quy định của pháp luật, giám định lại được thực
hiện trong trường hợp: (i) Người trưng cầu, yêu cầu giám định khơng đồng ý
với kết luận giám định hoặc có mâu thuẫn giữa các kết luận giám định về
cùng một vấn đề cần giám định; (ii) Có sự khác nhau giữa các kết luận giám
định hoặc giữa kết luận giám định với ý kiến chuyên môn của cơ quan quản lý
nhà nước về cùng một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại có thể do tổ
chức giám định, giám định viên đã giám định trước đó hoặc tổ chức giám
12


định, giám định viên khác thực hiện theo yêu câu của người trưng câu, yêu
cầu giám định.

1.2. Ý nghĩa cùa giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự giúp đương
sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước tịa án thơng qua việc làm rõ các
tình tiết cần phải chứng minh mà đòi hòi kiến thức chun mơn sâu của các
nhà chun gia.

Quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề rất quan trọng, là động lực để
các chủ the tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã
hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy
định của pháp luật. Việc một chù thể không thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định cùa pháp luật có thế sẽ xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, dẫn đến tranh chấp. Khi

đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hay chủ thể khác có quyền, lợi ích bị xâm phạm
có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi
ích đó. Các kết luận GĐTP được thực hiện bới các giám định viên có kiến
thức sâu, rộng cộng với sự hồ trợ của máy móc, phương tiện hiện đại là một
nguồn chứng cứ khách quan và là căn cứ quan trọng để các đương sự làm rõ
được cơ sở quyền, lợi ích hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thuyết phục Tịa án
tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm khôi phục những quyền lợi hợp pháp
của chủ thế bị xâm phạm.
Thứ hai, hoạt động giám định tư pháp góp phần răn đe, ngăn chặn các
hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác khi tham gia
các quan hệ pháp luật.

Quy định về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự sẽ góp phần nâng cao
ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Đồng thời, quy định này
có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi của các chủ thể,
tránh được việc tranh chấp, kiện tụng gây phiền hà, tốn kém thời gian và tiền
bạc cho các chủ thể.

Trong thời đại 4.0, xã hội càng phát triến, giao lưu thương mại càng
nhiều, cộng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thì tình
trạng các chủ thể vì lợi ích của mình sẵn sàng thực hiện các thủ đoạn tinh vi
đế xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chú thể khác như: hàng giả, tiền
giả, chữ ký giả thậm chí con dấu cũng được làm giả. Từ đó dẫn đến tình trạng
xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể khác xuất hiện ngày càng
13


nhiêu, với quy mô và mức độ xâm phạm ngày càng tinh vi. Tuy nhiên, thơng
qua q trình giám định, người giám định có thể phát hiện ra những thú đoạn,

cách thức xâm phạm quyền. Ví dụ, qua q trình giám định, GĐV phát hiện
ra thủ đoạn làm giả của những tờ tiền giả hoặc giấy tờ chứng minh quyền sở
hữu tài sản, giám định hàng hóa, chữ ký... trong các vụ tranh chấp hợp đồng.
Từ đó, các cơ quan có thẩm quyền phổ biến những thủ đoạn, cách thức xâm
phạm quyền để mọi người nâng cao cảnh giác và giúp cơ quan THTT giải
quyết tốt các vụ tranh chấp có hành vi xâm phạm tương tự.
Thứ ba, Giám định tư pháp trong tố tụng dân sự có ý nghĩa trong việc đảm
bảo được sự công khai, minh bạch khi giải quyết các vụ, việc dân sự của
những người tham gia tố tụng, ngăn chặn sự tác động của ý thức chủ quan vào
quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Đặc tính quan trọng nhất của các K.LGĐ là việc một nhóm chủ thể khác
thực hiện mà khơng phải là người trong các cơ quan THTT, đó là các GĐV tư
pháp. Đội ngũ này làm việc độc lập với những người tham gia tố tụng. Hon
nữa, việc giám định này được thực hiện trên cơ sở của máy móc kĩ thuật, của
các thành tựu nghiên cứu khoa học trong từng lĩnh vực, cộng thêm kinh
nghiệm và trình độ chun mơn nghiệp vụ của các GĐV. Vì vậy, các KLGĐ
ln có tính chính xác, khách quan và khoa học.
Trên thực tế, không loại trừ trường hợp thẩm phán, hội thẩm nhân dân giải
quyết vụ việc dân sự có thể biết được một sự kiện, một tình tiết nào đó của vụ
án một cách tình cờ nhưng sự kiện, tình tiết đó lại trái với kết luận giám định
thì thẩm phán, hội thẩm nhân dân không được sử dụng sự hiểu biết riêng đó
để làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự mà phải sừ dụng kết luận giám định.
Điều này vừa ngăn chặn sự ảnh hưởng của ý thức chủ quan lên quá trình giải
quyết vụ việc dân sự vừa đảm bào an toàn cho nhũng người THTT trong việc
tránh khỏi những nhận định, đánh giá sai lầm, cảm tính dẫn đến sai sót trong
q trình giải quyết vụ việc dân sự, khơng đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của cơ quan, tồ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự.

Thứ tư, giám định tư pháp trong tố tụng dân sự là một trong những

phương thức để bảo vệ pháp chế xã hội chù nghĩa.

Hoạt động GĐTP không thể thiếu trong bất cứ một nền tư pháp nào. Hoạt
động này đã phục vụ đắc lực cho quá trình tố tụng dân sự, giúp cơ quan
THTT giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động... nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc
dân sự được nhanh chóng, chính xác, cơng minh và đúng pháp luật... góp
14


phân bảo vệ chê độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích cua Nhà nước, quyên và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Mỗi vụ việc dân sự phát sinh tại tòa án thường chứa đựng những mâu
thuẫn nhất định giữa các bên đương sự nên rất phức tạp. Đẻ giải quyết được
vụ• việc
dân sự• thì mọi
vấn đề của vụ• việc
dân sự• dù ai nêu ra cũngO’ đều JLphải



được làm rõ trước khi tịa án quyết định giải quyết vụ việc dân sự. GĐTP
thông qua bản KLGĐ được thực hiện bởi các GĐV có chun mơn, nghiệp vụ
và thực hiện trên nguyên tắc “tuân thú pháp luật, tn theo quy chuẩn chun
mơn, trung thực, chính xác, khách quan” là một nguồn chứng cứ vô cùng
quan trọng và quý báu đế cơ quan THTT giải quyết vụ án một cách nhanh
chóng, chính xác, khách quan, khoa học và đúng pháp luật, giúp cho công lý
được thực thi, cơng bằng cho mọi người, tính nghiêm minh và nền pháp chế
XHCN được giữ vững.

1.3. Phân loại giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
1.3.1 Giám định theo quyết định trưng cầu của tòa án và giám định
theo yêu cầu của đương sự
Căn cứ vào quy định của pháp luật về chủ thể yêu cầu giám định, giám
định tư pháp trong tố tụng dân sự theo tiêu chí chủ thể có quyết định trưng
cầu của Tịa án và giám định theo yêu cầu của đương sự.

Giám định theo quyết định trưng cầu của tòa án: Theo yêu cầu của đương
sự hoặc khi xét thấy cần thiết, tòa án quyết định đưa vấn đề liên quan đến vụ
việc dân sự cần xác định ra lấy ý kiến kết luận của người có kiến thức, kinh
nghiệm chun mơn về lĩnh vực đó. Việc trưng cầu giám định được tiến hành
theo sự• thỏa thuận
lựa
chọn
của các bên đươngO' sự• hoặc
theo yêu
cầu của một




e/

hoặc các bên đương sự.
Giám định theo yêu cầu của đương sự: Đương sự có quyền tự mình u
cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu giám định nhưng Tòa án tù'
chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước
khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định
mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
1.3.2. Giám định lần đầu, giám định bổ sung, giám định lại

Căn cứ vào tình huống và kết quả giám định phân loại giám định lần đầu,
giám định bổ sung, giám định lại

15


Giám định lân đâu là việc tiên hành giám định lân đâu tiên đơi với một
vấn đề nào đó của vụ án cần được làm rõ theo quyết định trưng cầu giám định
của cơ quan điều tra hoặc tòa án.

Giám định bổ sung là giám định tiếp theo lần giám định trước nhằm bổ
sung cho KLGĐ trước đó hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến
các tình tiết đã được kết luận trước đó. Ngồi ra, giám định bổ sung còn được
trưng cầu trong trường hợp khi ra quyết định trưng cầu giám định lần trước đó
điều tra viên không đưa ra hết những câu hỏi đối với giám định viên. Giám
định bổ sung có thể do người trước đó tiến hành hoặc do người giám định
khác tiến hành.
Giám định lại là việc giám định được tiến hành theo yêu cầu của cơ quan
THTT trong trường hợp có căn cứ xác thực nghi ngờ KLGĐ khơng đảm bảo
tính khách quan hoặc có mâu thuẫn với các KLGĐ khác.

Nội dung giám định lại là toàn bộ những yêu cầu giám định lần trước và
người giám định trước đó không được tiến hành việc giám định lại mà phải do
người giám định khác tiến hành.
1.3.3. Giám định cá nhân và giám định tập thể
Căn cứ vào số lượng, thành phần người tham gia giám định: Giám định cá
nhân và giám định tập thể, trong đó:

Giám định cá nhân là việc giám định do một người tiến hành độc lập giải
quyết toàn bộ yêu cầu giám định theo quyết định trung cầu của cơ quan

THTT hoặc theo yêu cầu của đương sự.
Giám định tập thể là việc nhiều người cùng một lĩnh vực chuyên môn
hoặc ở nhiều lĩnh vực chuyên mơn cùng tiến hành giám định một vấn đề nào
đó. Giám định tập thế được tiến hành trong trường hợp sau:
+ Yêu cầu giám định đòi hởi nhiều người giám định ở các lĩnh vực chuyên
môn khác nhau giải quyết.
+ Khối lượng tài liệu, vật chứng, mẫu vật lớn cần có kết luận kịp thời cho
cơng tác giải quyết vụ, việc dân sự.
+ Vấn đề giám định rất phức tạp, đòi hởi kết luận giám định của một tập
thể người giám định để đảm bảo tính chính xác, tin cậy.
+ Cần giám định lại một yêu cầu giám định do một GĐV cao cấp hoặc
một tập thể GĐV đã tiến hành giám định.
16


1.3.4. Giám định chuyên khoa, giám định tông họp
Căn cứ vào vấn đề cần giám định liên quan tới một hoặc nhiều lĩnh vực
khoa học: Giám định chuyên khoa, giám định tống hợp.

Giám định chuyên khoa là việc một hoặc nhiều người giám định của một
chuyên khoa đảm nhiệm việc giám định.
Giám định tống hợp là việc nhiều người giám định thuộc nhiều chuyên
khoa đảm nhiệm việc giám định. Việc giám định tống hợp được tiến hành
bằng nhiều phương pháp thuộc các chuyên khoa khác nhau trên cùng một đối
tượng giám định hoặc trên nhiều đối tượng giám định có liên quan với nhau
để cùng giải quyết một yêu cầu giám định cụ thể.
1.3.5. Các loại giám định theo từng lĩnh vực chuyên môn
Căn cứ vào lĩnh vực chuyên môn giám định phân loại các loại giám định

sau:

Giám định tổn thương cơ thể là việc sử dụng những kiến thức, phương
pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ để kiểm tra, đánh giá toàn diện sức khỏe
của đương sự nhằm kết luận về phương diện y học những vấn đề có liên quan
đến việc tổn hại sức khỏe do chấn thương hay do bệnh lý mà người khác gây
nên... theo văn bản trưng cầu của CQTHTT hoặc yêu cầu của đương sự nhằm
phục vụ công tác bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Do vậy, đối
tượng của giám định thương tật là những thương tích trên cơ thể sống, dấu
vết, tang vật như: tóc, lơng, máu, nước bọt, mồ hơi, nước tiếu; vật gây thương
tích như vật sắc nhọn, vật sắc, vật tày...
Giám định pháp y tâm thần là một bộ phận của tâm thần học, phát triển
cùng với sự phát triển chung của ngành tâm thần học. Giám định pháp y tâm
thần là việc sử dụng kiến thức trong lĩnh vực y học tâm thần đề xem xét
những vấn đề có liên quan đến cá nhân như vấn đề về sức khỏe tâm thần, xác
định chính xác những đối tượng bị nghi rối loạn tâm thần có bị bệnh tâm thần
hay không, mức độ nặng nhẹ, từ đó xác định năng lực trách nhiệm dân sự.
Mục đích của giám định pháp y tâm thần nhằm giám định tình trạng sức
khỏe tâm thần của đương sự, người làm chứng. Giám định khả năng chịu
trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hai dựa trên hai tiêu chuẩn:

+ Tiêu chuẩn y học: Đó là vấn đề chuẩn đốn bệnh (họ bị bệnh gì? Mức
độ bị bệnh như thế nào? Nặng hay nhẹ? Thời gian bị bệnh từ khi nào?)

17


+ Tiêu chuân pháp luật: xem xét khả năng nhận thức hành vi (đây đủ, hạn
chế hay mất khả năng nhận thức?), xem xét khả năng kiềm chế hành vi. Nên
đối tượng của giám định pháp y tâm thần là trạng thái tâm thần và hồ sơ tài
liệu của con người.


Giám định tư pháp xây dựng là việc sử dụng kiến thức, phương tiện,
phương pháp khoa học, kỳ thuật, nghiệp vụ để đánh giá, kết luận về chuyên
môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động xây dựng, cơng trình xây dựng
hoặc bộ phận cơng trình xây dựng, sản phấm xây dựng theo trưng cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (sau đây viết tắt là người trưng
cầu giám định) hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định nhằm phục vụ
giải quyết các vụ việc liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính.
Giám định tư pháp về hoạt động xây dựng bao gồm: quy hoạch xây dựng,
khảo sát xây dựng, thiết kế xây dựng cơng trình, thi cơng xây dựng cơng
trình, giám sát thi cơng xây dựng cơng trình, lựa chọn nhà thầu trong hoạt
động xây dựng và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng cơng trình;
Giám định tư pháp về cơng trình xây dựng hoặc bộ phận cơng trình xây dựng;
Giám định tư pháp về sản phẩm xây dựngbao gồm các vật tư, vật liệu, cấu
kiện xây dựng; thiết bị được sử dụng, lắp đặt vào cơng trình xây dựng.

Tuỳ theo đối tượng, nội dung trưng cầu giám định, người trưng cầu giám
định lựa chọn tổ chức, cá nhân phù hợp với lĩnh vực giám định theo quy định.
Giám định môi trường là đánh giá nguồn tác động và đánh giá mức độ ảnh
hưởng của các hoạt động và các yếu tố đến môi trường.

Giám định trong lĩnh vực môi trường bao gồm các hoạt động lấy mẫu và
phân tích mơi trường, khơng khí, nước, đất. Hoạt động này đã góp phần trong
cơng tác xác định mức độ vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong công tác
bảo vệ mơi trường, từ đó đưa các biện pháp xử lý hành chính, hình sự nhằm
tăng cường hiệu lực pháp luật trong cơng tác bảo vệ mơi trường.
Giám định văn hóa là việc sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa
học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên ngành để giám định các loại hình tác phấm
văn học - nghệ thuật và văn hóa phẩm, đưa ra kết luận về chuyên ngành văn
hóa có liên quan đến vụ án do người GĐTP thực hiện.

Giám định văn hóa nhàm phục vụ cho việc xem xét, phân tích các tác
phẩm văn học, nghệ thuật,văn hỏa phẩm có mang nội dung đồi trụy, phản
18


động, chơng phá Đảng và Nhà nước cộng hịa xã hội chú nghĩa Việt Nam, có
phù hợp với thuần phong mỹ tục hay khơng? Có phải là di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia, là nguyên bản, nguyên gốc hay bản sao, đồ giả? Trên cơ sở đó đưa
ra những kết luận về chuyên môn theo trưng cầu của cơ quan THTT, phục vụ
đắc lực cho công tác điều tra tội phạm về văn hóa.
Đối tượng của giám định văn hóa là sách, báo, tạp chí, tài liệu văn bản,
bản vẽ kỳ thuật, bản vẽ thiết kế được đánh máy, sao chép dưới mọi hình thức.
Giám định các loại tranh, tác phẩm mỹ thuật các thể loại như đồ họa, khắc
kẽm, khắc gỗ, sơn khắc, sơn dầu, sơn mài, khảm trai... Giám định phim ảnh,
băng đĩa ghi âm, ghi hình, ghi mã số, giám định đồ thủ công các thể loại và
chất liệu...
Giám định giao thơng cơng chính do các giám định viên có đủ năng lực
cũng như điều kiện cơ sở vật chất, kỳ thuật tiến hành để kết luận về những
vấn đề về chuyên ngành giao thông công chính có liên quan đến vụ án như
việc giám định chất lượng cơng trình cầu đường, giám định tính chất an tồn
giao thơng, giám định chất lượng phương tiện giao thông, giám định chất
lượng cây xanh trồng trên hè phố... Đối tượng của hoạt động giám định này là
hạ tầng giao thông đường bộ, đường thủy, đường không, đường sắt, cầu,
cống, bến phà, nhà ga. Giám định hạ tầng kỹ thuật đô thị như vỉa hè, đường
đô thị, hệ thống cấp thốt nước, cơng viên, cây xanh.

Giám định tài chính là việc người có chun mơn về tài chính, kế toán sử
dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỳ thuật, nghiệp vụ chuyên
ngành và những quy định của pháp luật có liên quan để xem xét, đánh giá các
chứng từ, tài liệu liên quan đến hoạt động tài chính, kế toán của cơ quan, tổ

chức, doanh nghiệp. Giám định tài chính phục vụ cho việc xem xét, phân tích,
đánh giá tính đúng đắn của việc chấp hành pháp luật của Nhà nước về tài
chính, kế tốn. Trong trường hợp khơng đúng pháp luật của Nhà nước thì có
gây ra thiệt hại gì về kinh tế khơng? Thiệt hại ở mức độ như thế nào? Trên cơ
sở đó đưa ra những kết luận về chuyên môn theo yêu cầu của cơ quan THTT,
phục vụ đắc lực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế và các tội phạm về chức vụ.

Giám định chữ ký, chữ viết là việc người có chun mơn sử dụng những
kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên ngành và những
quy định của pháp luật có liên quan đế xem xét, đánh giá các mẫu chữ ký, chữ
viết. Chừ ký, chữ viết là sản phẩm sáng tạo và tập luyện tạo nên từ phản xạ có
điều kiện của con người. Trên thực tế, các đương sự thường không thừa nhận
19


chữ ký, chữ viết của mình và cố tình cung cấp chữ ký “mầu” nhiều dạng khác
nhau, chữ ký cùng thời điểm với chữ ký mẫu không thu thập được hoặc thu
thập không đủ. Thực chất của giám định chữ ký, chữ viết là một quá trình
nhận dạng của phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp và so sánh đối
chứng chữ ký, chữ viết. Mục đích cũa giám định chữ ký, chữ viết là nhằm
giám định chữ ký, chữ viết đó có phải là của đương sự khơng? Thời gian ký,
viết? Có dấu hiệu tẩy, xóa khơng?...
Giám định sở hữu trí tuệ: Lĩnh vực SHTT là một lĩnh vực tương đối mới
và đặc thù ớ Việt Nam, do vậy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm
quyền SHTT gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định phạm vi bảo hộ,
hành vi xâm phạm, giá trị quyền SHTT, giá trị thiệt hại gây ra bởi hành vi
xâm phạm... Để đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình xử lý vụ
việc xâm phạm quyền SHTT, các cơ quan thực thi thường trưng cầu giám
định từ cá nhân/cơ quan/tổ chức giám định hoặc yêu cầu cung cấp ý kiến

chuyên môn từ cơ quan xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Ket quả giám định là
bằng chứng chuyên môn để chủ thể quyền sử dụng làm căn cứ yêu cầu cơ
quan nhà nước có thấm quyền bảo vệ mình, yêu cầu bên xâm phạm phải chấm
dứt hành vi xâm phạm, yêu cầu họ bồi thường thiệt hại; đế người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của mình. Đồng thời,
để người bị yêu cầu xử lý xâm phạm phản bác ý kiến cáo buộc xâm phạm của
phía bên kia trong tranh chấp cũng như ý kiến của cơ quan thực thi.
Giám định ADN là phân tích, so sánh những đoạn ADN tách chiết được
từ tế bào cúa cơ thể gồm: Máu, chân tóc, mơ, tinh dịch, dấu vết sinh học chứa
ADN. Được coi là phương pháp giám định hiện đại nhất từ trước đến nay để
truy nguyên cá thể. Ket luận ADN là căn cứ để Thẩm phán giải quyết các vụ
án truy nhận cha cho con, thừa kế...
Như vậy tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu, những căn cứ phân loại khác
nhau mà GĐTP được phân chia thành nhiều loại khác nhau. Việc phân loại
này có ý nghĩa trong cơng tác quản lý nhà nước về hoạt động GĐTP, xác định
trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cơ quan chủ quản. Hơn nữa, việc
phân loại này cũng giúp cơ quan THTT, đương sự lựa chọn cá nhân, cơ quan,
tố chức phù hợp để trưng cầu giám định, yêu cầu giám định.
1.4. Các điều kiện bảo đảm hoạt động giám định tu* pháp trong tố
tụng dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt “bảo đảm” nghĩa là “làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”, [22, tr.542]. Như
20


×