Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân từ thực tiễn tại toà án nhân dân tỉnh đồng tháp (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.02 MB, 97 trang )

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẢU............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÈ GIÃI QUYẾT TRANH CHẤP
LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN.................................................. 6

1.1.

Khái quát chung về tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết

tranh chấp lao động cá nhân................................................................. 6
1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân.................................................................... 6
1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân................................................. 12

1.2.

Nội dung quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về giái quyết

tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân........................... 19


1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân.... 19
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân ...21

1.2.3. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân................................................................................................... 25
1.2.4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa

án nhân dân.............................................................................................. 29
1.2.5. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân................................................................................................... 31

Kết luận chương 1..............................................................................................44


CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP....45

2.1.

Khái quát vê tình hình tranh châp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân tỉnh Đồng Tháp.................................................................... 45
2.2.

Thực tiễn giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân tỉnh Đồng Tháp....................................................................47
2.2.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp lao động cá

nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.............................................47

2.2.2. Những hạn chế trong giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại
Tòa án nhân dân tĩnh Đồng Tháp...........................................................50

2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong giải quyết tranh chấp lao
động cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp...............................62

Kết luận chuông 2.............................................................................................. 66

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VÈ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO

ĐỎNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI

TỒ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỊNG THÁP.....................................67
3.1.

u cầu hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân

tỉnh Đồng Tháp...................................................................................... 67

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về giải

quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân............... 71


3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về lao động.......................................................... 71

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại tòa án nhân dân.......................................................................... 75


3.3.

Một sô kiên nghị nhăm nâng cao hiệu quả giải quyêt tranh
chấp lao động cá nhân từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân tỉnh

Đồng Tháp.............................................................................................. 82
Kết luận chuơng 3.............................................................................................. 88

KÉT LUẬN......................................................................................................... 90
A
TÀI LIỆU THAM KHÁO............................................................................... 91


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLLĐ:

Bộ luật lao động

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

NLĐ:


Người lao động

NSDLĐ:

Người sữ dụng lao động

TCLĐ:

Tranh chấp lao động


MỞ ĐÀU

1. Tính câp thiêt của đê tài
Trong thời kỳ hiện nay, khi đất nước đang phát triển nên kinh tế thị

trường, xã hội ngày càng phát triến. Chính vi vậy, có nhiều sự tác động từ
nhiều yếu tố kinh tế - xã hội đến quan hệ lao động. Do đỏ, trong quá trình sử

dụng lao động đã xảy ra nhiều bất đồng về quyền, lợi ích, dẫn đến tranh chấp
giữa NLĐ với NSDLĐ xảy ra. Để đảm bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ,

cũng như NSDLĐ, pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện các quy định về
việc giải quyết các TCLĐ nói chung và lao động cá nhân nói riêng. Ngồi các

chế định giải quyết TCLĐ cá nhân như hòa giãi viên lao động, trọng tài lao

động thì chế định giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tịa án là công cụ pháp lý để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NLĐ và NSDLĐ, góp phần duy trì, ổn

định quan hệ lao động, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, từ thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp trong thời gian gần đây cho thấy số lượng các vụ án về TCLĐ
cá nhân ngày càng phức tạp. Song, qua công tác xét xử vẫn còn tồn tại nhiều

bất cập về mặt thể chế, cũng như còn nhiều vụ án của tòa cấp sơ thẩm phải
sửa hay phải kéo dài thời gian giải quyết. Chính vì vậy, quyền và lợi ích của

các bên khơng được đảm bảo một cách kịp thời. Đồng thời, gây ra nhiều tác

động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung.
Do TCLĐ cá nhân và giải quyết TCLĐ cá nhân là một vấn đề hết sức

quan trọng, luôn được đặt ra đối với hầu hết các nước trên thế giới. Vì vậy,
cần phải hồn thiện các quy định của pháp luật giải quyết TCLĐ cá nhân tại

Tòa án và nâng cao hiệu quả giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân.
Từ những lý do trên tác giả chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp lao

động cá nhân từ thực tiễn tại Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp” để nghiên


cứu, hy vọng răng đê tài sẽ góp phân nhỏ vào việc hoàn thiện các quy định

cùa pháp luật về giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án, cũng như nâng cao hiệu
quả áp dụng trong thực tiễn tại Tòa án nói chung và Tịa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Trong thời gian qua, các vấn đề về giải quyết TCLĐ cá nhân và đặc

biệt là thủ tục giải quyết tranh chấp cá nhân của Tòa án đã được nhiều nhà
khoa học, luật gia, cũng như có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,

cơng trình nghiên cứu. Đồng thời, đã có nhiều đề tài khoa học và bài viết liên
quan đến việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân đã được cơng bố

như: Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội

năm 2014 và năm 2020, Giáo trình Luật lao động Việt Nam của Khoa Luật,
Đại học Xã hội và nhân văn Quốc gia năm 2000; Sách tham khảo như: “Thủ

tục giải quyết các vụ án lao động theo Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả
Phạm Cơng Bảy, Nxb Chính trị Quốc gia năm 2006; Luận án tiến sĩ Luật học

“Tài phản lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam” do tác giả Lưu
Bình Nhưỡng thực hiện năm 2002, Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Công

Bảy về "Pháp luật về thủ tục giải quyết TCLĐ cả nhãn tại tòa án Việt
Nam"...', Luận văn thạc sĩ “Giải quyết TCLĐ cá nhản theo pháp luật Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Kim Anh, năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Giải

quyết TCLĐ cá nhân từ thực tiễn tại tòa án nhân dân tinh Quảng Bình ” của

tác giả Lê Minh Quyền, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về giải quyết
TCLĐ cả nhãn tại tòa án nhân dân và thực tiễn thi hành tại tòa án nhân dân

thành phố Hà Nội” của tác giả Vũ Thị Liên, năm 2018..... Bên cạnh đó, cịn
có rất nhiều bài nghiên cứu về TCLĐ nói chung và TCLĐ cá nhân nói riêng


trên các tạp chí chuyên ngành như: "Giải quyết TCLĐ cá nhãn tại Tịa án -

Một số bất cập và hướng hồn thiện " và "TCLĐ và giải quyết TCLĐ ở Việt
Nam - Một sổ vẩn đề lý luận và thực tiễn" năm 2005 của tác giả Lê Thị Hoài

2


Thu, "Giải quyết TCLĐ tại Tòa án nhân dân - Từ pháp luật đến thực tiễn và

một sổ kiến nghị", tạp chí Luật học số 10 của tác giả Phạm Cơng Bảy; Bình
luận các quy định về giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân trong

BLTTDS năm 2015 cùa Nguyễn Hữu Chí, Tạp chí Luật học số 12/2015; Bình
luận khoa học BLTTDS năm 2015, NXB Lao động năm 2016 do tác giả Đoàn

Tấn Minh, Nguyễn Ngọc Điệp thực hiện năm 2016;....
Qua đó có thế thấy, các cơng trình nêu trên ở mức độ khác nhau đều đã
đề cập đến giải quyết TCLĐ cá nhân tại tòa án nhân dân. Trong đó, bài viết
của tác giả Lê Thị Hồi Thu và sách tham khảo của tác giả Phạm Công Bảy...

là những cơng trình chun sâu về cơ chế giải quyết TCLĐ cá nhân tại tòa án

đồng thời đưa ra hướng giải quyết những bất cập còn tồn tại trong việc giải
quyết TCLĐ cá nhân tại tòa án nhân dân theo quy định của BLTTDS.

Như vậy, có thể nói hiện nay có rất nhiều bài nghiên cứu về giải quyết
TCLĐ nói chung và giải quyết TCLĐ cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, luận văn


tiếp tục kế thừa các cơng trình đi trước nhưng tập trung nghiên cứu, đánh giá
thực trạng giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân tinh Đồng Tháp. Vì

vậy tơi chọn đề tài “Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân từ thực tiễn tại
Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp9 9 làm luận văn thạc sĩ của mình với mong
muốn góp phần hồn thiện pháp luật về giải quyết TCLĐ cá nhân và nâng cao

hiệu quả TCLĐ lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân tình Đồng Tháp.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên círu

Đề tài nghiên cứu các vấn đề về lý luận về TCLĐ cá nhân và giải
quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án. Đồng thời nghiên cứu thực trạng việc giải
quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Qua đó đưa ra

những kiến nghị, giải pháp nhàm hoàn thiện các quy định của pháp luật về

TCLĐ cá nhân và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn tại Tòa án nhân
dân tỉnh Đồng Tháp.

3


3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu trong phạm vi quy định của pháp luật

lao động tại BLLĐ năm 2019 và BLTTDS năm 2015. Đồng thời, nghiên cứu
việc giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong giai


đoạn 2016 - 2020.

4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu, nhiệm vụ tống quan

Đề tài khái quát một số vấn đề về giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án,

thủ tục giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án theo quy định của pháp luật hiện

hành. Đồng thời, phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong

giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Qua đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết TCLĐ cá nhân

tại Tòa án trên thực tế.
4.2. Mục
tiêu,' nhiệm
vụ• cụ• thể



Một là, nghiên cứu, khái quát nhũng những vấn đề lý luận về TCLĐ
cá nhân.

Hai là, nghiên cứu, tìm hiếu những quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về trình tự, thù tục giải quyết TCLĐ cá nhân.

Ba là, đánh giá, phân tích thực tiễn việc giải quyết các TCLĐ cá nhân


tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Bốn là, đề xuất, kiến nghị các giải pháp giúp hoàn thiện các quy định

của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn tại Tịa án nói
chung và Tịa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu cùa đề tài

Đe thực
hiện
mục
tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt
ra,X Luận
văn được
thực







hiện chủ yếu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin

với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng và Nhà

4


nước ta vê quyên con người, quyên công dân đê giải quyêt các vân đê liên quan


đến việc nghiên cứu pháp luật về giải quyết TCLĐ cá nhân theo pháp luật Việt
Nam. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm vận dụng vào điều kiện thực tế giải quyết

TCLĐ cá nhân qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp

nghiên truyền thống như: phân tích, tổng hợp; đánh giá; so sánh, đối chiếu;
thống kê; hệ thống nhằm làm sáng tỏ những yêu cầu mà đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã đề ra, đề tài sẽ góp phần làm hồn

thiện hơn những vấn đề về lý luận về TCLĐ cá nhân và giải quyết các TCLĐ
cá nhân tại Tòa án. Đồng thời, từ việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành

pháp luật về giải quyết các TCLĐ cá nhân tại cơ quan Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp, đề tài đã chỉ ra được những tồn tại, hạn chế, cũng như nguyên

nhân của tồn tại, hạn chế đó. Từ đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật có liên quan đến TCLĐ cá nhân, cũng như nâng cao hiệu
quả giải quyết các vụ việc TCLĐ cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
r

r


Chương 1: Một sô vân đê lý luận vê tranh châp lao động cá nhân và

quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp lao động cá
nhân tại Tòa án.

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa
án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp

luật về giài quyết tranh chấp lao động cá nhân tại tòa án và nâng cao hiệu quả

giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

5


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO
ĐỘNG CÁ NHÂN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VÈ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG CÁ NHÂN TẠI TÒA ÁN
1.1. Khái quát chung về tranh chấp lao động cá nhân và giải quyết

tranh chấp lao động cá nhân
1.1.1. Tranh chấp lao động cá nhân
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp lao động cá nhân


Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử
dụng lao động và trả lương giữa NLĐ với NSDLĐ và các tổ chức đại diện cùa

các bên, cơ quan nhà nước có thấm quyền. Chính vì vậy, khi tham gia quan hệ
lao động ln có mối quan hệ tương tác giữa một bên là NSDLĐ và một bên
là người có sức lao động. Khi xác lập quan hệ lao động, các bên phải thoả

thuận với nhau về việc làm, thời giờ làm việc, tiền lương và các điều kiện lao

động khác. Qua đó, các bên thể hiện mục đích của mình từ việc th và cho
th sức lao động.
Tuy nhiên, trong quá trình tham gia quan hệ lao động một tất yếu khách

quan trong nền kinh tế thị trường là khi bên mua hoặc bán sức lao động cho
rằng bên kia vi phạm thoà thuận đã ký kết hay có thể một trong hai bên muốn

thay đổi, bổ sung hoặc gia hạn hợp đồng, thoả ước. Vì vậy, không thể tránh
khỏi các xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp. Do đó, chế định giải quyết TCLĐ

sẽ là cơng cụ pháp lý hữu hiệu và quan trọng để giải quyết các mâu thuẫn, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của NLĐ và NSDLĐ.

Trên thế giới hiện nay, vấn đề TCLĐ và giải quyết TCLĐ được pháp

luật ở hầu hết các nước đặt ra và quan tâm. Tuy nhiên, do điều kiện, đặc điểm
kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia là khác nhau mà quan niệm về vấn đề

này cũng có sự khác biệt.

6



Ví dụ: Tại Anh định nghĩa chính thức đâu tiên vê TCLĐ được quy định
trong Luật Tranh chấp lao động năm 1906 của Anh và được ghi nhận trong

Luật Tòa án lao động năm 1919 của Anh. Mục 8 của đạo luật này quy định:

TCLĐ có nghĩa là bất kỳ tranh chấp nào giữa NSDLĐ và NLĐ liên

quan đến việc tuyển dụng lao động hay không tuyển dụng lao động
hay các điều khoản thỏa thuận về thuê mượn lao động hoặc liên
quan đến các điều kiện lao động của bất kỳ người nào [27].

Định nghĩa trên đã được tiếp thu và đưa vào pháp luật của nhiều nước

trên thế giới, nhất là những nước từng là thuộc địa của Anh.

Tại Mỹ, Theo Mục 2.9 Luật Quan hệ lao động quốc gia của Hoa Kỳ,
thuật ngữ “TCLĐ” được hiểu là:

Bất kỳ tranh cãi nào về các điều khoản, thời hạn hay điều kiện về
thuê mướn lao động, hay liên quan đến vấn đề tổ chức hoặc đại diện
trong thương lượng, quyết định, duy trì, thay đổi hay sơ lượng dàn

xếp các điều khoản hay điều kiện về thuê mướn lao động, bất kể là
các bên tranh chấp có phải là các bên trong một quan hệ lao động

hay không [26, tr. 53],
Tại Thái Lan, theo Mục 5 Luật quan hệ lao động năm 1975 của nước này:


TCLĐ là tranh chấp giữa NSDLĐ và NLĐ liên quan đến các điều

kiện thuê mướn lao động [30].
Ở Việt Nam, thuật ngữ về TCLĐ trước đây được hiểu là các “xích

mích” giữa cơng nhân và chủ sử dụng lao động và cách hiểu này được duy trì

khá lâu ở Việt
Nam và thừa nhận
xích mích như là một
vấn đề của quan
hệ•



JL

lao động. Cụ thể:
Tại Sắc lệnh 64/SL ngày 08/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hồ có quy định về nhiệm vụ của Nha thanh tra lao động là “dàn

xếp những xích mích giữa chủ và công nhân” (Điều thứ tư). Hay, sắc lệnh 29/SL

7


ngày 12/3/1947 quy định “Sẽ đê cho trọng tài xét xử những sự xích mích xảy ra
do việc thi hành khế ước” (Điều thứ bốn mươi chín). Hoặc sắc lệnh 95/SL ngày

13/8/1949 quy định nhiệm vụ của Thanh tra lao động là “dàn xếp những sự xích

mích xảy ra giữa chủ hay cơ quan dùng công nhân và công nhân.

Đến năm 1985, tại Thông tư liên ngành số 02/TT-LN ngày 02-10-1985
của Tòa án nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ
Lao động và Tổng cục Dạy nghề thì thuật ngừ “TCLĐ” bắt đầu được sử dụng

chính thức.

Tuy nhiên, phải đến năm 1994 khi BLLĐ ra đời, nước ta mới có một
định nghĩa chính thức về TCLĐ. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 157, BLLĐ 1994
thì: “TCLĐ là những tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền

lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao
động, thỏa ước lao động tập thê và trong quá trình học nghề”. Qua nội dung

định nghĩa chúng ta có thể thấy rằng định nghĩa đã sử dụng liệt kê các loại
tranh chấp. Chính vì vậy, khơng thể liệt kê hết, đầy đủ các loại tranh chấp và

không thể bao hàm hết các tranh chấp được coi là TCLĐ.
Định nghĩa về TCLĐ đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung năm

2006. Theo đó, khoản 1 Điều 157 BLLĐ đã được sửa đổi quy định: “TCLĐ là

những tranh chấp về quyền và lợi ích phát sinh trong quan hệ lao động giữa
NLĐ, tập thể lao động với NSDLĐ ”. Với định nghĩa này TCLĐ đã được phân

loại thành TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể.

Đen năm 2012, khi BLLĐ năm 2012 được ban hành thì TCLĐ được hiểu
là: “Tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lọi ích phát sinh giữa các bên trong quan


hệ lao động. TCLĐ bao gồm TCLĐ cá nhân giữa NLĐ với NSDLĐ và TCLĐ tập

thê giữa tập thê lao động với NSDLĐ" [11, Điều 3, Khoản 7], Có thể thấy với
định nghĩa này phạm vi chủ thể của TCLĐ đã có sự thay đổi, rộng hơn so với

BLLĐ năm 1994 và năm 2006. Sở dĩ có sự mở rộng như vậy là do lần đầu

8


tiên quan hệ cho thuê lại lao động được quy định tại BLLĐ năm 2012. Đông
thời, để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thế khi tham gia

quan hệ lao động nên cụm từ “giữa NSDLĐ và NLĐ” tại BLLĐ năm 2006 đã

được thay thế bàng cụm từ “giữa các bên trong quan hệ lao động”.
BLLĐ năm 2019, TCLĐ đã được thay đổi, quy định cụ thể những tranh

chấp được xem là TCLĐ đề phù họp hơn với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước. Cụ thể, tại Điều 179 BLLĐ năm 2019 quy định:

TCLĐ là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, lợi ích phát sinh giữa các
bên trong q trình xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt quan hệ lao

động; tranh chấp giữa các tổ chức đại diện NLĐ với nhau; tranh chấp
phát sinh từ quan hệ có liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.

Qua khái niệm về TCLĐ trong BLLĐ năm 2019 có thể thấy có sự khác


biệt lởn so với các quy định của pháp luật trước đây. Khái niệm lần này đã giải
thích TCLĐ một cách cụ the hơn. Đồng thời, quy định khá rõ ràng các loại
TCLĐ giúp NLĐ và NSDLĐ xác định dễ dàng hơn quan hệ tranh chấp và từ đó

bảo vệ được quyền và lợi ích họp pháp của mình khi có tranh chấp phát sinh.
Qua định nghĩa của các nước trên thế giới, cũng như của Việt Nam về
TCLĐ có thể thấy cho dù có sự khác biệt về định nghĩa TCLĐ ở mồi quốc
gia. Nhưng nhìn chung, các quốc gia đều TCLĐ đều xuất phát từ những mâu

thuẫn, xung đột giữa các bên tham gia quan hệ lao động và các chủ thể có
liên quan khác.

Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa TCLĐ cá nhân

như sau: “TCLĐ cá nhân là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát
sinh giữa NLĐ và NSDLĐ về các vấn đề trong quan hệ lao động hoặc quan
hệ có liên quan đến quan hệ lao động ”.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp lao động cá nhân

Do tính chất đặc thù của quan hệ lao động nên các TCLĐ cá nhân cũng

9


có tính đặt thù riêng giúp phân biệt nó với các tranh châp khác. Theo đó,

TCLĐ cá nhân vừa mang những đặc điểm của một TCLĐ nói chung vừa có
những đặc điểm riêng biệt so với TCLĐ tập thể. Cụ thể:

Thứ nhất, TCLĐ cá nhân thường phát sinh từ những mâu thuẫn vốn có

giữa các hên trong quan hệ lao động.
Trong quan hệ lao động, để hoạt động sản xuất được diễn ra hiệu quà

và thực hiện hiện họp đồng đâ giao kết, NSDLĐ phải đảm bảo cho NLĐ các

điều kiện tối thiểu để có thể làm việc như trang thiết bị phục vụ sản xuất, bảo
hộ lao động và các chế độ đãi ngộ, tiền lương, trợ cấp ... đối với NLĐ. Tuy

nhiên, không phải lúc nào NSDLĐ cũng đáp ứng đầy đủ các điều kiện lao
động hoặc trả đầy đủ các chế độ mà NLĐ được hưởng theo quy định của pháp

luật. Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp NLĐ vi phạm các quyền và lợi ích

họp pháp của NSDLĐ như NLĐ trong quá trình sản xuất làm hư hỏng thiết
bị, máy móc, trang thiết bị sản xuất... hoặc NLĐ chấm dứt hợp đồng lao động

trái pháp luật ... . Có thể thấy tất cả các yếu tố này vốn đã tồn tại sẵn trong
quan hệ lao động. Vì vậy, khi một trong hai bên trong quan hệ lao động không
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định cùa pháp luật hay tuân thủ các quy định

mà hợp đồng, giao kết đã đề ra thì việc phát sinh mâu thuẫn dẫn đến TCLĐ
giữa NSDLĐ và NLĐ là tất yếu và có thể xảy ra bất cử lúc nào.

Thứ hai, một bên chủ thể của TCLĐ cá nhân là cá nhân NLĐ hoặc là

một nhóm NLĐ

Khác với TCLĐ tập thể, một bên chủ thể trong TCLĐ tập thể là tập thể
NLĐ và thường có sự tham gia của Cơng đồn. Tuy nhiên, TCLĐ cá nhân là


tranh chấp giữa cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ với NSDLĐ. Trong
TCLĐ cá nhân nếu có sự tham gia của một nhóm NLĐ thì mồi cá nhân NLĐ
có một yêu cầu riêng, cụ thể đối với NSDLĐ chứ khơng có sự liên kết nào

giữa các thành viên trong nhóm NLĐ về quyền và lợi ích. Pháp luật về lao

10


động Việt Nam hiện nay không quy định bao nhiêu người khi tham gia TCLĐ
theo nhóm thì coi là TCLĐ cá nhân. Bên cạnh đó, khi phân biệt TCLĐ là loại

TCLĐ cá nhân hay TCLĐ tập thể không chỉ dựa vào yếu tố chủ thể mà cịn
dựa vào mục đích khi tranh chấp.

Thứ ha, nội dung của TCLĐ cả nhân là những tranh chấp liên quan
đến quyền, lợi ích và nghĩa vụ của một cá nhãn NLĐ hoặc một nhóm NLĐ

hoặc NSDLĐ liên quan đến quan hệ lao động.
Nội dung của TCLĐ cá nhân thường liên quan đến quyền, nghĩa vụ và

lợi ích của cá nhân NLĐ hoặc một nhóm NLĐ phát sinh trong quá trình áp
dụng các quy định của pháp luật vào từng quan hệ cụ thể hay những vấn đề đã

ghi nhận trong hợp đồng như: việc làm, tiền lương, thời giờ nghỉ ngơi, bảo
hiểm xã hội, dạy nghề ... . Vì vậy, TCLĐ cá nhân thường phát sinh trong

những trường hợp có sự vi phạm pháp luật.
Song, nội dung của TCLĐ tập thể lại là những vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích của tập thể hoặc có thể phát sinh từ những vấn đề mà pháp


luật chưa quy định hoặc phát sinh từ những vấn đề mà các bên đã thòa thuận,
pháp luật đã quy định từ trước. Như vậy, TCLĐ tập thể có thể phát sinh ngay
cả khi khơng có sự vi phạm pháp luật lao động.
Th ứ tư, về tính chất của TCLĐ cá nhân

Có thể thấy TCLĐ cá nhân là TCLĐ nó chỉ mang tính chất đơn lẻ,
khơng có sự thống nhất ý chí và sự gắn kết giữa những NLĐ mà khơng mang

tính tổ chức, khơng có quy mơ, khơng phức tạp như TCLĐ tập thể. Chính vì
vậy, sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp hay sự ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế xã hội chỉ ở mức độ nhất định.

Thứ năm, về sự tham gia của tổ chức cơng đồn
Trong giải quyết TCLĐ, quyền tham gia giải quyết tranh chấp của Cơng

đồn được coi là một trong những ngun tắc giải quyết TCLĐ cá nhân được

11


pháp luật quy định. Khác với TCLĐ tập thê Công đoàn tham gia với tu cách là
một bên chủ thể tranh chấp thì trong TCLĐ cá nhân, tổ chức Cơng đồn tham

gia với tư cách bão vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NLĐ và đề nghị NSDLĐ
xem xét yêu cầu của NLĐ. Bên cạnh đó, trong quan hệ lao động nói chung và

trong việc TCLĐ cá nhân nói riêng thì Cơng đồn cịn có vai trị lớn trong việc
vận động và tồ chức NLĐ nhằm tạo lên sức mạnh của cả tập thể NLĐ.


Thứ sáu, TCLĐ cá nhân có khả năng chuyến hóa thành TCLĐ tập thê
Trên thực tế trong quan hệ lao động khi xảy ra tranh chấp, bất kể quyền,

lợi ích của cá nhân có liên quan tới quyền, lợi ích của tập thể lao động hay khơng

thì việc tranh chấp giữa cá nhân NLĐ với NSDLĐ cũng đều dẫn đến TCLĐ tập
thể. Bởi lẽ, giữa TCLĐ cá nhân và TCLĐ tập thể có ranh giới rất gần. TCLĐ cá

nhân có thể chuyển thành TCLĐ tập thể khi mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp

trở lên căng thẳng, xung đột của các bên có thể lan truyền sang tập thể từ đó trở
thành một TCLĐ tập thể. Mà cụ thể hon là khi NSDLĐ vi phạm quyền và lợi ích

của NLĐ (hoặc nhóm nhỏ NLĐ) nhưng sau đó vi phạm lan rộng ra cả tập thể lao

động. Khi đó, TCLĐ giữa NSDLĐ với cá nhân NLĐ đã chuyển thành TCLĐ

giữa NSDLĐ với tập thể NLĐ. Một khía cạnh khác có thể làm cho TCLĐ cá
nhân chuyển thành TCLĐ tập thể là khi quyền và lợi ích có liên quan hoặc đồng

thời cũng là quyền và lợi ích của tập thể lao động.

1.1.2. Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân
1.1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Khác với việc giải quyết tranh chấp khác như dân sự hay thương mại,

giải quyết TCLĐ nói chung và giải quyết TCLĐ cá nhân nói riêng ngồi việc
khơi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của các bên cịn nhằm củng cố và


duy trì quan hệ lao động. Có thể thấy, mặc dù có mâu thuẫn, bất đồng, tranh

chấp song các bên vẫn cần nhau để đạt được mục đích của mình trong quan
hệ lao động và quan trọng hơn là vấn đề duy trì quan hệ lao động đặc biệt có ý

12


nghĩa với NLĐ. Chính vì thê, giải qut TCLĐ cá nhân còn nhăm giúp các
bên ổn định quan hệ lao động, tạo điều kiện cho các bên trong quan hệ lao

động cùng hợp tác và phát triển.
Tại Việt Nam hiện nay có nhiều quan điểm về giải quyết TCLĐ nói
chung và giải quyết TCLĐ cá nhân nói riêng. Cụ thể:

Theo Giáo trình Luật lao động Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản năm 2020 thì giải quyết TCLĐ cá nhân theo nghĩa hẹp là việc

các tổ chức, cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những thủ
tục luật định nhằm giải quyết tranh chấp phát sinh giữa cá nhân NLĐ về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ và lợi ích cúa hai bên trong quan hệ lao động.

Đồng thời, từ đó khơi phục các quyền và lợi ích họp pháp đã bị xâm hại, xố
bở tình trạng bất trị, mâu thuẫn giữa NLĐ và NSDLĐ nhằm duy trì và cùng

cố quan hệ lao động, đảm bảo sự ồn định trong sản xuất. Theo nghĩa rộng
hơn thì giải quyết TCLĐ cá nhân là những hoạt động được tiến hành nhằm

dàn xếp những bất ổn trong quan hệ lao động, với mục đích để các bên có


thể tiếp tục thực hiện quan hệ lao động một cách hài hồ nhất. Sự dàn xếp

này có thể do các bên tự thương lượng, thỏa thuận hay có sự tham gia của
một chủ thể trung gian hoà giải, đưa ra phán quyết về các nội dung tranh
chấp. Như vậy, nếu theo nghĩa hẹp, định nghĩa về giải quyết TCLĐ cá nhân

mới tập trung nhiều vào vai trò của bên thứ ba là các cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền giải quyết TCLĐ cá nhân mà chưa đề cập tới vai trị của
chính các chủ thể tranh chấp. Ở phạm vi rộng hơn, định nghĩa đã đề cập vai

trò của chính các chủ thể trong giải quyết TCLĐ. Việc giải quyết TCLĐ đều
phải hướng tới các mục đích cơ bản như: nhàm bảo vệ quyền và lợi ích của
các bên trong quan hệ lao động, lợi ích chính đáng của NLĐ; củng cố và duy

trì quan hệ lao động, phịng ngừa tranh chấp mới phát sinh; góp phàn hồn
thiện pháp luật lao động ... [27].

13


Một quan điêm cho răng:

Giải quyết TCLĐ cá nhân là việc các cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết

những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân NLĐ với NSDLĐ về việc

thực hiện quyền nghĩa vụ và lợi ích cùa hai bên trong quan hệ lao
động, khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm hại; xóa bỏ


tình trạng bất trị, mâu thuẫn giữa NLĐ và NSDLĐ, duy trì và củng
cố quan hệ lao động, đảm bảo sự ổn định trong sản xuất [ 1, tr. 25]

Qua đó, có thể thấy hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về giải

quyết TCLĐ cá nhân nhưng qua thực tiễn q trình giải quyết TCLĐ nói
chung và giải quyết TCLĐ cá nhân nói riêng, cùng với sự đối chiếu các chế

định về giải quyết các tranh chấp khác thì có thể hiểu: “Giải quyết TCLĐ cả

nhãn là việc các cá nhãn, tô chức hoặc cơ quan nhà nước có thâm quyền tiến
hành những trình tự, thủ tục nhất định đê giải quyết những mâu thuẫn, bất
đồng phát sinh giữa các bên tranh chấp trong quan hệ lao động ”.
1.1.2.2. Mục đích của giải quyết tranh chấp lao động cá nhân

Khi giải quyết TCLĐ lao động nói chung và giải quyết TCLĐ cá nhân
nói riêng được thực hiện thành cơng thì nó sẽ có tác dụng tích cực khơng

những chỉ đối với các bên tranh chấp mà còn tác dụng đối với Nhà nước. Bởi
mục đích của việc giãi quyết TCLĐ cá nhân không chi xác định quyền, lợi ích

và nghĩa vụ của các bên tranh chấp mà còn nhằm xóa bỏ những mâu thuẫn

giữa các bên, tạo điều kiện để các bên tranh chấp tiếp tục quan hệ ổn định, lâu
dài. Từ đó, tác động tích cực đến đời sống xã hội của đất nước. Chính vì thế
việc giải quyết thành công TCLĐ cá nhân sẽ mang lại ý nghĩa hết sức to lớn:
Th ứ nhất, giải quyết TCLĐ cả nhân sẽ duy trì và củng cố mối quan hệ lao

động giữa NSDLĐ và NLĐ nhằm góp phần đảm bảo sự ơn định trong sản xuất.


Chính tính chất gay gắt của TCLĐ sẽ dẫn đến việc chấm dứt của quan

14


hệ lao động và giải quyêt TCLĐ cá nhân sẽ tạo lập sự ơn định và duy trì quan
hệ lao động. Từ đó, NLĐ và NSDLĐ sẽ hiểu nhau hơn khi các TCLĐ được

giãi quyết thành công, đàm bảo sự hài hòa, ồn định trong quan hệ lao động.
Trong quan hệ lao động, khi có phát sinh tranh chấp, nếu khơng được giải
quyết kịp thói thì quan hệ lao động có nguy cơ chấm dứt, trong khi NSDLĐ

vì muốn sử dụng sức lao động để tiến hành săn xuất kinh doanh sẽ phải thiết

lập mối quan hệ lao động mới. Cịn NLĐ để tìm kiếm thu nhập duy trì nhu
cầu ốn định cuộc sống của bàn thân và gia đình họ cũng phải thiết lập một

mối quan hệ lao động mới. Như vậy, cả NLĐ và NSDLĐ đều mất một khoảng

thời gian nhất định để thực hiện việc làm này và chính điều này sẽ làm tổn hại
đến lợi ích của cả hai bên trong quan hệ lao động. Vì thế nếu giải quyết dứt

điểm TCLĐ cá nhân sẽ giúp ngăn chặn, hạn chế và xóa bỏ tình trạng mất ổn

định trong duy trì quan hệ lao động.
Thứ hai, giải quyết TCLĐ cá nhãn sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ lao động, góp phần ơn định đời song xã hội.

Việc giải quyết TCLĐ cá nhân thành công sẽ giúp bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng cho cả NLĐ và NSDLĐ. Chính điều này góp


phần hết sức to lớn trong việc ổn định, phát triển sản xuất, tạo lợi nhuận cho
NSDLĐ. Từ đó, là cơ sở cho các quyền, lợi ích của NLĐ được thực hiện và

đồng nghĩa với việc các lợi ích của xã hội cũng sẽ được đảm bảo hơn.
Thứ ba, giải quyết TCLĐ cá nhân sẽ hạn chế những TCLĐ mới có thể
xảy ra

Trong quan hệ lao động, TCLĐ tồn tại một cách khách quan cùng với

quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Việc tìm cách để hạn chế TCLĐ hay hạn

chế hoặc ít ra là thu xếp nó một cách ổn thỏa là yêu cầu cấp thiết của các quốc
gia. Một trong những công cụ hữu hiệu để hạn chế tranh chấp hay giải quyết
dứt điểm tranh chấp đó là quy định các phương thức để giải quyết các tranh

15


chấp. Chính vì thế, trên thực tiễn q trình giải quyết TCLĐ cá nhân, đặc biệt
là thơng qua q trình thương lượng, hòa giải các bên sẽ hiểu nhau hơn, do đó

mỗi khi TCLĐ xảy ra các bên sẽ nhìn vào thực trạng vấn đề, cũng như thực
tiễn các vụ TCLĐ cá nhân đã xảy ra, từ đó rút kinh nghiệm cho mình để cùng

nhau tìm ra được tiếng nói chung, đi đến thống nhất làm hài lịng lợi ích của
tất cả các bên trong quan hệ tranh chấp. Tuy nhiên, để đạt được kết quà cao
nhất của quá trình giải quyết TCLĐ cá nhân các bên phải tuân thủ đúng các

nguyên tắc, quy định của pháp luật, nếu không sẽ phát sinh những hệ lụy tiêu


cực không thể ngờ tới.

Thứ tư, giải quyết TCLĐ cả nhãn sẽ góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật về lao động cũng như pháp luật về giải quyết TCLĐ.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến TCLĐ là sự nhận thức không
đầy đủ về các quy định của pháp luật hoặc cố ý làm trái các quy định của
pháp luật lao đông [6, tr. 7]. Pháp luật về lao động ở nước ta hiện nay tuy đã
khá hồn thiện nhưng vẫn cịn nhiều quy định chồng chéo, chưa cụ thể, chưa

đáp ứng kịp thời các quan hệ tranh chấp phát sinh trong thực tiễn. Điển hình

như các quy định về an tồn lao động, chế độ bảo hiềm ... . Vì vậy trên cơ sở
thực tiễn giải quyết TCLĐ cá nhân, cùng với việc đánh giá, tổng kết quá trình

giải quyết TCLĐ của cơ quan cỏ thẩm quyền có thể đúc kết đưa ra những hạn
chế thiếu sót, bất cập tại các quy định của pháp luật. Từ đó, có biện pháp để

khắc phục những hạn chế, bất cập.
ỉ. 1.2.3. Phương thức giải quyêt tranh châp lao động cá nhân

Thứ nhất, giải quyết TCLĐ cả nhân thông qua thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp mà các bên tranh

chấp tự ngồi lại với nhau, cùng đối thoại với nhau một các trực tiếp nhằm đạt
được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp mà không cần đến bên thứ ba
tham gia trong quá trình giải quyết. Trên thực tế phương thức giải quyết

16



TCLĐ cá nhân băng phương thức thương lượng được sử dụng khá rộng rãi và
phổ biến. Trong quá trình thương lượng, các bên tranh chấp sẽ cùng bàn bạc
và thảo luận các vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp. Từ đó, tự mình đưa ra

những biện pháp để đi đến thống nhất giải quyết các tranh chấp. Phương thức
giải quyết TCLĐ bằng thương lượng không chịu sự ràng buộc bởi các quy

định pháp lý, không cần phải tuân thú theo trình tự thủ tục bắt buộc hay
khơng phải chịu sự tác động của bên ngoài nào nên phương thức này đã tạo ra
sự linh hoạt mềm dẻo trong giài quyết TCLĐ.

Bên cạnh những ưu điểm, thì phương thức giải quyết TCLĐ bằng
phương thức thương lượng còn tồn tại một số hạn chế như: theo pháp luật

nước ta hiện hành phương thức này chỉ được coi như một nguyên tắc giải
quyết TCLĐ mang tính tự nguyện khơng bắt buộc khi giải quyết. Vì vậy,

khơng có một trình tự thủ tục nào quy định. Đồng thời, việc tuân thủ các cam
kết đã được thương lượng hoặc điều kiện ràng buộc khi các bên không thực
hiện cam kết đã đưa ra là vấn đề hạn chế của phương thức này.

Mặt khác, do thương lượng có tính chất tự nguyện nên thành cơng của

phương thức này phụ thuộc rất lớn vào thiện chí của các bên trong quá trình
thương lượng, việc theo đuổi lợi ích riêng của các bên sẽ dẫn tới việc các bên

khó thống nhất cách giải quyết nội dung tranh chấp, nếu các bên thiếu thiện
chí, q trình thương lượng sẽ rơi vào bể tắc [3, tr. 3].


Thứ hai, giải quyết TCLĐ cá nhân thơng qua hịa giải

Hịa giải là phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân được thực hiện giữa
các bên tranh chấp dựa trên sự thỏa thuận, bàn bạc trên tinh thần tự nguyện, tự

giác với sự tham gia, hướng dẫn của bên thứ ba độc lập là Hịa giải viên lao

động giúp các bên tranh chấp tìm ra hướng giải quyết tốt nhất cho những
quyền và lợi ích đang tranh chấp trong quan hệ lao động.

Do phương thức hịa giãi có sự tham gia của bên thứ ba nên đã tạo cho

17


q trình hịa giải có bâu khơng khí cởi mở hơn, các bên tranh châp hiêu nhau
hơn và dễ dàng trình bày quan điểm của mình. Nếu hịa giải thành cơng sẽ mang
lại rất nhiều lợi ích như rút ngắn được q trình tố tụng, giảm bớt cơng sức, chi

phí, thời gian, đảm bảo bí mật và uy tín cho các bên tranh chấp. Bên cạnh đó,
việc hịa giải thành công sẽ giúp cho các bên tranh chấp hiếu và thơng cảm lẫn

nhau, góp phần vào việc khơi phục mối quan hệ lao động. Ngồi ra, trong trường

họp hịa giải khơng thành, hoạt động hịa giải vẫn có tác dụng giúp các bên kìm

chế mâu thuẫn và khơng làm cho tranh chấp trở nên phức tạp hơn.
Bên cạnh, những thuận lợi phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân
thơng qua hịa giải cũng còn những hạn chế như thỏa thuận đạt được trong


hịa giải khơng có tính chất bắt buộc thi hành. Vì vậy, dù hịa giải thành
nhưng nếu một trong hai bên khơng thực hiện theo thỏa thuận thì mục đích
cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp khơng đạt được.

Thứ ba, giải quyết TCLĐ cá nhân thông qua Hội đồng trọng tài lao động.
Hội đồng trọng tài lao động là việc bên thứ ba tiến hành giải quyết

TCLĐ theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật và
phán quyết của trọng tài lao động mang tính bắt buộc đối với tất cả các bên.
về ưu điểm, phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân bằng trọng tài sẽ

đảm bảo tối đa quyền và lợi ích của các bên. Cụ thế, ý chí của các bên ln

được tơn trong trong q trình giải quyết. Đồng thời, phương thức này có tính
chất ràng buộc các bên tranh chấp về mặt pháp lý, khi quyết định của trọng tài
có hiệu lực thì bắt buộc các bên phải thực hiện nếu không sẽ bị cưỡng chế

bằng quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, trình tự thủ tục khi giải quyết TCLĐ
cá nhân bằng trọng tài thường đơn giản, linh hoạt giúp cho tranh chấp được

giải quyết nhanh gọn. Ngoài ra, việc lựa chọn phương thức giải quyết TCLĐ
cá nhân bằng trọng tài sẽ giúp bảo vệ bí mật kinh doanh và góp phần tăng

cường pháp chế.
Tuy nhiên, thành viên của Hội đồng trọng tài là do Chủ tịch ủy ban
18


nhân dân tỉnh bố nhiệm từ những người hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm

trong lĩnh vực quan hệ lao động, có uy tín và cơng tâm theo đề cử. Vì vậy,

tính chun sâu trong giải quyết TCLĐ cá nhân chưa cao, điều này dẫn đến
hạn chế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích cùa các bên tranh chấp. Ngoài ra,

đây chưa phải là phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân dứt điểm.
Thứ tư, giải quyết TCLĐ cả nhân thơng qua Tịa án

Giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tịa án là phương thức giải quyết tranh
chấp được tiến hành theo những trình tự, thủ tục tổ tụng chặt chẽ theo quy
định của pháp luật. So với các phương thức khác, thì phương thức giải quyết
tranh chấp tại Tịa án có nhiều ưu điểm nối bật như: là phương thức sẽ giải

quyết được dứt điếm TCLĐ, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong tranh
chấp, đồng thời góp phần vào việc ổn định sản xuất. Trong giải quyết TCLĐ
cá nhân bằng Tòa án, những phán quyết đưa ra được đảm bảo bằng sức mạnh

cưỡng chế của Nhà nước. Vì vậy, đảm bảo các phán quyết được thi hành
trong thực tế nhàm đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ

lao động. Tuy nhiên, phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân bằng Tịa án thì
thủ tục phức tạp hơn, tốn kém thời gian, tiền bạc của các bên. Đồng thời, nó

sẽ làm mối quan hệ của các bên tranh chấp căng thẳng hơn.
Qua đó có thể thấy mỗi phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân đều có
những ưu điếm, hạn chế khác nhau. Vì vậy, tùy thuộc vào tùy thuộc vào mức

độ, tính chất của tranh chấp và các quy định của pháp luật mà các bên có thế
lựa chon phương thức giãi quyết là thương lượng, hòa giải, trọng tài lao động


hay khởi kiện tại Toà án.
1.2. Nội dung quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết

tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án nhân dân

1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án

nhân dân
Giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án là phương thức giải quyết được tiến

19


hành theo những trình tự, thủ tục tơ tụng chặt chẽ. Giải qut TCLĐ cá nhân tại

Tịa án góp phần giải quyết dứt điểm TCLĐ, tạo điều kiện thuận lợi để ổn định
quan hệ lao động, bảo vệ quyền, lợi ích của các bên trong tranh chấp, đồng thời
ổn định sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Giải quyết TCLĐ cá nhân tại

Tòa án đuợc tiến hành bởi những Thẩm phán được đào tạo chuyên sâu, có kinh
nghiệm thực tiễn, do đó có khả năng bảo đảm tính chính xác, đúng pháp luật;

Những phán quyết của tòa án trong giải quyết TCLĐ cá nhân được đảm bảo thi

hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, do đó bảo đảm quyền, lợi ích
của các bên trong QHLĐ. Thủ tục xét xử và ra phán quyết vụ TCLĐ cá nhân là

thủ tục đon giản, đề cao mục tiêu vi sự ổn định của quan hệ lao động [2, tr. 15].
Theo Giáo trình Luật lao động Việt Nam của trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản năm 2020 thì Giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án là phương


thức giải quyết do Tòa án, với tư cách là cơ quan tài phán mang quyền lực nhà
nước tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định và phán quyết được bảo đảm
thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước [27].

Có thể thấy nếu như thương lượng là phương thức giải quyết TCLĐ chỉ
do hai bên tranh chấp tự tiến hành thì hồ giải, thì trọng tài và giải quyết tranh

chấp tại Tòa án nhân dân là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của chủ thế thứ ba trong quá trình giải quyết. Song tuy cùng có sự tham gia
của chủ thể thứ ba trong quá trình giải quyết nhưng phương thức giải quyết tại

Tịa án nhân dân có nhiều điểm khác biệt so với phương thức giải quyết bằng
trọng tài. Thông thường, phương thức này được áp dụng để giải quyết TCLĐ
khi nó đã được giải quyết bằng các phương thức khác như thương lượng, hoà

giải, trọng tài. Và phương thức giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án được xem
là hoạt động cuối cùng sau khi tranh chấp đã được giải quyết ở các giai đoạn
khác mà không đạt kết quà.

Với phương thức này, Tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính

20


quyên lực nhà nước tiên hành các trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật

và khi các phán quyết được ban hành thì được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà

nước. Vì Tịa án nhân dân là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư

pháp, mang quyền lực nhà nước và nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam.

Qua đó, có thề hiểu một cách khái quát giải quyết TCLĐ cá nhân tại tòa

án như sau: Giải quyết TCLĐ cá nhân tại tòa án là việc tòa án nhãn dân nhân
danh cơ quan quyền lực nhà nước giải quyết TCLĐ cá nhân theo một trình tự,

thủ tục luật định và đảm bảo thi hành bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.

1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động cá nhân tại Tòa án
nhân dân

Nguyên tắc giải quyết TCLĐ được hiểu là những tư tưởng, chỉ đạo việc

giải quyết TCLĐ mà tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết
TCLĐ đều phải tuân thú, kể cả các bên tranh chấp [26, tr. 369-370J.

Khi giải quyết TCLĐ cá nhân tại Tòa án không chỉ tuân thù các nguyên
tắc chung đã được quy định tại Điều 180 BLLĐ năm 2019 mà còn phải tuân

thủ theo nguyên tắc được quy định tại BLTTDS năm 2015. Cụ thể:

Một là, nguyên tắc tân trọng quyền tự định đoạt thông qua thương
lượng của các bên trong suốt quả trình giải quyết TCLĐ.

Đây được coi là một trong những tư tưởng chủ đạo của việc giải quyết
TCLĐ, luôn tôn trọng sự định đoạt thông qua thương lượng của các bên.


Nguyên tắc này được quy định tại Điều 180 BLLĐ năm 2019. Theo đó, trong
quan hệ lao động, khi các bên thực hiện ký kết họp đồng lao động, thỏa ước

lao động hoặc các cam kết khác luôn tồn tại sự bình đẳng và tự do thỏa thuận.

Tuy nhiên, ở một số trường họp quan hệ lao động mất sự ổn định vốn có của
nó, sẽ phát sinh những mẫu thuần, bất đồng và TCLĐ phát sinh, việc giải

quyết TCLĐ phái đảm bảo quyền tự quyết định của các bên. Chính nguyên

21


×