Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đường lối văn hóa của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.09 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ NHÂN LỰC & XÃ HỘI

TÊN ĐỀ TÀI: Phân tích nhiệm vụ “Xây dựng mơi trường văn hóa” được nêu

trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII). Lấy ví dụ để chứng minh việc
vận dụng một trong các quan điểm trên ở địa phương anh chị.
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Đường lối văn hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Mã phách:………………………………….(Để trống)

Hà Nội – 2022


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................4
2. Nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................4
3.1. Đối tượng..................................................................................................5
3.2. Phạm vi nghiên cứu..................................................................................5
4. Kết cấu của đề tài...........................................................................................5
NỘI DUNG...............................................................................................................6
1. Lý luận về xây dựng mơi trường văn hóa....................................................6
1.1. Khái niệm về mơi trường văn hóa............................................................6
1.2. Nhiệm vụ xây dựng mơi trường văn hóa.................................................7
2. Xây dựng mơi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng................................8
2.1. Điều kiện tự nhiên và những giá trị lịch sử - văn hóa............................8
2.2. Những thành quả trong xây dựng mơi trường văn hóa.........................9
3. Đánh giá........................................................................................................12


3.1. Ưu điểm...................................................................................................12
3.2. Hạn chế...................................................................................................13
KẾT LUẬN.............................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................16


DANH MỤC VIẾT TẮT
Ký hiệu

Ngun nghĩa

CNH

Cơng nghiệp hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

ĐSVH

Đời sống văn hóa

GĐVH

Gia đình văn hóa

HĐH

Hiện đại hóa


KH&CN

Khoa học và cơng nghệ

MTVH

Mơi trường văn hóa

TNXH

Tệ nạn xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dân tộc, ở mọi thời đại, tư tưởng, đạo đức, lối sống và mơi trường
văn hóa là nội dung quan trọng trong xây dựng nhân cách con người, hình thành lối
sống, nếp sống chuẩn mực, là yếu tố nền tảng để xây dựng một xã hội tốt đẹp, nhân
văn, đồng thời phản ánh sự tiến bộ xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, nội dung xây
dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và mơi trường văn hóa là nhiệm vụ hết sức to lớn
và quan trọng trong đường lối chiến lược của Đảng và đời sống thực tiễn cả trước
mắt và lâu dài. Nhiệm vụ này không phải của riêng ngành văn hóa, mà là yêu cầu
đối với cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của tồn xã hội.
Nhận thức rõ vị trí vai trị quan trọng của mơi trường văn hóa qua tổng kết lịch
sử phát triển mấy nghìn năm của dân tộc, kết hợp với nghiên cứu xem xét các yếu
tố cơ bản dẫn đến thành công hay thất bại của một số nước trên thế giới, tại Hội
nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh
thần, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội”. Theo tinh thần
của Nghị quyết, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến

hành nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội đang đặt ra nhiệm vụ cấp
bách là xây dựng một xã hội khơng chỉ có nền kinh tế và khoa học cơng nghệ phát
triển cao, mà cùng với nó phải là một mơi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh,
thực sự là nguồn năng lượng tinh thần vô giá, là “cái nơi” ni dưỡng tâm hồn,
phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách con người.
Thành phố Đà Nẵng là một thành phố trẻ, một trung tâm du lịch của cả nước, có
tầm cỡ thế giới. Đặc biệt có hệ thống đường biển và cảng biển vô cùng thuận lợi
cho việc giao lưu giữa hai miền Nam, Bắc. Vì vậy, xây dựng mơi trường văn hóa
của thành phố càng là vấn đề cấp thiết và khơng kém phần khó khăn phức tạp.
Xuất phát từ tình hình đó, tơi đã chọn đề tài: “Phân tích nhiệm vụ “Xây dựng mơi
trường văn hóa” được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII). Lấy ví
dụ để chứng minh việc vận dụng một trong các quan điểm trên ở địa phương
anh chị” làm đề tài để góp phần bổ sung về mặt lý luận, mà cịn trực tiếp hơn hình
thành những luận cứ khoa học để tiếp tục nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn
xây dựng mơi trường văn hóa ở nước ta nói chung và ở thành phố Đà Nẵng nói
riêng trong tình hình mới.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về MTVH.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng xây dựng MTVH, đề ra những giải
pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng MTVH ở địa phương.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Đối tượng

Đối tượng khảo sát, nghiên cứu của luận văn này là vấn đề xây dựng MTVH ở
nước ta (nói chung) và ở thành phố Đà Nẵng (nói riêng) qua khảo sát, đánh giá chủ
yếu tập trung ở khu vực đô thị.

3.2.

Phạm vi nghiên cứu

Chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực trạng MTVH ở khu vực đô thị thành
phố Đà Nẵng, để trên cơ sở đó đề ra các giải pháp sát thực, đúng đắn.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm 3 nội dung:
1. Lý luận về xây dựng mơi trường văn hóa
2. Xây dựng mơi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng
3. Đánh giá


NỘI DUNG
1. Lý luận về xây dựng môi trường văn hóa
1.1.

Khái niệm về mơi trường văn hóa

Khái niệm MTVH lần đầu tiên được giáo sư nhân chủng học người Pháp
Georges Olivier đề cập đến trong tác phẩm "Sinh thái nhân văn" (năm 1975). Theo
ông MTVH hay MTNV được tạo nên bởi sự "tác động của con người tới con
người" và "tổ chức xã hội của chúng ta, còn sự tác động của con người với tự nhiên
cũng như sản phẩm từ nền cơng nghiệp đương nhiên đã có và phải có...".
MTVH cũng được nhiều nhà khoa học xã hội Xơ viết trước đây quan tâm
nghiên cứu. Trong cuốn giáo trình "Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin" do GS.TS
triết học A.I. Ac-nôn-đốp chủ biên đã đưa ra quan niệm về MTVH như sau: "Mơi
trường văn hóa là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó
các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo
giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi

trường văn hóa khơng chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể, mà cịn có
những con người hiện diện văn hóa”.
Theo GS. Phạm Minh Hạc: "Mơi trường văn hóa chính là mơi trường xã hội và
tự nhiên, bao gồm các quan hệ người, nhóm, gia đình, tổ tiên, cộng đồng dân tộc,
xã hội". Như vậy, MTVH là sự vận động của các mối quan hệ giao tiếp, thể hiện
trong ứng xử của từng người và gia phong, lối sống, nếp sống và trật tự kỷ cương
của xã hội.
Từ góc nhìn giá trị học, GS. TS Đỗ Huy cho rằng: "Mơi trường văn hóa gắn với
tồn bộ hoạt động người. Các lớp và không gian của môi trường gắn liền với sự đối
tượng hóa các năng lực bản chất của con người...","mơi trường văn hóa chính là sự
vận động của các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh
giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình" [17, tr. 24;
35-36]. MTVH được nhìn nhận như một hệ thống các giá trị nhân văn có mối quan
hệ mật thiết đối với quá trình hình thành, phát triển nhân cách con người, phát triển
xã hội.
Qua một số luận giải ở trên, ta có thể quan niệm: "Mơi trường văn hóa khơng
chỉ là tổng hịa các yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể bao quanh con người, có
quan hệ tương tác với con người, mơi trường văn hóa cịn là khái niệm chỉ sự tổng
hịa các mối quan hệ xã hội trong hoàn cảnh xã hội nhất định tạo ra một mơi trường
sống lành mạnh có ảnh hưởng và tác động đến sự phát triển những năng lực bản
chất của con người để hình thành nhân cách theo lý tưởng xã hội tiên tiến phù hợp


với sự vận động và phát triển của đời sống xã hội, tạo động lực cho sự phát triển
kinh tế, xã hội và văn hóa". Con người ln đóng vai trị chủ thể trong suốt q
trình phát sinh, hình thành và phát triển của MTVH, vừa là yếu tố quan trọng, vừa
là sản phẩm chủ yếu nhất của MTVH. Do vậy, để tạo ra sự phát triển chân chính và
đúng nghĩa của con người luôn cần phải xây dựng và bảo vệ tốt MTVH.
1.2.


Nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa

Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan,
xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội..., các vùng dân cư
(đô thị, nông thôn, miền núi...) đời sống văn hoá lành mạnh, đáp ứng những nhu
cầu văn hố đa dạng và khơng ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân. Đây là
nội dung nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi lẽ, cơ quan, đơn vị, trường học...chính
là khâu trung gian chuyển tải tri thức, kiến thức khoa học, chủ trương chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với cơng chúng địa phương, hoặc có nhiệm
vụ thực thi mọi chính sách xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện chính sách an
sinh đối với đời sống xã hội. Hơn nữa, mỗi thành viên của cơ quan, đơn vị, trường
học phần lớn là những cơng dân kiểu mẫu của xã hội, có học thức, được đào tạo
cơ bản, có tính đại diện cao. Cơ quan, đơn vị, trường học phát triển lành mạnh sẽ
trở thành tấm gương kéo theo sự phát triển lành mạnh của xã hội.
Gìn giữ và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai
trị gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình. Xây dựng mối
quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Đẩy mạnh phong trào xây dựng làng, ấp, xã, phường văn hoá, nâng cao tính tự
quản của cộng động dân cư trong cơng cuộc xây dựng nếp sống văn minh.
Thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hố giữa các trung tâm đơ thị và nông
thôn, giữa những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên
giới, hải đảo, giữa các tầng lớp nhân dân. MTVH nông thôn bên cạnh các giá trị ưu
trội cịn tồn tại khơng ít các phản giá trị, đang là trở lực lớn đối với quá trình CNH,
HĐH ở địa phương. Xây dựng MTVH nơng thơn gắn liền với q trình nâng cao
dân trí, đưa khoa học vào vùng nông thôn rộng lớn, cải tạo phong tục, tập quán cũ
lạc hậu, lối sống tiểu nơng hạn hẹp, hình thành các chuẩn mực của đời sống mới,
phù hợp với NSVM đô thị hiện đại; tạo ra sự chuyển biến quá độ từ sinh hoạt vật
chất (đi lại, ăn ở), phương thức sản xuất đến đời sống tinh thần cho cư dân nông
thôn. Sự chuyển đổi đó phải đảm bảo ngun tắc nơng thơn chuyển lên thành thị
nhưng "khơng làm mất đi tính độc đáo và bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và các

giá trị tốt đẹp văn hóa nơng nghiệp nói riêng", khơng "biến nông thôn ta với kiến
trúc truyền thống, với lũy tre xanh, mái đình, cây đa... thành một khối xi măng sắt
thép, khô cứng, đơn điệu, tẻ nhạt.


Phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn
hoá ở cơ sở; đầu tư xây dựng một số cơng trình văn hố trọng điểm tầm quốc gia.
Tăng cường hoạt động của các tổ chức văn hoá, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát
triển phong trào quần chúng hoạt động văn hố, nghệ thuật.
Tóm lại, MTVH có vai trị hết sức quan trọng đối với sự phát triển của con
người và đất nước. Đảng ta đã xác định xây dựng MTVH là một nhiệm vụ quan
trọng nhằm làm cho văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội,
vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo dựng trên đất nước ta một đời
sống tinh thần cao đẹp, dân chủ, nhân văn, theo định hướng XHCN. Cũng vì lẽ đó
làm rõ bản chất, cấu trúc, cũng như vị trí, vai trị, nhiệm vụ xây dựng MTVH ở
nước ta hiện nay là một việc làm cần thiết, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào
cuộc sống, tạo thêm cơ sở dữ liệu cho các địa phương tham khảo và vận dụng
trong thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở.
2. Xây dựng mơi trường văn hóa ở thành phố Đà Nẵng
2.1.

Điều kiện tự nhiên và những giá trị lịch sử - văn hóa

Nằm ở trung độ Việt Nam, nối liền hai đầu đất nước (cách Hà Nội 759 km về
phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 917 km về phía Nam), thành phố Đà Nẵng
hiện nay có diện tích tự nhiên 1.248,4 km2, dân số 716.281 người (năm 2000); bao
gồm 7 đơn vị hành chính, trong đó có 5 quận (Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu,
Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn) và 2 huyện (Hịa Vang, huyện đảo Hồng Sa). Là một địa
bàn có vị trí rất quan trọng về chiến lược quốc phịng, kinh tế, văn hóa và giao lưu

quốc tế, hội tụ nhiều điều kiện về cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội tương đối phát
triển, Đà Nẵng được xác định là trung tâm kinh tế hàng đầu của khu vực, đóng vai
trị động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực miền Trung và Tây
Nguyên.
Môi trường sinh thái nhân văn của thành phố Đà Nẵng là sự hội tụ đầy đủ các
yếu tố của một nước Việt Nam thu nhỏ: có vùng biển, hải đảo, bán đảo (có bờ biển
đẹp trải dài hơn 30 km, mặt biển rộng hàng trăm hải lý, tiếp cận hải phận quốc tế
có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển và khai thác dầu mỏ); có vùng núi, trung
du, đồng bằng (có nhiều điều kiện phát triển kinh tế nơng nghiệp, vườn rừng, chăn
ni); có đô thị lớn với những quân cảng, thương cảng, sân bay quốc tế, hệ thống
bưu chính viễn thơng hiện đại và một hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt chạy
suốt chiều dài, rộng của địa phương (có nhiều tiềm năng để phát triển thương
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và du lịch...).
Trong từng khúc quanh của lịch sử dân tộc, Đà Nẵng đã thể hiện mình như một
trung tâm của các biến động lịch sử, chính là vị trí trọng yếu của khu vực miền
Trung và cả nước. Đây được coi là phần đất đầu tiên của Tổ quốc ở phía Nam ln


quật cường chống sự xâm lược của các thế lực đế quốc phương Tây. Ngày 1 tháng
9 năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha chọn Đà Nẵng làm mục tiêu xâm lược
đầu tiên. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Tri Phương, quân dân Đà Nẵng với lòng
quả cảm, hy sinh vô bờ bến đã kiên quyết bám trụ đấu tranh trong vòng 1 năm 6
tháng, làm thất bại ý đồ và kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải
rút khỏi Đà Nẵng. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 hải quân lục chiến Mỹ cũng chọn Đà
Nẵng làm nơi đổ bộ đầu tiên để mở rộng cuộc chiến tranh đẫm máu xâm lược miền
Nam nước ta. Cùng sát cánh với quân dân Quảng Nam, quân dân Đà Nẵng đã kiên
cường chiến đấu, gây cho chúng những tổn thất nặng nề, tạo nên truyền thống
"Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ". Xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc,
nơi đây đã từng chịu nhiều đau thương, mất mát, nhưng cũng thật quật cường, bất
khuất trong cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm.

Đà Nẵng là nơi phát sinh và hội tụ các danh sĩ, sĩ phu yêu nước, các phong trào
chống xâm lược mà tên tuổi của nó gắn liền với tên tuổi của các trí thức tầm cỡ
quốc gia như: Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Phạm Phú Thứ, Thái Phiên, Phan
Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng...
Trong hơn 25 năm qua thành phố Đà Nẵng đã tạo ra những bước chuyển biến
quan trọng trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nhịp độ tăng
trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) trong thời kỳ 1997 - 2000 bình quân năm tăng
10,19% (bằng 1,47 lần so với mức bình quân chung cả nước). Giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 18,96%; dịch vụ tăng 6,95%; nông - lâm - thủy sản tăng 3,83%.
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng các ngành
công nghiệp, dịch vụ, giảm tương đối tỷ trọng nông nghiệp, phù hợp với xu thế
chung của cả nước và các đô thị lớn. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 35,31%
năm 1997 tăng lên 40,75% năm 2000; tỷ trọng dịch vụ đạt 51,7%; nông - lâm thủy sản từ 9,7% giảm xuống 7,6%. Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên,
tiện nghi phục vụ sinh hoạt và nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần được
cải thiện rõ rệt... Thành phố Đà Nẵng đã mang dáng dấp của một đô thị hiện đại một trung tâm kinh tế, văn hóa và khoa học - công nghệ của khu vực miền Trung Tây Nguyên và của cả nước.
2.2.

Những thành quả trong xây dựng môi trường văn hóa

Từ khi Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, vận dụng các quan
điểm thực hiện đường lối trong nhiệm vụ trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa
VIII) đã thực tế và đem lại những sự phát triển như sau:
Việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết chế văn hóa cơ sở được đẩy mạnh.
Năm 2001 thành phố đầu tư 3 tỷ đồng cho việc xây dựng các tụ điểm vui chơi giải
trí ở 47 xã, phường; 2,5 tỷ đồng đầu tư xây dựng các khu Văn hóa - thơng tin các
quận, huyện, với tổng diện tích trên 205.000m2. Riêng các khu vui chơi giành cho


trẻ em, thành phố đã đầu tư 600 triệu đồng để xây dựng khu vui chơi tại 3 xã,
phường điểm của thành phố.

Giáo dục - đào tạo thành phố phát triển vượt bậc cả về quy mô lẫn chất lượng
đào tạo, tạo ra một môi trường sư phạm lành mạnh, có vai trị thúc đẩy hình thành
một "xã hội học tập" trong tương lai. Đà Nẵng có một hệ thống giáo dục quốc dân
rất phát triển, mạng lưới trường học được quy hoạch, điều chỉnh hợp lý, phần lớn
hội đủ các điều kiện cần thiết về cảnh quan môi trường, sân chơi, đảm bảo an toàn
vệ sinh, trật tự, an toàn lớp học..., đảm bảo các điều kiện thiết yếu trong học tập
Đội ngũ giáo viên ổn định, tâm huyết với nghề nghiệp, chất lượng ngày càng
được nâng lên. Giáo viên các cấp đạt trình độ chuẩn hóa chiếm tỷ lệ cao (tiểu học
98%, THCS 94,33%, THPT 99%, cao hơn mức bình qn cả nước). Trong cơng tác
chun mơn, đạo đức nghề nghiệp đã chú ý hơn đến việc giáo dục nhân cách, đạo
đức, giáo dục tư tưởng chính trị cho học sinh, khắc phục một phần tư tưởng chuyên
môn thuần túy và biểu hiện "nhạt chính trị", "thương mại hóa" ở một số giáo viên.
Nhưng thành quả nổi bật nhất vẫn thể hiện trong lĩnh vực xây dựng hành vi, ý
thức đạo đức mới, trong các mối quan hệ xã hội, hành vi ứng xử cộng đồng của
mọi người dân. Tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong
cuộc sống được tôn vinh, trở thành phong trào hoạt động thường xuyên. Các phong
trào giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói, giảm nghèo, cứu trợ đồng bào bị thiên
tai, bão lụt, các hoạt động khuyến học, từ thiện, xây dựng nếp sống mới trong việc
cưới, tang, lễ được duy trì rộng rãi. Từ năm 1997 - 1999 đã nuôi dưỡng gần 2000
lượt đối tượng mồ côi, tàn tật, người già yếu không nơi nương tựa. Bằng nhiều nỗ
lực vượt bậc đến tháng 8 năm 2001, thành phố đã tạo việc làm cho 14.290 lao động
(79,3% kế hoạch năm), nâng số lao động có việc làm trong 4 năm lên hơn 70 nghìn
người; cho 5.630 hộ nghèo vay vốn 20 tỷ đồng, giúp 48% số hộ thốt nghèo.
Mơi trường đạo đức xã hội. Với một tình hình xã hội ổn định, chính trị được giữ
vững, các tệ nạn xã hội chiếm tỷ lệ nhỏ so với các đô thị lớn trong cả nước, cũng
như các địa phương khác trong khu vực, môi trường đạo đức ở thành phố Đà Nẵng
được đánh giá cao trong cả nước.
Cơng tác đấu tranh phịng chống và ngăn chặn TNXH được đề cao, đã thâm
nhập vào các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân, cũng như
các tổ chức chính trị, xã hội. Theo số liệu điều tra, năm 2000 thành phố có 5

phường giữ vững phong trào thực hiện khơng có TNXH, 27 xã, phường lành mạnh
về văn hóa, hạn chế thấp nhất TNXH, 5 xã, phường ít có TNXH. Đến đầu năm
2001, đã có 9 xã, phường khơng có TNXH; 20 xã, phường lành mạnh; 8 xã,
phường ít có TNXH; xóa đi các xã, phường trọng điểm về TNXH; đã xác định
được 1973/2266 khu dân cư khơng có TNXH (chiếm tỷ lệ 87,6%)


Cuộc vận động xây dựng GĐVH, làng văn hóa, khối phố văn hóa đã phát huy
ảnh hưởng tốt đến mơi trường đạo đức cộng đồng. Qua cuộc vận động ý thức công
dân, ý thức chấp hành kỷ cương phép nước được cải thiện rõ rệt. Các hình thức
sinh hoạt cộng đồng, lao động cơng ích được nhân dân tham gia đều đặn, đơng đảo
hơn; tình trạng say xỉn, quậy phá, các tệ nạn trộm cắp, bói tốn, mê tín, dị đoan bị
dư luận lên án và đấu tranh ngăn chặn, ý thức chính trị, tính tích cực cơng dân
được khơi dậy. Trong 4 năm (1997 - 2001) nhân dân đã tự giác đóng góp tiền mặt,
đất đai, các cơng trình kiến trúc...trên 100 tỷ đồng, hàng vạn công lao động để xây
mới và nâng cấp đường nội thị, bê tông hóa vỉa hè, xây mới và khơi thơng mương
thốt nước, trang bị hệ thống chiếu sáng.
Môi trường truyền thống, môi trường thẩm mỹ được trân trọng, giữ gìn, khơng
ngừng được củng cố và hoàn thiện phát huy tác dụng tốt trong đời sống xã hội.
Trong những năm gần đây với chủ trương "chấn hưng văn hóa dân tộc", nhiều giá
trị văn hóa truyền thống đã được sưu tầm, khơi phục đi vào đời sống hiện đại. Các
di sản văn hóa được quan tâm giữ gìn, tu bổ, tơn tạo. Đây là tài sản vô cùng quý
báu do các thế hệ trước để lại, nó nhắc nhở những người đang sống về cội nguồn
lịch sử của mình, thơi thúc họ sống và hành động xứng đáng với cha ông. Việc phát
huy giá trị của các di tích góp phần giáo dục truyền thống văn hóa, truyền thống
cách mạng đồng thời thu hút ngày càng lớn du khách đến tham quan. Hiện nay
tồn thành phố có 9 di tích cấp quốc gia và 56 di tích khác thuộc thành phố ra
quyết định công nhận. Điều quan trọng hơn là đông đảo các tầng lớp công chúng,
nhất là thanh niên học sinh đã thường xuyên đến với các di tích lịch sử văn hóa để
tham quan, học tập, tìm hiểu về truyền thống lịch sử dân tộc và địa phương. Bảo

tàng cách mạng Đà Nẵng, Bảo tàng Quân khu 5, nhà sàn Bác Hồ hàng năm thu hút
hàng nghìn lượt học sinh đến tham quan học tập, noi gương truyền thống. Truyền
thống "uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa" được phát huy cao độ trong đời
sống mới. Là địa phương có tỷ lệ người có cơng với cách mạng cao nhất nước
(chiếm 13% tổng dân số), mặc dù cịn gặp nhiều khó khăn, thành phố vẫn tập trung
giải quyết tốt chế độ chính sách cho 10 vạn thân nhân liệt sỹ, trợ cấp ưu đãi cho
gần 3 vạn thương binh, 6 nghìn bệnh binh, 10 nghìn người có cơng với cách mạng,
phụng dưỡng suốt đời 257 bà Mẹ Việt Nam anh hùng đang còn sống. Thành phố đã
xây dựng và sửa chữa trên 5.000 ngơi nhà tình nghĩa, trao tặng 3.000 sổ tiết kiệm,
đã huy động được gần 30 tỷ đồng quỹ đền ơn đáp nghĩa.
Các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian, lễ hội truyền thống thu hút quần
chúng tham gia ngày càng đông, đây là điều kiện thuận lợi để họ khơng chỉ thưởng
thức mà cịn trực tiếp tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa, nghệ thuật tạo ra không
gian thẩm mỹ phong phú và đa dạng. Hiện tượng bn thần, bán thánh, mê tín, dị
đoan tại các cơng trình tín ngưỡng, tơn giáo, hiện tượng "thương mại hóa" hoạt
động lễ hội, các tệ nạn ăn xin, tranh giành thuyết minh, cị mồi nơi các di tích, danh


thắng dường như khơng cịn tồn tại. Các loại hình nghệ thuật sân khấu truyền
thống (tuồng, dân ca, hát ru, hị khoan) vẫn có sức sống lâu bền trong lịng người
dân ở đủ mọi lứa tuổi. Nhà hát tuồng Nguyễn Hiến Dĩnh vẫn hàng đêm đỏ đèn
phục vụ người hâm mộ, trong các dịp lễ, tết không thể đáp ứng tất cả nhu cầu của
các địa phương, các đoàn du khách đến tham quan đều tôn trọng, thưởng thức bộ
môn nghệ thuật độc đáo này. Đó là vốn quý, là động lực quan trọng để xây dựng
một môi trường thẩm mỹ lành mạnh, tiên tiến.
Cùng với những nỗ lực xây dựng nền văn hóa mới, thành phố cịn triển khai
liên tục việc đấu tranh ngăn chặn và loại trừ văn hóa phản động đồi trụy, các hủ tục
lạc hậu, mê tín, dị đoan, các biểu hiện lai căng, mất gốc...giữ gìn MTVH lành
mạnh. Trong 6 tháng đầu năm 2001, thành phố đã tiến hành kiểm tra 250 lượt vào
các hoạt động kinh doanh ở các lĩnh vực dịch vụ văn hóa, kinh doanh văn hóa

phẩm, chủ yếu tập trung vào các khu vực trọng điểm, phức tạp. Kết quả phát hiện
58 trường hợp vi phạm, tịch thu 1856 đĩa CD -VCD các loại chủ yếu là đĩa nhập
lậu, sao chép trái phép khơng tem nhãn; 56 băng hình, 9 băng casset có nội dung
khiêu dâm đồi bại, kích động bạo lực... xử phạt hành chính 129 triệu đồng.
Tuy chưa có sự khảo sát, thống kê đầy đủ, nhưng có thể khẳng định những
thành tựu to lớn trong xây dựng MTVH ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua. Thành
quả đó có sự tác động tích cực của những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội của
thành phố; những thế mạnh, tiềm năng và sự phát triển của các lĩnh vực giáo dục đào tạo, KH&CN, đạo đức và nghệ thuật, của các cuộc vận động xây dựng gia đình
văn hóa, tồn dân đồn kết xây dựng ĐSVH ở cơ sở và các phong trào mang tính
nhân đạo khác. Đó là thành quả của sự vận dụng trong các quan điểm trên để nâng
cao đời sống nhân dân, góp phần phát triển xây dựng mơi trường văn hóa ở thành
phố Đà Nẵng.
3. Đánh giá
3.1.

Ưu điểm

Củng cố và nâng cao uy tín của hệ thống chính trị bằng việc kiên quyết đấu
tranh ngăn chặn và loại trừ những biểu hiện thối hóa, biến chất, suy thối về tư
tưởng, đạo đức, lối sống, phai nhạt về lý tưởng; lợi dụng chức quyền để tham
nhũng, làm giàu bất chính; quan liêu, ức hiếp dân, tư tưởng cục bộ, bản vị địa
phương, mất đoàn kết nội bộ. Những bất ổn trong đời sống chính trị - xã hội đã
được khắc phục kịp thời, khắc phục tận gốc, nếu không sẽ là mối hiểm họa đe dọa
sự ổn định chính trị của thành phố, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm mất niềm
tin của quần chúng vào Đảng, vào chế độ, làm suy thối, biến chất mơi trường
chính trị.
Phát động phong trào thi đua yêu nước mới sâu rộng trong các tầng lớp nhân
dân, thành phố phải tăng cường giáo dục về CNXH, về nhiệm vụ CNH, HĐH về



các giải pháp nhằm thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; làm cho mọi người hiểu sâu sắc
và tự hào về truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc và địa phương, nâng
cao tính tích cực cơng dân, có những đóng góp xứng đáng vào cơng cuộc kiến thiết
thành phố.
Tạo ra nếp sống kỷ cương pháp luật, tập quán văn minh trong kinh doanh, học
tập, cuộc sống sinh hoạt cộng đồng. Thơng qua đó tạo ra MTVH mang tính pháp lý
và tính tự quản cao để điều chỉnh, định vị sự phát triển của con người theo hướng
xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, trên cơ sở pháp luật và
các tập quán tốt đẹp, văn minh.
3.2.

Hạn chế

Một số vấn đề hạn chế vẫn đang tiếp tục phát sinh, phát triển gây tác hại xấu ở
địa phương cần phải loại trừ.
TNXH còn xảy ra phổ biến, đang có nguy cơ lan tràn về các vùng nông thôn,
gây ra nhiều tác hại đối với địa phương và những vùng lân cận, tạo ra lối sống đồi
bại, phi nhân tính.
Sự xuống cấp về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân đang gây ra những tác động tiêu cực.
Việc thiếu chuẩn bị cho quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa rộng mở đã du
nhập khơng ít những "rác thải" văn hóa độc hại từ ngồi vào, sự lan tràn của các
văn hóa phẩm độc hại trên thị trường gây ra những di hại khó có thể lường hết
được.
Với một vị thế địa chính trị quan trọng và địa kinh tế trọng yếu, nơi tập trung
một đội ngũ cán bộ đông đảo, Đà Nẵng luôn được đặt trong tầm ngắm của các thế
lực thù địch, bằng nhiều con đường, bằng nhiều hình thức, chúng đang ráo riết thực
hiện âm mưu "diễn biến hịa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa ở địa phương.
Tập qn, lối sống thậm chí phong cách quản lý cịn mang phong cách tiểu
nơng manh mún, lạc hậu; tính tự do vơ tổ chức, vơ kỷ luật, coi thường pháp luật,

quy ước cộng đồng còn tồn tại khá phổ biến. Những cách thức làm ăn phi pháp,
trốn lậu thuế, kinh doanh chụp giật, lừa đảo, làm hàng giả... đang ngấm ngầm hoạt
động và có nguy cơ lan tràn nếu khơng kịp thời tìm ra những biện pháp khắc phục.
Công tác quản lý đô thị, trật tự, an tồn văn minh đơ thị cịn nhiều yếu kém,
chưa tạo ra các biện pháp "xây" và "chống" đủ mạnh. Một cuộc sống có trật tự, kỷ
cương của người dân đơ thị chưa hình thành rõ nét.
Tình trạng ơ nhiễm môi trường xảy ra ngày càng nặng nề và bức bối.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo Nghị quyết Trung ương 5 trong thời gian qua,
thành phố Đà Nẵng đã tạo ra những biến chuyển tích cực trong lĩnh vực văn hóa,


trong ĐSVH - xã hội. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng ĐSVH" được
triển khai đều khắp ở các cơ sở đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng
MTVH ở địa phương. Tuy nhiên, nếu nghiêm túc nhìn nhận, Nghị quyết vẫn chưa
được tuyên truyền, giáo dục một cách sâu rộng trong nhân dân, góp phần làm thay
đổi sâu sắc thói quen, nếp nghĩ của mọi người dân. Ngay trong đội ngũ những cán
bộ chuyên trách làm cơng tác văn hóa, việc qn triệt sâu sắc và vận dụng linh
hoạt, chính xác tinh thần của Nghị quyết cịn nhiều hạn chế. Khơng ít cán bộ văn
hóa, nhất là ở cơ sở còn nắm "lơ mơ", đại khái, không cắt nghĩa, lý giải nổi các nội
dung nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp đề ra trong Nghị quyết, thậm chí cịn một
số cách hiểu sai lệch. Một khi "Nghị quyết lớn" của Đảng về lĩnh vực văn hóa chưa
trở thành quyển sách "gối đầu giường", chưa trở thành kim chỉ nam, phương pháp
luận trong việc hoạch định các chủ trương, đường lối, các chương trình hành động
xây dựng ĐSVH cơ sở thì khó có thể nói tới chuyện nâng cao chất lượng, hiệu quả
xây dựng MTVH ở địa phương.


KẾT LUẬN
MTVH mà chúng ta luôn kiên định xây dựng gần một thế kỷ qua và được phát
triển tiếp nối trong thế kỷ mới là một MTVH giàu bản sắc dân tộc, tiêu biểu cho

giá trị tinh hoa của nhân loại, tinh thần tiên tiến của thời đại. Đó là MTVH phát
triển theo định hướng XHCN, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng. Đó là MTVH lành mạnh, phong phú, nhân văn, thống nhất
trong đa dạng, hướng tới mục tiêu giải phóng và phát triển tồn diện con người,
xóa bỏ mọi sự nơ dịch, bất công, phát triển đất nước theo mục tiêu "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", tiến vững chắc lên CNXH.
Đối với Đà Nẵng, một thành phố đang phát triển đi lên từ một điểm xuất phát
thấp, các tiềm năng về kinh tế, chính trị, KH&CN, văn hóa và xã hội... chưa được
phát huy một cách đầy đủ, vấn đề xây dựng MTVH có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đây chính là cơ sở để phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đại đoàn kết
dân tộc, thức dậy các tiềm năng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở địa phương,
xây dựng Đà Nẵng thành một đô thị công nghiệp, hiện đại, văn minh, giàu bản sắc
dân tộc, trở thành một trung tâm kinh tế, KH&CN, một trung tâm văn hóa và chính
trị của khu vực miền Trung - Tây Nguyên cũng như của cả nước. Tuy nhiên, xây
dựng MTVH còn là vấn đề mới mẻ, có nội dung đa dạng, phong phú và hết sức
phức tạp. Do vậy phải biết tìm ra những hình thức, bước đi phù hợp, xây dựng một
hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ và hữu hiệu phù hợp với tình hình thực tiễn
địa phương. Đà Nẵng cần thiết phải tiến hành điều tra, khảo sát xã hội học để đánh
giá đúng đắn và khoa học thực trạng MTVH thời gian qua, trên cơ sở đó xác lập
phương hướng, bước đi cho công cuộc xây dựng MTVH trong thời gian tới.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.I. ác-nôn-đốp (chủ biên) (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin,
Người dịch Hồng Vinh - Nguyễn Văn Hy,Nxb Văn hóa, Hà Nội.
2. Georges Olivier (1992), Sinh thái nhân văn, Nxb Thế giới, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương
khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 1998, tr.59-60, 59.
4. Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, của Ban Chấp hành Trung ương
tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. GS.TS Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hóa ở nước ta, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
6. Đà Nẵng thành tựu và triển vọng (2000), Nxb Đà Nẵng.
7. Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Đà Nẵng (2000), Báo cáo sơ kết 4 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Đà Nẵng.
8. GS.TS Đỗ Huy (2001), Xây dựng MTVH ở nước ta hiện nay từ góc nhìn giá
trị học, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
9. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường thành phố Đà Nẵng (04/2001), Báo
cáo kết quả thực hiện đề tài Điều tra đánh giá nhằm nâng cao nhận thức về
bảo vệ môi trường cho cộng đồng thành phố Đà Nẵng.
10.Trung tâm Văn hóa - Thơng tin thành phố Đà Nẵng, Đặc sản chào mừng
Đại hội Đảng bộ TP lần thứ XVIII, 2001.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.23.
12. Lê Thị Thu Hiền, Giáo trình Đường lối văn hóa, Nxb văn học.
13.

/>
14.

/>
15.

/>2/xay-dung-moi-truong-van-hoa-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx



×