TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
GIÁO TRÌNH
(Lƣu hành nội bộ)
ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA - VĂN NGHỆ
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tác giả: TS. Nguyễn Văn Duy
Th.s Hoàng Thanh Tuấn
Năm 2017
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, văn hóa có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Mọi
quốc gia, dân tộc muốn khẳng định vị trí của mình đều phải chú ý đến văn hóa.
Việc nghiên cứu, thấm nhuần đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng là yêu
cầu rất cơ bản đối với sinh viên ngành khoa học xã hội nói chung và ngành giáo
dục chính trị nói riêng. Để nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ nghiên cứu,
học tập của sinh viên và cán bộ giảng viên, Bộ Môn Lịch sử Đảng - Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã biên soạn Giáo trình Đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Giáo trình được viết dưới dạng các chuyên đề, trong đó có sự kết hợp chặt
chẽ các vấn đề lý luận, quan điểm, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng với
những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh trong đời sống văn hóa dân tộc.
Giáo trình được kết cấu gồm 7 chuyên đề gồm: Chương 1: Những vấn đề
chung về văn hóa văn nghệ; Chương 2: Những bước đầu hình thành đường lối
văn hóa văn nghệ của đảng ta; Chương 3: “Đề cương văn hóa Việt Nam 1943”tuyên ngôn chính thức của đảng ta về đổi mới đường lối văn hóa văn nghệ;
Chương 4: Đường lối văn hóa văn nghệ của đảng ta trong hai cuộc kháng chiến
chống pháp và chống mỹ xâm lược; Chương 5: Đường lối văn hóa văn nghệ của
đảng ta trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; Chương 6: Phát triển văn
hóa nghệ thuật và thông tin đại chúng trong sự nghiệp đổi mới; Chương 7: Sự
lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thời kỳ đổi mới.
Mặc dù hết sức cố gắng song Giáo trình này chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót nên rất mong nhận được những góp ý của đồng nghiệp và bạn
đọc quan tâm, sự phản hồi của sinh viên để chúng tôi có thể tiếp tục hoàn thiện
nó trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………1
Chƣơng I
MẤY VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA VĂN NGHỆ……………………………4
Chƣơng II
NHỮNG BƢỚC ĐẦU HÌNH THÀNH ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA
VĂN NGHỆ CỦA ĐẢNG…………………………………………………………33
Chƣơng III
ĐỀ CƢƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM (1943) – TUYÊN NGÔN CHÍNH THỨC
CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA VĂN NGHỆ……………………42
Chƣơng IV
ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA VĂN NGHỆ CỦA ĐẢNG
TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƢỢC..................…………………………………52
Chƣơng V
ĐƢỜNG LỐI VĂN HÓA VĂN NGHỆ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI…………………63
Chƣơng VI
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI.............................................................................120
Chƣơng VII
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA, VĂN NGHỆ
THỜI KỲ ĐỔI MỚI.................................................................................................137
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….149
3
CHƢƠNG I
MẤY VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HOÁ VĂN NGHỆ
I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ VĂN NGHỆ
1. Văn hoá
a. Các quan điểm khác nhau về văn hoá
Từ lâu con người đã quan niệm văn hoá là một lĩnh vực khác với thế giới
tự nhiên. Văn hoá không phải tự nhiên mà có, văn hoá do con người trong quá
trình phát triển của xã hội loài người lao động mà sáng tạo ra - chính qua sự hình
thành của văn hoá, mà năng khiếu tinh thần, bản chất của con người ngày càng
phát triển và hoàn thiện. Tuy nhiên phân tích về nguồn gốc, bản chất và cơ cấu
của văn hoá, đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau.
Quan điểm của chủ nghĩa duy tâm về văn hoá
Do những quan niệm khác nhau về bản chất con người, chủ thể của văn
hoá, các nhà triết học duy tâm đã có những giải thích sai lầm về văn hoá. Có
những quan niệm hiểu "bản chất" con người một cách siêu hình cho rằng trí tuệ
con người là thiên phú, nhất là những người có tài năng, thông minh là cái vốn
có của con người, văn hoá là một lĩnh vực tinh thần thuần tuý độc lập và đứng
trên thế giới vật chất. Văn hoá được xem như là cái quan trọng nhất, chi phối
cuộc sống, còn các quan hệ kinh tế, sản xuất bị coi là yếu tố phụ thuộc và chạy
theo văn hoá. Văn hoá theo những nhà triết học ấy, chủ yếu là lĩnh vực ý thức
tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật, triết học, là kết quả sáng tạo của những tầng lớp
đặc biệt, lớp trên của xã hội, của những cá nhân tài ba, lỗi lạc, còn quần chúng
đông đảo thì khó mà đạt đến văn hoá.
Các nhà triết học tư sản có vẻ khoa học hơn, không tin vào các thiên bẩm
thần bí của văn hoá, tìm cách giải thích khác, họ cho rằng có một thứ lý trí tự
nhiên, một thiên hướng của con người phát triển theo cái lý trí nhân loại, và văn
hoá chính là sự biểu hiện kết quả của thiên hướng đó. Đó là những nhà khai sáng
4
của thế kỷ XVIII, tiêu biểu là J.J Rousseau, Voltaire. Nhưng cái duy lý "tự
nhiên" đó nguồn gốc ở đâu, nó cũng mơ hồ không khác gì cái "thiên bẩm".
Hêghen nhà triết học duy tâm khách quan nổi tiếng cho rằng tư duy, năng
lực cao cấp của con người, có nội dung thực tế của văn hoá chính là kết quả thể
hiện sự vận động của "ý niệm tuyệt đối" chứ không phải là kết quả sự phản ánh
của thực tiễn xã hội, của hoạt động con người.
Các nhà duy vật trước Mác đã có những kiến giải khoa học về văn hoá,
như gắn văn hoá với các nhu cầu vật chất, không đối lập máy móc văn hoá với
tự nhiên, chỉ ra vai trò của lao động trong việc xây dựng văn hoá.
Tóm lại, các nhà triết học duy tâm và cả những nhà triết học duy vật thô
sơ đều tách văn hoá ra khỏi nguồn gốc xã hội, kinh tế của nó, đối lập văn hoá
với vật chất, và gạt bỏ vai trò của quần chúng trong việc phát triển văn hoá.
Nhưng chỉ đến chủ nghĩa Mác- Lênin mới có những kiến giải thật đúng
đắn, vạch ra nguồn gốc thực sự, bản chất nảy sinh và tiến bộ của văn hoá.
b. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về văn hoá
Con người chế tạo ra được những công cụ để tăng hiệu quả cho lao động
của mình, bước đầu tự tách ra khỏi thế giới động vật bị cầm tù trong những bản
năng. Bản năng rất cao của động vật như con ong, con kiến, con mối giúp nó tạo
nên những chiếc tổ rất tài tình, nhưng "công trình" của chúng không phải là văn
hoá. Con người không làm như vậy. Con người khi làm một cái gì, đã có trước
một ý đồ, một sơ đồ của "cái ấy" trong đầu óc của mình. Việc chế tạo tuy còn rất
thô sơ ở bước đầu, là mầm mống ban sơ của văn hoá, là cái không sẵn có trong
thiên nhiên, mà là do con người làm ra.
Những cái do con người tạo ra: các công trình kỹ thuật, kinh tế, công cụ
sản xuất, ngôn ngữ, phương tiện giao thông, khoa học, tác phẩm nghệ thuật...đều
là những tài sản vật chất và tinh thần hợp lại bao trùm chúng ta như một thiên
nhiên được cải tạo, nâng cao, phù hợp với cuộc sống con người hơn. Cái thiên
nhiên thứ hai đó chính là văn hoá, theo nghĩa rộng nhất.
5
Tất nhiên giữa hai thực thể thiên nhiên và văn hóa có sự tách biệt, vì văn
hoá chỉ là "thiên nhiên thứ hai" do con người lao động sản xuất, sáng tạo nên để
phục vụ đời sống con người. Nhưng giữa thiên nhiên tự nhiên và thiên nhiên thứ
hai không có sự đối lập hoàn toàn. Nguồn gốc của văn hóa tất nhiên phải bắt đầu
từ thiên nhiên, đối tượng mà con người tác động vào. Văn hóa là kết quả của sự
chinh phục, cải tạo tự nhiên, và con người có nắm vững quy luật của thiên nhiên,
tuân thủ vận dụng chúng thì mới làm được việc sáng tạo ra văn hóa, điều hoà
mối quan hệ giữa xã hội với thiên nhiên.
Văn hoá trình độ càng cao, càng tiến bộ thì con người càng quý trọng
thiên nhiên, tìm cách sống gần gũi và sống hòa hợp với thiên nhiên. Thiên nhiên
cũng mang lại lợi ích cho con người, bằng cách làm cho thiên nhiên thứ hai (văn
hóa) ngày càng phong phú. Cũng phải khẳng định rằng trong các sáng tạo của
con người, bản thân con người cũng chính là một sản phẩm được sáng tạo, một
thiên nhiên thứ hai ngày càng được phát triển, nâng cao. Đó là cái quý nhất
trong văn hoá. Con người làm ra văn hóa, đồng thời văn hóa nâng cao, xây dựng
con người phát triển toàn diện. Bản thân con người chính là một dạng tồn tại của
văn hóa, đồng thời là chủ thể của văn hóa.
Đặc trưng quan điểm mác- xít về văn hóa là xem hoạt động của con
người, trước hết là hoạt động vật chất, lao động sản xuất, là nguồn gốc của sự
phát triển văn hóa, là phương thức phát triển của văn hóa.
Hoạt động của con người về văn hóa gồm có hai mặt:
Thứ nhất, từ thế hệ này qua thế hệ khác con người phải tiếp thu, học tập,
giáo dục, để làm chủ được các giá trị văn hóa, loại bỏ cái phản văn hóa.
Thứ hai, đồng thời con người sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới (quá
trình tái sản xuất văn hóa) để thúc đẩy lịch sử tiến lên; đấu tranh với văn hóa
phản động, lạc hậu.
Những hoạt động đó là một chuỗi nối tiếp và xen kẽ các khâu sản xuất,
kế thừa, cải tạo, bảo quản, phổ biến, phân phối, trao đổi, tiêu thụ, tái sản xuất
các giá trị văn hoá.
6
Thông qua những hoạt động trên, con người ngày càng vượt qua trình độ
văn hoá hiện tại để tiến lên những giá trị cao hơn, sáng tạo ra nhiều giá trị mới
làm giàu cho văn hoá của bản thân, văn hoá của cộng đồng xã hội và đóng góp
vào sự phát triển của văn hoá nhân loại.
Dựa vào các lý giải trên, ta có thể tiến đến một định nghĩa cho khái niệm
văn hoá một hiện tượng rất phức tạp.
Các học giả, nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra trên 400 định nghĩa về
văn hoá, trong số đó, những nhà nghiên cứu mác-xít đã góp phần không nhỏ.
Tuy vậy, việc tìm ra một định nghĩa ngắn gọn và hoàn chỉnh về văn hoá, nói lên
đầy đủ về bản chất của văn hoá, không phải dễ.
Ví dụ, nếu định nghĩa văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của mình, thì khái niệm
văn hoá là quá rộng, tuy đúng về mặt triết học chung nhất, nhưng không thấy
được sự khác biệt của văn hoá và các lĩnh vực của đời sống xã hội, và cũng
không phân biệt được các nền văn hoá thuộc các hình thái kinh tế- xã hội khác.
Hơn nữa định nghĩa trên không xem xét văn hoá ở một quá trình hoạt động tiến
lên.
Cũng có những định nghĩa khác, theo quan điểm văn hoá là một thuộc
tính nhân cách, hoặc văn hoá là một thuộc tính xã hội, hoặc xem văn hoá như
một hệ thống ký hiệu thông tin, biểu tượng, hoặc xem văn hoá như một hệ thống
xã hội nói chung....Mỗi định nghĩa đều nói lên một mặt cơ bản của bản chất văn
hoá, nhưng không khái quát được trọn vẹn toàn bộ của văn hoá trong một mệnh
đề ngắn gọn.
Nhìn chung lại, những nhà nghiên cứu mác-xít về văn hoá đã thống nhất ý
kiến về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và xã hội trong quá trình
sáng tạo ra văn hoá, về tính tích cực của xã hội và các giá trị văn hoá chân chính,
ý thức hệ, tính giai cấp, tính dân tộc và tính quốc tế của văn hoá, được trình bày
trong các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về văn hoá.
7
Nhưng văn hoá cụ thể bao gồm những gì, cơ cấu và sự hoạt động, chức
năng, vị trí của nó trong đời sống xã hội như thế nào, thì có nhiều cách suy nghĩ
và lý giải nhiều cách khác nhau.
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người,
văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng
tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc
này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín
ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã
được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách
văn hoá họp năm 1970 tại Venise”
c. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá
Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng Lao động Việt Nam:
"Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế
quốc, đồng thời phải phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc
và hấp thu những cái mới của văn hoá tiến bộ trên thế giới để xây dựng một nền
văn hoá Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng".
Văn hoá dân tộc phải là cái cội rễ, cái căn bản để tiếp thu, vươn tới và hội
nhập với văn hoá nhân loại, hội nhập văn hoá mà không hoà tan. Văn hoá phải
thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc nâng cao đời sống vui tươi lành
mạnh của quần chúng, văn hoá phải gắn liền với lao động sản xuất. Vì vậy văn
hoá phải mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng.
8
Tính đại chúng ở đây bao gồm cả ý nghĩa nền văn hoá đó, quần chúng
nhân dân vừa là chủ thể vừa là động lực, vừa là mục tiêu (của dân, do dân, vì
dân) cũng như phải biến tất cả các giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân, tạo
mọi điều kiện thuận lợi trên thực tế để nhân dân đến với văn hoá, vừa hưởng thụ
vừa góp phần sáng tạo ra các giá trị văn hoá.
Tính khoa học của văn hoá trước hết phải lấy chủ nghĩa xã hội làm cốt lõi
của nền văn hoá mới, là nói đến văn hoá đó phải gắn liền với sự tiến bộ của nhân
loại, phải hướng tới chân, thiện, mỹ, phải đấu tranh chống các hiện tượng phản
khoa học, phản lại các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Các nhà văn hoá phải lấy sức mạnh trong đại chúng, lấy tinh thần trong
dân tộc, và dùng duy vật biện chứng làm kim chỉ nam. Những nhà văn phải đấu
tranh trên tất cả các mặt trận văn học, ngôn ngữ, phong tục, tín ngưỡng... Hành
động của họ phải gắn liền phong trào đấu tranh của dân tộc.
d. Về bản chất và cơ cấu của văn hoá
Một vấn đề hay được tranh luận là việc phân biệt văn hoá thành văn hoá
vật chất và văn hoá tinh thần. Việc phân chia này là cần thiết, vì văn hoá tinh
thần bao gồm chủ yếu những lĩnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc cần được
nghiên cứu riêng, khác với các lĩnh vực văn hoá vật chất. Tuy vậy, ranh giới của
sự phân chia này cũng khó rạch ròi, vì sự xen kẽ và xâm nhập lẫn nhau của hai
khu vực văn hoá là rõ ràng, khó chối cãi. Trong văn hoá vật chất vẫn có văn hoá
tinh thần, mọi lĩnh vực hoạt động lao động vật chất, ví dụ như trong công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải...không thể nói là không có văn hoá.
Những hoạt động đó ngày càng thực sự là hoạt động khoa học - kỹ thuật đòi hỏi
có trình độ văn hoá cao. Và ngay trong các sản phẩm vật chất do các hoạt động
đó tạo nên cũng mang trong nó tính chất văn hoá trí tuệ rất lớn: một cái máy,
một chiến xe, đồ dùng... không thể gọi các đồ vật đó là vật chất thuần tuý. Vì
vậy ngày nay người ta nói đến văn hoá lao động, văn hoá công nghiệp, văn hoá
thương nghiệp, văn hoá trong ăn, mặc, ở.
9
Ngược lại, văn hoá tinh thần cũng thể hiện trong những dạng vật chất.
Không có một văn hoá tinh thần nào chỉ là tư duy thuần tuý, trừu tượng chỉ có ở
trong các tế bào của vỏ não. Nghệ thuật cần phải có sách, có in ấn, có nhà hát, có
nhạc cụ, có biểu diễn, có tranh tượng. Khoa học cần có phòng thí nghiệm, giáo
dục cần có nhà trường, thư viện, hệ thống đào tạo giảng dạy.
Tuy vậy việc duy trì phân chia ra một lĩnh vực văn hoá tinh thần, bên
cạnh văn hoá vật chất, là cần thiết, có điều không nên tuyệt đối hoá.
Nhìn toàn bộ những biểu hiện của văn hoá, chúng ta khẳng định rằng văn
hoá không chỉ gồm một số lĩnh vực tinh thần, mà văn hoá phải được xem như sự
phản ánh toàn bộ các lĩnh vực của đời sống.
Từ sự phân chia theo lối bổ dọc thành hai mảng văn hoá vật chất và văn
hoá tinh thần, chúng ta bổ sung một lối bổ ngang, cắt lớp văn hoá nằm trên toàn
bộ đời sống. Chúng ta có một cấu trúc thiết diện, về văn hoá theo nghĩa rộng:
toàn bộ các giá trị văn hoá ở những khu vực chính của văn hoá (lĩnh vực văn hoá
tinh thần), và ở các khu vực ngoại vi khác (lĩnh vực văn hoá vật chất).
Văn hoá ở đây được quan niệm là những gì tốt đẹp, được sáng lập do hoạt
động con người ở mọi lĩnh vực gồm cả quá trình, hệ thống các giá trị, kể cả tinh
thần và vật chất của nó, cả sự bảo quản và lưu truyền của nó, liên quan đến sự
phát triển những phẩm chất, tài năng, thể chất của con người, và đồng thời bồi
dưỡng phát huy những lực lượng bản chất con người, nhằm xây dựng con người
ngày càng hoàn thiện. Lĩnh vực văn hoá, quan niệm như vậy, ngoài những lĩnh
vực văn hoá thuộc kiến trúc thượng tầng, còn có những yếu tố khác như phản
ánh toàn bộ dưới dạng ý thức của văn hoá tồn tại xã hội. Chúng ta có thể nêu lên
một số như: văn hoá lao động sản xuất, văn hoá nếp sống và lối sống, văn hoá
thể chất (thể dục thể thao, rèn luyện thân thể).
Trong hệ thống văn hoá rộng lớn, hệ tư tưởng chính trị, đạo đức là nòng
cốt. Những lĩnh vực văn hoá tinh thần chủ yếu khác như giáo dục, khoa học kỹ
thuật, văn hoá thẩm mỹ (nghệ thuật) có vai trò hết sức quan trọng về động lực
10
thúc đẩy toàn bộ nền văn hoá. Riêng văn nghệ là một bộ phận có tính đặc thù, có
đặc trưng cơ bản phản ánh hiện thực bằng hình tượng nghệ thuật.
2. Văn nghệ
Văn nghệ là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhị của tư tưởng,
nó có tác dụng sâu rộng và lâu bền trong đời sống tinh thần của con người. Vì
vậy, muốn hiểu văn nghệ, phát huy vai trò lớn lao của nó trong đời sống của
nhân dân thì trước hết phải tìm nguồn gốc, bản chất và các quy luật phát triển cơ
bản của nó trong đời sống xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
a. Các quan niệm duy tâm, siêu hình và thô sơ về nguồn gốc và bản chất của
văn nghệ
Người Hy Lạp cổ đại cho rằng nghệ thuật bắt nguồn từ hoạt động của các
nữ thần trên núi Ôlempơ, nàng thơ nhập vào người nào, có thể mang lại cảm
hứng và tài năng sáng tạo cho người đó.
Người Trung quốc xưa cho rằng âm nhạc ở trần gian có nguồn gốc từ
thiên đình. Con trai Hạ Vũ, một vị tổ của người Trung Hoa, là Khải, một lần lên
trời làm khách đã đánh cắp nhạc tiên "Cữu biện", "Cữu ca" về làm nhạc "Cữu
thiều" ở Trung Hoa.
Theo thần thoại Ấn Độ thì Brakhma dạy cho các nhà thông thái cổ đại là
Ban ranti- muni biết cách làm thơ và soạn nhạc.
Học giả tư sản cho rằng nghệ thuật bắt nguồn từ tình cảm tôn giáo của con
người. Tình cảm sùng bái trước các lực lượng siêu nhiên làm nảy sinh các nghi
thức ma thuật- những nghi thức nhằm tác động hư ảo vào tự nhiên dựa trên niềm
tin ngây thơ về sự xuất hiện các hiện tượng này tiếp sau hiện tượng khác.
Đêmôcrít cho rằng con người bắt chước chim hót mà làm ra tiếng hát, bắt
chước ong xây tổ mà làm nhà. Arixtốt bổ sung thêm rằng bắt chước đem lại
nhận thức và niềm vui. Lý thuyết này mặc dầu có nguồn gốc khách quan của
nghệ thuật, song đã giản đơn hoá đi rất nhiều, xem nhẹ tính tích cực sáng tạo của
nghệ thuật.
11
Thuyết nguồn gốc vui chơi của văn nghệ. Bắt đầu từ Kant, Sinle, sau được
Spenxơ, Buser ủng hộ. Lý thuyết này xem văn nghệ là một dạng trò chơi, giúp
con người thể hiện bản tính tự do của mình, nhằm tiêu phí tinh lực thừa và để
thoát khỏi cảm giác bị đè nén bởi lao động nặng nhọc. Mặc dù có đề cập tới yếu
tố "vui chơi", một yếu tố khá đặc trưng và quan trọng của văn nghệ, nhưng lý
thuyết này tạo nên sự đối lập giữa văn nghệ với lao động và hoạt động thực tiễn
của con người. Và do đó, cũng không cắt nghĩa được tại sao vui chơi của người
nguyên thuỷ lại trở thành nghệ thuật.
Nguồn gốc văn nghệ bắt nguồn từ tính năng tính dục như nhà phân tâm
học Phrớt, hoặc bản năng vô thức tự phát như Scôpenhao.
Tất cả các quan niệm trên đều không lý giải được nguồn gốc đích thực
của văn nghệ. Bởi văn nghệ là hiện tượng tinh thần tổng hợp, phong phú nhưng
các nguyên lý nói trên chỉ đề cập đến các khía cạnh bản năng tự nhiên. Phương
pháp chủ quan phiến diện của các lý thuyết trên làm cho chúng không thoát khỏi
tính chất duy tâm, siêu hình.
b. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
Mác: “Lao động là điều kiện tồn tại của con người, không phụ thuộc vào
bất cứ hình thái xã hội nào, là tính tất yếu tự nhiên vĩnh viễn của con người. Nếu
không có lao động thì không có sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức
là không có được bản thân sự sống của con người”①. Với tư cách là hoạt động
sáng tạo để thực hiện "trao đổi chất" giữa người với tự nhiên, vừa làm biến đổi
tự nhiên vừa làm biến đổi con người, lao động đã sáng tạo ra con người, xã hội
người, sáng tạo ra các hình thức giao tiếp giữa người với người, và sáng tạo ra
văn nghệ và hoạt động văn nghệ.
Nói lao động sáng tạo ra nghệ thuật trước hết là nói lao động sáng tạo ra
chủ thể thẩm mỹ, tức là con người có khả năng sáng tạo và thưởng thức các hiện
tượng thẩm mỹ, bởi vì thẩm mỹ là một đặc trưng cơ bản của nghệ thuật.
①
Mác-Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, tr.151, NXB Matxcơva.
12
Lao động đã sáng tạo ra đôi bàn tay người kỳ diệu, đôi bàn tay không chỉ
có khả năng lao động sáng tạo, mà còn có khả năng tạo nên những tác phẩm
tuyệt vời. Ăngghen "Bàn tay không chỉ khí quan của lao động, mà còn là sản
phẩm của lao động nữa. Chỉ có nhờ lao động, nhờ thích ứng với những động tác
ngày càng mới, nhờ sự di truyền của sự phát triển đặc biệt đã đạt được bằng
cách đó của các cơ, của các gân, và sau những khoảng thời gian dài hơn, cả của
xương nữa, và cuối cùng, nhờ luôn áp dụng lại sự tinh luyện thừa hưởng được
đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn, mà bàn tay con ngườu mới
đạt được trình độ phát triển rất cao, khiến nó có thể, như một sức mạnh thần kỳ,
sáng tạo ra bức tranh của Raphaen, các pho tượng của Tôvanxen và điệu nhạc
của Paganini"①.
Nhưng văn nghệ không thể chỉ được sáng tạo bằng tay. Cùng với bàn tay,
lao động sáng tạo năng lực cảm giác của con người và thế giới tâm hồn của con
người. Mác viết: "Chỉ nhờ sự phong phú của sinh thể người được mở ra trong
thế giới vật chất thì mới phát triển, và phần nào, lần đầu tiên mới nảy sinh ra sự
phong phú của con người về mặt tính chủ quan: cái tai biết nghe nhạc, con mắt
thấy được vẻ đẹp của hình thức- nói gọn lại, là những giác quan có khả năng
hưởng thụ theo kiểu người và tự khẳng định mình như là những năng lực sức
mạnh bản chất của con người. Bởi vì không chỉ là năm giác quan bên ngoài, mà
cả các giác quan được gọi là giác quan tinh thần, giác quan thực tiễn (ý chí, tình
yêu...) tóm lại, là giác quan con người, tính người của các giác quan đã xuất hiện
nhờ sự có mặt của một đối tượng phù hợp, nhờ có một tự nhiên đã được người
hoá". Quả vậy, cùng với sự sáng tạo ra một "thiên nhiên thứ hai" nhờ bàn tay lao
động (cây cỏ do con người trồng; cầm thú do con người nuôi; công cụ lao động,
áo quần, nhà cửa do con người làm ra) dần dần con người có được năng lực
"nhân đôi" thế giới trong tinh thần; biết nhìn ra ý nghĩa người của thế giới tự
nhiên, biết hình dung trước bằng tinh thần cái kết quả sẽ đạt được bằng lao
động, biết "vật thể hoá" nguyện vọng, ý chí, nhu cầu con người vào thế giới tự
①
Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên, tr. 225, NXB Sự thật, Hà Nội, 1982
13
nhiên. Năng lực đó làm phát triển óc tưởng tượng của con người, tạo ra khả
năng khả năng sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật nguyên thuỷ. Gorki đã
phát hiện ra trong truyện cổ tích ước mơ cải tạo thế giới, sáng tạo công cụ lao
động: "Ngay từ thời cổ, con người đã ước mơ có thể bay lên không trung như ta
có thể thấy qua truyện Phaêtôn, truyện Đê đan và con trai Icarơ, cùng truyện tấm
thảm biết bay. Họ mơ ước tìm cách di chuyển nhanh hơn trên mặt đất- truyện cổ
tích về đôi hài vạn dặm- họ thuần phục giống ngựa, ý muốn di chuyển trên sông
nhanh hơn dòng nước đã đưa đến phát minh ra chèo và buồm, ý muốn giết kẻ
thù hay săn thú từ xa là nguyên do phát sinh ra cung, nỏ, tên. Họ mơ tưởng có
thể dệt xong trong một đêm một số vải vóc thật lớn, xây xong trong một đêm
một ngôi nhà thật tốt hay thậm chí cả một toà "lâu đài", tức là một chỗ ở kiên cố
có thể chống chọi với kẻ thù, họ sáng tạo ra xa quay sợi, một trong những công
cụ cổ xưa nhất, sáng tạo ra khung dệt vải bằng tay và sáng tạo ra truyện cổ tích
về nàng Vaxilixa khôn ngoan tuyệt trần"①. Gorki đã chỉ rõ là những năng lực và
ước mơ nảy sinh trong lao động đã trở thành nguyên nhân của những hình tượng
nghệ thuật cổ xưa.
Năng lực sáng tạo ra thế giới vật thể trong thực tế lao động sản xuất là
nguyên nhân tạo ra năng lực sáng tạo một thế giới tinh thần của người nguyên
thuỷ. Đó là sự mở rộng năng lực cải tạo tự nhiên sang địa hạt tưởng tượng, mà
động cơ mục đích đều gắn liền với lao động.
Lao động chẳng những tạo ra những chủ thể thẩm mỹ mà còn trực tiếp
tạo ra các hiện tượng thẩm mỹ trong đời sống. Các giá trị thẩm mỹ lúc đầu còn
hoà rộng, đồng nhất với giá trị thực dụng, với cái có ích, về sau dần dần tách ra
thành một giá trị độc lập.
Phương tiện để đạt được mục đích đó là nghệ thuật múa, ca, nhảy, nghi lễ
trong các hình thức nguyên hợp. Không phải ngẫu nhiên mà quy luật đồng hoá,
truyền cảm là yêu cầu cơ bản nhất của nghệ thuật nói chung, lại thể hiện nổi bật
trong nghệ thuật nguyên thuỷ. Các điệu nhảy múa, bài ca theo các đề tài săn bắn,
①
Gooki Bàn về văn học, tr.152-153, NXB Hà Nội, 1962
14
chiến tranh, canh tác... đều mang tính chất tập thể. Quanh đóng lửa trại, cả người
nhảy lẫn người xem như đều đốt chung bởi một ngọn lửa, đều hoà nhịp trong
các động tác dậm chân, lắc mình, cùng chung một trạng thái tâm lý trong tiếng
hát, tiếng thét. Các nhịp điệu bài ca ấy làm sống lại nhiệt tình, niềm vui, lòng
khao khát trong các cuộc đi săn, và bằng cách đó họ truyền đạt tận mỗi người cái
tình chung đang thống nhất họ lại. Quy luật đồng hoá và quy luật truyền cảm là
điều kiện không thể thiếu để truyền đạt những giá trị tinh thần trong quá trình
sản sinh ra đời sống tinh thần xã hội. Đó không chỉ là hoạt động thẩm mỹ mà
còn là hoạt động tổ chức xã hội về giáo dục con người.
Như vậy, nghệ thuật, mặc dầu bề ngoài có vẻ như "vô ích", "vô can" với
việc sản xuất vật chất trực tiếp, nhưng thực ra là đáp ứng một nhu cầu khách
quan tất yếu. Thiếu nó con người khó mà sống chung và tiến hành sản xuất xã
hội một cách có hiệu quả. Từ sự ra đời của nghệ thuật như đã trình bày ở trên có
thể thấy rằng, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, văn nghệ không phải đơn giản
là một hoạt động trực quan hay tự biểu hiện cá nhân mà là một hoạt động tinh
thần thực tiễn của con người. Trong lời nói đầu của tác phẩm Phê phán chính
trị-kinh tế học 1895: "Vật phẩm rnghệ thuật cũng là một cái gì tương tự như mọi
sản phẩm khác, nó sáng tạo ra một công chúng hiểu được nghệ thuật và có khả
năng thưởng thức được vẻ đẹp. Vì thế sản xuất chẳng những sản xuất ra đối
tượng cho chủ thể, mà còn sản xuất ra chủ thể cho đối tượng". Như vậy, văn
nghệ là một hoạt động nhằm sản xuất ra năng lực hiểu biết nghệ thuật và hiểu
biết lẫn nhau qua nghệ thuật, biết chiếm lĩnh đời sống theo các quy tắc của vẻ
đẹp, sản xuất ra năng lực ý thức.
c. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn nghệ
Thấm nhuần quan điểm mác - xít, đồng chí Phạm Văn Đồng trong tác
phẩm Về văn hoá văn nghệ nhấn mạnh: "Văn học, nghệ thuật là một mặt hoạt
động của con người nhằm hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội, chủ
yếu là con người, đời sống và cuộc chiến đấu của họ".
15
Xây dựng văn nghệ nhân dân Việt Nam trình Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ hai (tháng 2/1951).
Đẩy mạnh sáng tác và biểu diễn, nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của tác phẩm.
Đẩy mạnh sáng tác là một nhiệm vụ chủ yếu của cuộc vận động văn
nghệ. Tác phẩm là vũ khí để động viên và giáo dục quần chúng, là tiêu chuẩn để
hướng dẫn hoạt động văn nghệ của quần chúng.
Để nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm cần phải đi sâu
vào thực tế, đi sâu vào tầng lớp nhân dân và đặc biết quần chúng công, nông,
binh. Phải ra sức cải tạo tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập chủ
trường của Đảng và Chính phủ.
Đi đôi với sáng tác chúng ta phải nâng cao nghệ thuật biểu diễn, kịch
nhạc. Cần tổ chức các đội công tác văn nghệ biểu diễn, ca kịch lưu động trong
quần chúng. Các nhà soạn kịch của ta nên viết nhiều vở ngắn sát với nhu cầu
thực tế để cung cấp cho các dội kịch lưu động và các tổ văn nghệ các câu lạc bộ.
Cần phải đào tạo nhiều cán bộ lấy ngay trong quần chúng công- nông- binh,
chọn những người có năng khiếu nhất để cung cấp cho kịch và nhạc.
Bồi dưỡng hướng dẫn phong trào văn nghệ quần chúng. Hướng dẫn khả
năng văn nghệ của nhân dân mà chủ yếu là công- nông- binh tạo điều kiện cho
quần chúng tiến lên làm chủ thực sự của nền văn hoá mới. Công việc phát triển
phong trào văn nghệ quần cúng có tính hai mặt. Một mặt phổ biến văn nghệ mới
trong nhân dân. Mặt khác, phải khuyến khích giúp phương tiện hướng dẫn sáng
tác nghệ thuật của quần chúng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và của Chính phủ về văn nghệ:
- Đề cao công tác văn nghệ xứng với công dụng giáo dục của nó, phổ biến
quan niệm và chính sách văn nghệ của Đảng trong các cấp bộ Đảng. Cán bộ
chính trị, đặc biệt là cán bộ tuyên truyền, giáo dục, phải học lý luận văn nghệ để
lãnh đạo phong trào văn nghệ một cách đúng mức.
16
- Giáo dục cải tạo tư tưởng, bồi dưỡng trình độ chính trị, lý luận văn nghệ
mới cho các đồng chí văn nghệ và nói chung của những người làm công tác văn
nghệ. Tự các đồng chí phải học tập, phải năng tự kiểm thảo về tư tưởng, tác
phong và nghệ thuật. Mặt khác, Đảng cần phải theo dõi kiểm tra để kịp thời sửa
chữa những sai lầm.
- Khuyến khích những đồng chí của Đảng, nhất là các đồng chí có kinh
nghiệm công tác quần chúng, hiểu biết đường lối của Đảng và có năng khiếu văn
nghệ. Những cán bộ ấy được giáo dục về nghệ thuật sẽ chóng trở thành lực
lượng chủ yếu của văn nghệ mới, sẽ giúp cho sự thay đổi mau chóng bộ mặt văn
nghệ Việt Nam ngày nay.
II. MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NGUYÊN LÝ MÁC-LÊNIN VỀ SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HOÁ VĂN NGHỆ
Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng dựa vào những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin về văn hoá, văn nghệ. Chúng ta có thể tóm tắt các nguyên lý
đó vào các điểm sau:
1. Văn hoá là một hiện tƣợng xã hội
Khi xác định văn hoá là một hiện tượng xã hội, chủ nghĩa Mác-Lênin cho
rằng phương thức sản xuất của cải vật chất quyết định toàn bộ sinh hoạt xã hội,
chính trị, tinh thần. Quá trình phát triển văn hoá nói chung do phương thức sản
xuất vật chất quy định. Nhưng vấn đề không đơn giản. Do sự phát triển của
phương thức sản xuất, một chế độ xã hội nhất định tiến lên một chế độ xã hội
khác cao hơn, và theo đó nền văn hoá của chế độ cũ cũng tiến lên thành một nền
văn hoá do chế độ mới sinh ra. Như vậy là sự tác động của sản xuất vật chất đối
với văn hoá thể hiện gián tiếp thông qua chế độ chính trị và các quan hệ xã hội.
Trong các xã hội có mâu thuẫn đối kháng, nói chung tư tưởng thống trị xã
hội là tư tưởng của giai cấp nắm quyền lợi về kinh tế, nhưng chế độ thống trị có
vai trò khác nhau đối với văn hoá, tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội.
17
Khi một phương thức sản xuất đang ở giai đoạn phát triển, quyền lợi của
giai cấp thống trị ít nhiều trùng hợp với quy luật lịch sử khách quan, nên về cơ
bản, hoạt động của giai cấp này phù hợp với tiến bộ xã hội. Nhưng khi sức sản
xuất không phù hợp với quan hệ sản xuất, thì lợi ích của giai cấp thống trị mâu
thuẫn với tiến bộ xã hội, chế độ xã hội lúc đó trở thành chướng ngại vật cho sự
phát triển của xã hội và văn hoá. Trong giai đoạn suy thoái của một phương thức
sản xuất, văn hoá của giai cấp thống trị cũng bị suy thoái và tan rã. Vào thời kỳ
phát triển và củng cố lực lượng tiến bộ, hình thành quan hệ xã hội mới, thường
nảy ra sự nở rộ của văn hóa dân tộc, trùng hợp với văn hóa của các lực lượng
tiến bộ mới.
2. Tính giai cấp, tính nhân dân của văn hoá
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, văn hóa chủ yếu bị chi phối bởi giai
cấp thống trị, những giai cấp thống trị chỉ hướng sự phát triển văn hóa vào sự
đáp ứng quyền lợi và nhu cầu của chúng. Giai cấp bị trị cũng xây dựng văn hoá
thích hợp với mình, trong điều kiện có thể và bị nhiều hạn chế. Trong tác phẩm
Phê phán vấn đề dân tộc của Lênin có viết: "Có hai văn hoá trong mỗi nền văn
hoá dân tộc". Đó là nền văn hóa tư sản tồn tại dưới dạng văn hóa thống trị, và
văn hóa của quần chúng bị bóc lột tồn tại dưới dạng những yếu tố ít nhiều phát
triển, và nói chung là ít có khả năng phát triển thuận lợi. Tuy vậy giai cấp thống
trị không thể xoá bỏ văn hóa của quần chúng nhân dân, vì nền văn hóa ấy cũng
như bản thân nhân dân là bất diệt, và nó được kế thừa, nuôi dưỡng trong lòng
các thế hệ nối tiếp quần chúng bị bóc lột. Do đó, mà giữa văn hóa thống trị và
văn hóa quần chúng nhân dân, cuộc đấu tranh giai cấp bao giờ cũng tồn tại dưới
nhiều dạng vẻ và mức độ.
Tính tư tưởng của giai cấp thống trị có ảnh hưởng rất rõ trong mọi hình
thái ý thức xã hội, chính trị, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật và đặc biệt là tôn
giáo, có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành văn hoá tinh thần của xã hội.
Còn quần chúng bị bóc lột một mặt cũng bị ảnh hưởng của tư tưởng trên, mặt
khác tư tưởng của họ đối lập với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Họ có ý
18
muốn tìm hiểu số phận, vị trí xã hội bị áp bức của mình, và muốn tìm con đường
giải phóng, nhưng thường rơi vào ảo tưởng bi quan, và rồi cũng thường dễ hoà
hoãn với tư tưởng của giai cấp thống trị. (Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp
vô sản mới tránh được những sai lầm về tư tưởng này).
Trong xã hội tư bản thế giới hiện nay, có sự đụng đầu một bên là văn hóa
của giai cấp tư sản hiện đại và bọn đế quốc phản động, với một bên là văn hóa
vô sản hùng mạnh, biểu hiện ở tư tưởng khoa học Mác-Lênin, ở phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế ngày càng giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Trong khi nhấn mạnh tính giai cấp của văn hóa, cũng cần chú ý đến tính
nhân loại phổ biến của nó. Không nên đơn giản cho rằng mọi yếu tố của văn hóa
đều mang tính giai cấp. Có những yếu tố văn hóa vật chất không mang tính giai
cấp, như các phương tiện sản xuất, các công cụ lao động, các kinh nghiệm sản
xuất, kỹ thuật (vấn đề ở đây rất phức tạp, cần xem xét kỹ từng yếu tố, để phân
định rõ tính giai cấp của nó).
3. Tính dân tộc của văn hoá
Trong văn hóa tinh thần, cũng không phải bất kỳ yếu tố nào cũng xuất
phát từ quyền lợi của một giai cấp, vì ở đây bên cạnh tính giai cấp, còn thường
bao hàm tính dân tộc, tính nhân dân và tính nhân loại phổ biến. Và thường có
những giá trị văn hóa đã trở thành tài sản chung của nhân dân. Xã hội phê phán
những phần lạc hậu mang tính giai cấp thống trị, nhưng sử dụng những phần
mang tính nhân loại phổ biến, tính dân tộc, tính nhân dân của những giá trị đó và
chỉ phủ nhận khi chúng đứng về lợi ích của giai cấp thống trị phản động.
Tính dân tộc của văn hoá thể hiện ở chỗ, bất cứ nền văn hoá nào cũng là
sản phẩm sáng tạo của một chủ thể, bằng một chất liệu nhất định. Chủ thể văn
hoá bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, nói thứ tiếng của dân tộc, mang bản sắc
văn hoá của dân tộc, tâm lý của dân tộc. Người thưởng thức văn hoá trước hết
cũng thuộc dân tộc dùng thứ tiếng nói ấy. Kết quả là văn hoá bao giờ cũng mang
tính dân tộc. Đó là lý do khiến cho văn hoá Pháp khác văn hoá Mỹ, văn hoá Đức
khác văn hoá Nga, văn hoá Việt khác văn hoá Trung Quốc.
19
Tính dân tộc của văn hoá thể hiện ở tâm lý dân tộc, tâm hồn dân tộc, ngôn
ngữ dân tộc, truyền thống tư tưởng, nghệ thuật, thẩm mỹ dân tộc, văn hoá dân
tộc. Ví dụ: quan niệm sống phương Tây đề cao cá nhân, phương Đông coi trọng
cộng đồng. Phương Tây chiếm lĩnh thiên nhiên, phương Đông thích hoà hợp với
thiên nhiên. Phương Tây thích pháp luật rạch ròi, phương Đông chuộng tình
nghĩa. Những điều ấy và nhiều điều khác nữa tạo thành tính dân tộc trong văn
hoá.
Tính dân tộc trước hết là một thuộc tính của văn hoá, trong nghệ thuật nó
biểu hiện thành một tính chất thẩm mỹ.
4. Giao lƣu, tiếp biến và đấu tranh trong văn hoá
Mỗi dân tộc đều giữ gìn, truyền lưu và phát triển qua nhiều thế hệ nền văn
hóa của mình. Nền văn hoá đó mang những nét bản sắc, nét đặc thù, khác biệt
với nền văn hóa khác, phát triển nhiều hình thức dân tộc, ngôn ngữ dân tộc, lối
sống dân tộc, tâm lý dân tộc, truyền thống dân tộc. Đồng thời các dân tộc không
sống biệt lập với nhau mà còn giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, tác dụng và
chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
Tính chất kế thừa lịch sử trong sự phát triển sản xuất vật chất chính là cơ sở cho
tính kế thừa trong sự phát triển của văn hóa. Lênin đã chỉ rõ: “Văn hóa vô sản
phải là sự phát triển lôgíc của tổng thể tri thức mà nhân loại đã tạo ra dưới ách
áp bức của xã hội tư bản chủ nghĩa, địa chủ và quan liêu”①.
Kế thừa trong sự phát triển văn hóa là một quá trình phức tạp, đầy mâu
thuẫn biện chứng, bảo lưu những giá trị tốt đẹp của quá khứ, nhưng không thể tự
giới hạn ở đó, không dừng lại, mà phải biết đánh giá cái cũ, bổ sung làm phong
phú giá trị để phù hợp với nhiệm vụ mới của thời đại, đó là ý nghĩa của vấn đề
truyền thống và cái mới. Quá trình phát triển của văn hóa trong cách mạng tư
tưởng- văn hóa là một quá trình điều khiển, không vội vã, khiên cưỡng, tự phát,
mà là một sự kế thừa có chọn lọc, một sự tiến lên hợp quy luật, có liên quan đến
các điều kiện kinh tế, yêu cầu chính trị và xã hội.
20
Trên thế giới, trong quá trình lịch sử lâu dài, đã nảy sinh nhiều nền văn
hóa, văn minh dân tộc rực rỡ. Đó là những nền văn hóa đã được kế thừa và phát
triển trong các nền văn hóa hiện đại. Nhưng cũng có nhiều nền văn hóa dân tộc
bị lãng quên mất mát vì thiên tai, vì địa biến, vì chiến tranh xâm lược. Nhiều giá
trị văn hóa dân tộc không có điều kiện để truyền lưu, nhưng một khi nhờ có
công trình tìm tòi, khảo cứu, khai quật là chúng được phát hiện, chúng lại di
nhập vào kho tàng di sản chúng của văn hóa loài người với một vị trí vinh
quang. Điều đó chứng tỏ những giá trị văn hóa dân tộc cao có một đời sống hết
sức bền vững, chúng sẽ tồn tại mãi về sau khi mà cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội
đã sản sinh ra nó đã lùi xa vào dĩ vãng.
Lịch sử cho thấy, việc các nền văn hóa ảnh hưởng, tác động lẫn nhau là
quy luật tất yếu, hoặc do hệ quả của sự xâm lược, hoặc do sự phát triển giao lưu,
hoà bình. Có khi một nền văn hóa do sự tiếp thu hoà bình những yếu tố văn hóa
từ bên ngoài một cách hợp lý, có thể xây dựng một nền văn hóa cao hơn, nhưng
cái nền văn hóa bản địa vẫn phải là cái gốc, cái cơ sở. Nếu không giữ gìn cái
gốc, nền văn hóa bản địa bị lai căng, thì nền văn hóa đó sẽ yếu đi, có nguy cơ bị
suy thoái, ảnh hưởng đến lối sống và bản lĩnh của dân tộc. Ở Việt Nam, qua
1000 năm đô hộ của phương Bắc, văn hóa dân tộc không bị tiêu vong, mà vẫn
giữ được bản sắc văn hóa của mình, đó là cơ sở của một tinh thần bất khuất, kiên
trì đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, là mầm mống của một nền văn hóa Đại
Việt khi ách đô hộ của ngoại xâm bị đạp đổ và đất nước được giải phóng. Lẽ tất
nhiên trong 10 thế kỷ bị đô hộ, văn hóa Việt đã tiếp thu nhiều yếu tố tích cực
của văn hóa Trung Quốc, cũng như những yếu tố của văn hóa Ấn Độ và các
nước Đông Nam Á khác, và cái đó làm giàu thêm cho văn hoá dân tộc, điều này
là tất yếu, đúng quy luật.
Trong tình hình hiện nay, sự đấu tranh văn hóa từng dân tộc diễn ra trên
hai bình diện:
①
V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 31, tr.262, NXB Matxcơva.
21
Thứ nhất, đấu tranh giữa văn hóa tiến bộ và văn hóa lạc hậu hoặc phản
động trong nội bộ từng nền văn hóa dân tộc.
Thứ hai, đấu tranh của nền văn hóa tiến bộ dân tộc với những yếu tố văn
hóa phản tiến bộ từ ngoài vào. Cuộc đấu tranh này mở rộng trên bình diện toàn
thế giới: đó là cuộc đấu tranh của văn hóa tiến bộ mà bộ phận tiên phong là văn
hoá các nước xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm hệ tư tưởng và văn
hóa tiến bộ của các nước đang phát triển chống lại sự bành trướng và phá hoại
của văn hóa tư sản, đế quốc, thực dân mới, lấy ý thức hệ tư sản làm chủ đạo.
Cuộc đấu tranh này vẫn diễn ra song song với việc giao lưu văn hóa, tiếp biến
văn hóa giữa tất cả các nền văn hóa khác nhau.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, cuộc đấu tranh và xây dựng văn hóa được
thể hiện qua cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa. Ở Việt Nam cuộc cách mạng
này được tiến hành song song với hai cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và cách
mạng khoa học kỹ thuật, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt.
5. Văn nghệ là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tính hiện thực bằng
hình thức cụ thể sinh động
Văn nghệ là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, do đó nó cũng bị chi
phối bởi những nguyên lý nói trên, tuy vậy do cách phản ánh của văn nghệ có
tính chất đặc trưng (bằng tư duy hình tượng, thông qua hình tượng nghệ thuật)
nên các quy luật về sự sáng tạo nghệ thuật, về tính điển hình, về tính chân thật
nghệ thuật, về vai trò xã hội và chức năng của nghệ thuật cần được nghiên cứu
thành những quy luật mỹ học và nghệ thuật riêng biệt.
Những vấn đề trên được trình bày kỹ ở các giáo trình mỹ học và nghệ
thuật học, ở đây chỉ nghiên cứu mấy vấn đề sau:
a. Về tính giai cấp, tính đảng và tính nhân dân của văn nghệ
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác trong văn hóa tinh thần, xét đến
cùng nghệ thuật cũng phản ánh những kinh tế của xã hội, sự phản ánh đó không
trực tiếp và giản đơn, đôi khi không dễ tìm thấy ngay như một sự chụp ảnh, và
22
hơn nữa sự phát triển của văn nghệ cũng không phải bao giờ cũng diễn ra đồng
bộ với sự phát triển kinh tế.
Tính giai cấp và tính đảng của văn nghệ
Thực ra, nghệ thuật phản ánh quan hệ kinh tế một cách gián tiếp thông qua
sự chi phối trực tiếp của các hình thái ý thức xã hội khác, nhất là hệ tư tưởng
chính trị. Sự thật khách quan bao giờ cũng phản ánh thông qua lăng kính thế giới
quan, cảm quan của nhà nghệ sĩ. Vì vậy, có thể nói sự thật là khách quan, cuộc
sống bao giờ cũng nhào nặn qua chủ quan của tác giả để trở thành sự thật nghệ
thuật, thành tác phẩm nghệ thuật.
Vì vậy tính giai cấp, tính đảng của văn nghệ gắn liền với thế giới quan, ý
thức hệ tư tưởng của tác giả, đại diện cho một tầng lớp, một giai cấp, tập đoàn
nhất định. Các quan điểm chính trị, xã hội của một giai cấp chi phối người nghệ
sĩ khi họ sáng tác dù tự giác hay không tự giác. Và như vậy, xét cho cùng, mỗi
tác phẩm đều có tính giai cấp và tính đảng của mình. Giai cấp tư sản thường nêu
lên những khẩu hiệu như: "nghệ thuật vị nghệ thuật", "nghệ thuật trung lập" thực
chất chỉ là sự đánh lừa, chung quy chỉ là làm cho nghệ thuật thoát ly đấu tranh
xã hội và phục vụ cho những nhu cầu thấp kém và phản động của chúng.
Giai cấp tư sản không dám thừa nhận tính giai cấp, tính đảng của nghệ
thuật, trong khi giai cấp vô sản công khai thừa nhận tính đảng của nghệ thuật
hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Một điểm cần chú ý là sự thể hiện các quan điểm, tư tưởng ở văn nghệ chỉ
thực sự thành công, khi nào những tư tưởng đó toát ra từ bản thân hình tượng, từ
bản thân nội dung tác phẩm, chứ không thể bằng lý luận trừu tượng. Chỉ như
vậy, mới đạt hiệu quả thẩm mỹ cao, bằng cách đi thẳng vào tình cảm, con tim,
chứ không phải qua lý trí khô khan và lạnh lẽo.
Nhà văn trước hết là một con người trong xã hội, Lênin: "cá nhân trong xã
hội bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, không thể là thành viên siêu
giai cấp. Nhưng nhà văn không chỉ là một con người bình thường, mà là một
nghệ sĩ rất nhạy cảm với những vấn đề của cuộc sống; tính giai cấp ở họ do đó
23
càng sắc bén". Gorki đã nhấn mạnh: "Nhà văn là tai, mắt, là tiếng nói của giai
cấp. Nhà văn có thể không có ý thức về điều đó, nhưng bao giờ nhà văn cũng là
một bộ phận, là một cảm quan của giai cấp"1. Dĩ nhiên tính giai cấp của nhà văn
cũng có khi biểu hiện một cách phức tạp, phải được nhìn nhận một cách hết sức
nhạy cảm và thấu đáo. Phải xuyên qua những biểu hiện cá tính và phong thái
bên ngoài mà đi sâu vào quan điểm, lập trường của họ.
Tính Đảng của nghệ thuật vô sản đòi hỏi tính nghệ thuật cao, chứ không
chấp nhận sự minh hoạ chính trị, đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tư tưởng và
nghệ thuật. Vì vậy nó không hạn chế tự do sáng tạo của nghệ sĩ, trái lại nó giúp
sự phát triển hoạt động sáng tạo của nghệ sĩ.
Tính nhân dân của văn nghệ
Xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử cho rằng nhân dân là người sáng tạo
không những ra của cải vật chất mà cả những giá trị tinh thần, chủ nghĩa Mác đã
giải quyết triệt để vấn đề tính nhân dân trong văn học nghệ thuật bằng cách gắn
chặt nó với lý luận của cách mạng vô sản. Muốn cho nhân dân thật sự làm chủ
văn học nghệ thuật từ hai mặt sáng tạo cũng như thưởng thức thì trước hết phải
thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đến tận gốc đối với toàn bộ chế độ xã hội. Chỉ
có chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho nhân dân
phát huy được những khả năng chân chính cũng như hưởng được những quyền
lợi chính đáng của mình, trong đó có phương diện văn học nghệ thuật. Ăngghen
cho rằng "khi lực lượng sản xuất đã đạt đến đỉnh cao, với sự phân công lao động
hợp lý, không chỉ có thể sản xuất đủ bảo đảm tiêu dùng dồi dào cho tất cả các
thành viên trong xã hội, và lập quỹ dự phòng, mà còn có thể dành cho mỗi thành
viên thời giờ nhàn rỗi để nhận thức tất cả những gì thật sự có giá trị trong nền
văn hoá do lịch sử để lại- khoa học, nghệ thuật và các hình thức sinh hoạt tập thể
và không chỉ nhận thức, mà còn biến những thứ ấy từ chỗ là độc quyền của giai
1
Gooki bàn về văn học, tập 1, tr.217, NXB Văn học, Hà Nội, 1965
24
cấp thống trị thành tài sản chung của toàn thể xã hội và góp phần phát triển hơn
nữa tài sản đó"1.
Lênin khẳng định: "Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nó phải bắt rễ sâu xa
nhất dưới cơ sở quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Nó phải được những
quần chúng này am hiểu và ưa thích. Nó phải kết hợp được tư tưởng, tình cảm
và ý chí của quần chúng và nâng cao họ. Nó phải đào tạo được những nghệ sĩ từ
trong quần chúng mà ra, đồng thời làm cho họ phát triển"2.
Quán triệt tư tưởng của các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác, Chủ tịch
Hồ Chí Minh: "Phải đặt rõ văn hoá phục vụ ai? Cố nhiên chúng ta nói là phục vụ
công nông binh, tức là phục vụ đa số nhân dân. Ngay trong đề cương văn hoá
năm 1943, bên cạnh phương châm: "Dân tộc", "khoa học" Đảng ta cũng nêu bật
phương châm "đại chúng". Năm 1944 đồng chí Trường Chinh viết: "Riêng về
văn nghệ mới Việt Nam thì phải có đủ tính dân tộc, tính hiện thực và tính nhân
dân". Tại Đại hội III năm 1960, Đảng ta cũng xem tính nhân dân là một phẩm
chất cơ bản của nền văn nghệ mới: "Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã
hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc".
Chúng ta cũng nhấn mạnh đến tính nhân dân của văn nghệ, là hoạt động
nhằm mục tiêu phản ánh và bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động đáp ứng nhu
cầu thẩm mỹ của quần chúng, và không ngừng nâng cao phẩm chất con người
mới xã hội chủ nghĩa.
Văn nghệ xã hội chủ nghĩa cần phải thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và
tính nhân dân, là hai tiêu chuẩn quan trọng bậc nhất cùng với tính chân thật của
lịch sử của phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa.
b. Vấn đề vai trò xã hội và chức năng của văn nghệ
Đây là một vấn đề cho đến nay đã được bàn cãi rất nhiều, nhưng vẫn còn
được các nhà lý luận tiếp tục nghiên cứu và lý giải. Không ai có thể chối cãi
được vai trò hết sức quan trọng của văn nghệ trong đời sống xã hội, nhưng tác
1
2
Mác-Ăngghen Bàn về nghệ thuật, Tập 2, tr.230, NXB Văn học nghệ thuật Quốc gia, Matxcơva
Lênin Bàn về văn học nghệ thuật, tr.660, NXB văn học nghệ thuật Quốc gia, Matxcơva, 1960
25