HọC VIệN CHíNH TRị - HàNH CHíNH QuốC GIA Hồ CHí
MINH
Nguyễn văn khang
Nguồn nhân lực có chuyên môn
kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xà hội
tỉnh hoà bình
Chuyên ngành
MÃ số
: Kinh tế chính trị
: 60 31 01
Luận văn thạc sÜ kinh tÕ
Ngêi híng dÉn khoa häc: PGS.TS An Nh Hải
Hà nội - 2010
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong Luận văn là trung thực.
Tác giả luận văn
Nguyễn Văn Khang
MC LC
Trang
1
Mở đầu
Chng 1: C S Lí LUN V THC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN
LỰC CĨ CHUN MƠN KỸ THUẬT CHO PHÁT TRIỂN
7
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. Nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật và vai trị của nó đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nguồn nhân lực có
7
chun mơn kỹ thuật
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực có chun mơn kỹ
21
thuật của nước ngồi và một số tỉnh trong nước
32
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CĨ CHUN MƠN
KỸ THUẬT CHO PHÁT TRỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH
39
HỊA BÌNH TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY
2.1. Đặc điểm tỉnh Hịa Bình và tình hình nguồn nhân lực có
chun mơn kỹ thuật trên địa bàn
2.2. Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật
trên địa bàn tỉnh Hịa Bình
39
57
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC CĨ CHUN MƠN KỸ THUẬT CHO
71
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH HÒA BÌNH
3.1. Bối cảnh mới và Phương hướng phát triển nguồn nhân lực có
chun mơn kỹ thuật trên địa bàn tỉnh Hịa Bình đến năm 1015
3.2. Giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực có chun mơn kỹ
thuật ở tỉnh Hịa Bỡnh
88
104
106
KT LUN
DANH MC TI LIU THAM KHO
dANH MụC CáC CHữ VIếT TắT
Chuyên môn kỹ thuật
71
:
CMKT
Chơng trình phát triển của Liên hợp quốc
:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
:
CNH, HĐH
Khu vực tự do thơng mại
:
AFTA
Khu vực châu á - Thái Bình Dơng
:
APEC
Nguồn nhân lực
:
NNL
Tổng thu nhập quốc nội
:
Tổ chức thơng mại thế giới
:
WTO
Vốn đầu t trực tiÕp níc ngoµi
:
FDI
UNDP
GDP
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Bình quân thu nhập đầu người và tuổi thọ của dân số các nước
Bảng 2.1: Số dân và nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Hịa Bình giai
Trang
27
đoạn 2005 - 2009
Bảng 2.2: Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở tỉnh Hịa Bình
46
năm 2005-2010
Bảng 2.3: Nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật tỉnh Hịa Bình
48
năm 2005
Bảng 2.4: Nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật tỉnh Hịa Bình
(2005-2009)
Bảng 2.5: Cơ cấu nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật tỉnh Hịa
51
Bình (2005-2009)
Bảng 2.6: Tình hình chuyển dịch cơ cấu NNL có CMKT tỉnh Hịa
54
Bình (2005-2010)
Bảng 2.7: Số học sinh chun nghiệp trên địa bàn tỉnh Hịa Bình
56
giai đoạn 2005 - 2010
Dự báo nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có
58
Bng 3.1:
53
chuyên môn kỹ thuật của tỉnh Hoà Bình
Bảng
(2010-2015)
Dự báo nhu cầu đào tạo trình độ cao đẳng
3.2:
nghề trên địa bàn tỉnh Hoà Bình đến
năm 2015
78
79
1
Mở đầu
1. Tớnh cp thit ca ti
Hũa Bỡnh l một tỉnh như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, đang
trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Q trình phát
triển này khơng chỉ đòi hỏi một lượng rất lớn các nguồn lực về vốn, tài
ngun và cơng nghệ mà cịn phải có sự phát triển tương xứng về năng lực
của con người sử dụng những nguồn lực sản xuất đó. Nói cách khác, cần phải
có nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi,
thơng minh, sáng tạo, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về
năng lực sản xuất kinh doanh, quản lý doanh nghiệp và về điều hành vĩ mô
nền kinh tế, có trình độ khoa học và cơng nghệ đủ sức thực hiện sự nghiệp
CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, ngang tầm khu vực và thế giới. Chất
lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định chất lng v tc CNH,
HĐH trong các doanh nghiệp cũng nh toàn bộ nền kinh tế
quốc dân nớc ta.
Qua 13 năm thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH, chất lợng
nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực có chuyên môn
kỹ thuật của nớc ta đà có những chuyển biến quan trọng. Từ
chỗ cả nớc chỉ có 17,4% lực lợng lao động đợc qua đào tạo,
có chuyên môn kỹ thuật vào năm 1996, đà tăng lên ở mức
26,3% vào năm 2009; tỷ trọng lao động trong các ngành
công nghiệp và dịch vụ từ 15,6% và 18,7% năm 1996 tăng
lên 20,8% và 26,7% năm 2009, theo đó tỷ trọng lao động
trong nông nghiệp giảm từ 65,7% xuống 52,5%. Nhờ đó, quy
2
mô việc làm, năng suất lao động và chất lợng sản phẩm của
các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế đà đợc cải thiện.
Tuy nhiên, đến nay tình trạng lao động không có
chuyên môn kỹ thuật vẫn là chủ yếu, cả nớc vẫn còn 73,7% lc
lng lao ng cha qua o to, trong đó không ít ngời cha phải là
hon ton gii ngh. C cu lao động trong các ngành nghề còn bị
khp khing: thy nhiu, th ớt. Không Ýt ngêi häc tuy ®· ra trường
nhng vÉn khơng thể lm vic c ngay. Điều này đà to ỏp lc lín cho
vấn đề giải quyết việc làm. Một bộ phận lớn lao động ở các khu vực mới đơ
thị hóa, lao động chuyển dịch từ nơng thơn khơng có tay nghề, lại thiếu cả ý
thức, tác phong, thái độ làm việc... càng làm cho mâu thuẫn giữa “thừa”
và “thiếu” thªm gay gt. Chất lợng nguồn nhân lực thấp là
nguyên nhân chủ yếu làm cho nhiều vị trí chủ chốt trong
các doanh nghiƯp kĨ c¶ doanh nghiƯp trong níc ph¶i sư dụng
lao động nớc ngoài Thực tế ngày càng chứng tỏ lợi thế cạnh
tranh chỉ có thể dựa vào nguồn nhân lực chất lợng cao chứ
không phải là dựa vào lao động giá rẻ. Rõ ràng, chất lợng
nguồn nhân lực thấp và cơ cấu lao động bất hợp lý ở nớc ta
đang là một vấn đề đặt ra cần có những giải pháp thiết
thực.
Để góp phần tìm lời giải cho vấn đề này, xuất phát từ
phạm vi công tác của bản thân hiện nay, tôi chọn đề tài
Ngun nhõn lc cú chuyên môn kỹ thuật cho phát triển kinh tế - xó hi
tnh Hũa Bỡnh để nghiên cứu làm luận văn Cao học chuyên
ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
3
Đến nay, vấn đề nguồn nhân lực đà đợc nghiên cứu
trong một số công trình khoa học ở trong và ngoài nớc. Gần
đây đà có các các công trình:
Nâng cao chất lợng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc của Mai Quốc Chánh,
Nxb Chính trị quóc gia, Hà Nội, năm 1999; Về phát triển
nguồn nhân lực trên thế giới và ở Việt Nam của các tác giả
trong Ban Khoa giáo Trung ơng, xuất bản năm 2000; Chơng
trình hành động phát triển đào tạo nguồn nhân lực 10 năm
thời kỳ 2001-2020 của Bộ Giáo dục và đào tạo, phát hành
năm 2001; Phát triển kinh tế tri thức của GS Đặng Hữu,
Nxb Chính trị quóc gia, Hà Nội, năm 2001; Nghiên cứu con
ngời và nguồn nhân lực của GS Phạm Minh Hạc, Nxb Chính
trị quóc gia, Hà Nội, năm 2001; Vấn đề đào tạo nguồn
nhân lực tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Vũ
Hy Chơng, Nxb Chính trị quóc gia, Hà Nội, năm 2002; Phát
triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, kinh
nghiệm Đông á, của Lê ái Lâm, Nxb Khoa học xà hội, Hà Nội
2003; Sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lợng cao trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nguyễn Hu
Dũng, Nxb Lao động, Hà Nội 2003; Giáo dục Việt Nam hớng
tới tơng lai - vấn đề và giải pháp của Đặng Quốc Bảo và
Nguyễn Đắc Hng, Nxb Chính trị quc gia, Hà Nội 2004; Báo
cáo phát triển Việt Nam 2007 của Ngân hàng thế giới, Nxb
Văn hoá thông tin năm 2007...
Ngoài ra, trên các diễn đàn và thông tin còn có những
bài viết về vấn đề này, ví dụ nh: Cạnh tranh về lao động
trong thời hội nhập đăng trên báo Doanh nhân Sài Gòn ngày
4
25/12/2006; Đừng tự hào lao động giá rẻ đăng trên báo Phụ
nữ ngày 22/12/2006; Nâng chất lợng nguồn lao động, cần
một chiến lợc quốc gia của Hồng Vân, trên báo Ngời lao
động ngày 4/1/2006; Nguồn nhân lực Việt Nam, thừa mà
vẫn thiếu của Ngọc Hằng và Nhị Lê, trên báo Dân trí, ngày
2/1/2007 v.v...
Tại tỉnh Hòa Bình, gần đây đà có một số bài và công
trình nghiên cứu nh: Hoà Bình thế và lực mới trong thế kỷ
XXI của Công ty cổ phần Thông tin Kinh tế đối ngoại, xuất
bản năm 2005. Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chơng
trình hành động số 160/CTr-TU của tỉnh uỷ (khoá XIII) về
thực hiện kết luận Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ơng khoá IX về phát triển giáo dục và đào tạo.
Các công trình khoa học và bài viêt trên đà đề cập và
làm rõ đợc những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực, phân
tích thực trạng và đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực của cả nớc hoặc trong một số ngành, địa phơng. Tuy
nhiên, cha có công trình nào nghiên cứu về nguồn nhân lực
có chuyên môn kỹ thuật trên địa bàn một tỉnh miền núi nh
Hoà Bình dới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài luận văn đợc
tác giả lựa chọn là mới, không trùng với các công trình và bài
viêt đà đợc công bố cho đến nay.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tợng nghiên cứu
Đề tài luận văn này lấy nguồn nhân lực có chuyên môn
kỹ thuật thụng qua đào tạo nghề tiÕp cËn tõ gãc ®é kinh tÕ chÝnh
5
trị trên các khía cạnh số lợng, cơ cấu và chất lợng của cung và
cầu trên thị trờng làm đối tợng nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do việc giải quyết vấn đề nguồn nhân lực có chuyên
môn kỹ thuật thụng qua o to ngh của cả nớc là rất lớn, phải có
khảo sát trên phổ rộng, cần nhiều lực lợng và thời gian, nên
đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi một luận văn cao học, cụ
thể là nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hoà Bình - nơi học viên
đà và đang công tác. Phạm vi thời gian đợc đa vào nghiên
cứu là từ năm 2005 đến nay, có dự báo nguồn nhân lực trên
địa bàn tỉnh đến năm 2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục tiêu nghiªn cøu
Mục tiêu nghiên cứu nhằm nhận diện nguồn nhân lực Việt Nam; các
thách thức và thế mạnh của nguồn lực thông qua đào tạo nghề khi đất nước
bước vào thời kỳ mới; đánh giá tình hình và phương thức tuyển dụng nhân lực
hiện nay; đề ra các mục tiêu cần làm để nâng cao lợi thế lao động Việt Nam
trong bối cảnh mới; dự báo thị trường lao động trong thi gian ti.
Đánh giá thực trạng nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ
thuật thụng qua o to ngh cho phát triển kinh tế - xà hội ở tỉnh
Hòa Bình, những mặt đợc, cha đợc và nguyên nhân. Tìm
ra phơng hớng và các giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực có chuyên môn kỹ thuật ở tỉnh Hòa Bình trong thời gian
tới nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xà hội
của địa phơng.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
6
- Nghiên cứu vai trò của nguồn nhân lực có chuyên môn
kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế xà hội, các nhân tố ảnh
hởng đến việc phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ
thuật, kinh nghiệm các tỉnh bên ngoài tỉnh Hòa Bình về
giải quyết vấn đề này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cung - cầu về nguồn
nhân lực có chuyên môn kỹ thuật ở tỉnh Hòa Bình từ năm
2005 đến nay, làm rõ những kết quả đạt đợc trong đào tạo
và sử dụng nguồn lực này, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
dựa trên tiếp cận của Kinh tế chính trị.
- Đề xuất phơng hớng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao chất lợng nguồn lực này đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức trên địa bàn tỉnh Hòa
Bình trong thời gian đến năm 2015, tầm nhìn đến năm
2020.
5. Phơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, T tởng Hồ Chí Minh, chủ trơng, đờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách của Nhà n ớc về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế xà hội, đồng
thời tham khảo những công trình khoa học đà công bố
của các tác giả, tổ chức trong và ngoài nớc về lao động
trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Cơ sở phơng pháp luận của luận văn là dùng phơng pháp
chung và phơng pháp trừu tợng hoá duy vật biện chứng. Luận
văn sử dụng chủ yếu các phơng pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị, đồng thời kết hợp với sử dụng các phơng ph¸p tiÕp
7
cận hệ thống, tiếp cận lịch sử và các phơng pháp phân
tích, tổng hợp, điều tra xà hội học, thống kê, so sánh, minh
họa...
6. Những đóng góp mới của luận văn.
- Đóng góp về mặt lý luận: Khái quát và hệ thống hóa
những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và vấn đề
đào tạo ngh, giải quyết việc làm trong quá trình phát triển
kinh tế - xà héi ë mét tØnh miỊn nói qua nghiªn cøu thùc tế ở
tỉnh Hoà Bình.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Công trình nghiên cứu
mong muốn là một tài liệu tham khảo bổ ích góp phần cung
cấp thêm căn cứ khoa học cho các cơ quan, ban ngành của
tỉnh Hòa Bình để hoạch định và thực thi các chính sách
về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xà hội trong giai
đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam.
Những kết quả nghiên cứu trong luận văn còn có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và
nghiên cứu khoa học về nguồn nhân lực trong phát triển kinh
tế - xà hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo,
luận văn có kết cấu thành 3 chơng:
Chơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực
có chuyên môn kỹ thuật cho ph¸t triĨn kinh tÕ x· héi.
8
Chơng 2: Thực trạng nguồn nhân lực có chuyên môn kü
tht cho ph¸t triĨn kinh tÕ - x· héi ë tỉnh Hòa
Bình từ năm 2005 đến nay.
Chơng 3: Phơng hớng và các giải pháp nhằm phát triển
nguồn nhân lực có chuyên môn kỹ thuật cho
phát triển kinh tế - xà hội ở tỉnh Hòa Bình.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CĨ CHUN MƠN KỸ THUẬT
CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC CĨ CHUN MƠN KỸ THUẬT VÀ VAI TRỊ
CỦA NĨ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.1. Nguồn nhân lực có chuyên mơn kỹ thuật và đặc điểm của nó
1.1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật
Muốn nhận biết khái niệm NNL có CMKT, trước hết cần tiếp cận từ
khái niệm NNL.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sản xuất của cải vật chất là cơ sở của
đời sống xã hội.
Để tiến hành sản xuất, cần có những yếu tố cơ bản gồm sức lao
động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các yếu tố đó,
sức lao động với tư cách là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó [20, tr.251].
ln được coi là yếu tố tích cực, năng động, sáng tạo, có ý nghĩa quyết định
nhất đối với sản xuất.
Theo sự phát triển của nền sản xuất xã hội, sức lao động của xã hội
khơng ngừng được hồn thiện, phát triển và nhận thức về nguồn lực này cũng
ngày càng được đầy đủ hơn. Sự phát triển nhận thức về sức lao động của xã
hội được thể hiện trong khái niệm NNL.
Nếu như trước đây, NNL chỉ đơn thuần được coi là phương tiện, là một
trong số nguồn lực cho phát triển như các nguồn lực vật chất khác, thì ngày
nay NNL cịn được xác định là mục tiêu của sự phát triển. Trong điều kiện
10
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố trí tuệ của con người ngày
càng được đề cao, được đánh giá là nguồn lực vơ tận, có tính quyết định đối
với phát triển và tiến bộ xã hội. NNL đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao (hay nói cách khác là NNL có chun mơn kỹ thuật), nếu biết khai thác và
bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả năng tái sinh nhanh. Chính vì
thế, nghiên để cứu phát triển NNL phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội đã
và đang là vấn đề mà mọi quốc gia đều quan tâm đặc biệt.
Đến nay nội hàm khái niệm NNL đã có nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng
hạn, theo lý thuyết lao động xã hội. NNL theo nghĩa rộng là nguồn cung cấp
sức lao động cho sản xuất và cho sự phát triển xã hội, do đó bao gồm tồn bộ
dân cư có cơ thể phát triển bình thường (trừ những người bị d tt). Theo
nghĩa ny, NNL đợc hiểu nh nguồn lực con ngêi cđa mét
qc gia, vïng l·nh thỉ, ngµnh vµ là một bộ phận của các
nguồn lực có khả năng huy động để tham gia vào quá trình
phát triển kinh tÕ x· héi, nh nguån lùc vËt chÊt, nguån lùc tµi
chÝnh. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động thực tế của xã hội, bao
gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động đang tham gia vào quá trình sản
xuất xã hội.
Theo kinh tế chính trị học Mác xớt, NNL với t cách là yếu tố phát
triển kinh tế - xà hội , là khả năng lao động cđa x· héi mµ
theo nghÜa cơ thĨ, nã bao gåm nhóm dân c trong độ tuổi
lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này NNL tơng
đơng với nguồn lao động, nghĩa là nó bao gồm mọi cá
nhân, những con ngời cụ thể tham gia vào quá trình lao
động, là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh thần đợc
huy động vào quá trình lao động. Vai trò của các yếu tố này
đà đợc C.Mác đề cập đến: Sức lao động hay năng lực lao
động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn t¹i
11
trong một cơ thể , trong một con ngời đang sống và đợc ngời đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó.
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con ngời
, nó phản ánh khả năng lao động của con ngời và là điều
kiện tiên quyết của mọi quá trình lao động xà hội . Quỏ trình
vận động phát triển sản xuất xà hội đòi hỏi sức lao động
ngày càng có chất lợng cao hơn. Sức lao động của con ngời
trong sản xuất, kinh doanh đợc coi nh một yếu tố chi phí sẽ
đợc đa vào giá thành của sản phẩm thông qua tiền lơng,
quyền lợi vật chất khác mà ngời lao động đợc hởng và yếu tố
này đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp và cho x· héi .
Theo lý luận về tăng trưởng kinh tế, NNL là yếu tố chủ yếu của sự tăng
trưởng kinh tế. Mức độ đáp ứng về NNL đóng vai trò quyết định bảo đảm tốc
độ tăng trưởng kinh tế trong từng điều kiện cụ thể.
Theo lý thuyết về con người, đầu tư hợp lý vào phát triển NNL sẽ mang
lại nguồn lợi lớn hơn so với các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên
nhiên và công nghệ.
Theo quan niệm của Ngân hàng Thế giới (WB), NNL là toàn bộ vốn
con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp... do một cá nhân sở
hữu. Đầu tư cho con người là cơ sở vững chắc cho phát triển bền vững. Đầu
tư cho giáo dục có tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn so với các lĩnh vực khác: đối với
tiểu học là 24%, trung học là 17%, cao đẳng và đại học là 14%, và các ngành
sản xuất vật chất là 13%.
Theo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), NNL là tổng
thể những năng lực (cơ năng và trí năng) của con người được huy động vào
quá trình sản xuất, là nội lực xã hội của một quốc gia. Việt Nam đang có NNL
12
dồi dào, nếu biết khai thác hợp lý sẽ tạo ra động lực to lớn cho sự phát triển
kinh tế - xã hộ của đất nước.
Theo giáo trình kinh tế học lao động của Đại học Kinh tế quốc dân thì
NNL là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất
của sự phát triển xã hội.
So với các nguồn lực kinh tế khác như nguồn lực tài chính, nguồn lực
vật chất và nguồn lực cơng nghệ, thì NNL chịu sự tác động của cả yếu tố tự
nhiên (sinh, chết...) và yếu tố xã hội (việc làm, thu nhập và thất nghiệp...).
NNL cần được hiểu như là nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực
con người cho sự phát triển, do đó, là tổng thể nhng con ngi c th tham
gia vo quá trình lao ng xà hi.
ở nớc ta, theo Hiến pháp năm 1992 của nớc Cộng hoà xÃ
hội chủ nghĩa Việt Nam, thì những ngời trong độ tuổi từ
đủ 15 đến 60 tuổi ®èi víi nam vµ tõ ®đ 16 ®Õn 55 ti
®èi với nữ, đều nằm trong độ tuổi lao động.
NNL thờng đợc xem xét, đánh giá trên các phơng diện
số lợng, chất lợng, cơ cấu vv... Số lợng NNL đợc biểu hiện
thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng NNL. Chất lợng
NNL là tổng thể những đặc trng, phán ánh bản chất, tính
đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động trực tiếp sản xuất
và phát triển của con ngời. Đó là khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trng về trạng thái thể lực, trí lực, kỹ năng,
phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của NNL.
Tuy nhiên, nguồn lao động khi bao hàm toàn bộ dân c
trong độ tuổi lao động, nó chỉ bao gồm lực lợng lao động nghĩa là nó phải loại trừ những ngời trong độ tuổi này hoàn
toàn mất khả năng lao động hoặc không đủ điều kiện lao
động. Khi tính toán nguồn lao động xà hội thì Tổng cục
13
Thống kê cho rằng: nguồn lao động là những ngời trong độ
tuổi có khả năng lao động và những ngời ngoài độ tuổi lao
động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân .
Nh vậy, khác nhau cơ bản giữa hai khái niệm nguồn lao
động và NNL là việc tính hay không tính những ngời ngoài
độ tuổi lao động đang làm việc ở các ngành kinh tế quốc
dân trong ngn lao ®éng.
ë ViƯt Nam hiƯn nay ®· thèng nhÊt cách tiếp cận coi
NNL chính là nguồn lực lao động bao gồm những ngời đủ 15
tuổi trở lên có việc làm (gồm cả những ngời trên độ tuổi qui
định của Bé luËt lao ®éng, nhng thùc tÕ vÉn ®ang tham gia
vào quá trình lao động) và những ngời trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động nhng cha làm việc do đang
trong tình trạng thất nghiệp, đang đi học, đang đảm đơng nội trợ trong gia đình và kể cả không có nhu cầu làm
việc trong thời điểm hiện tại. Bộ phận chủ yếu của NNL là
nguồn lao động. Đó là một bộ phận dân c có khả năng về
thể chất và tinh thần có thể tham vào quá trình lao động
theo luật định .
Ngày nay, khoa học và công nghệ đang ở giai đoạn
phát triển cao, các nguồn lực cho sự phát triển đang có
nhiều thay đổi rất căn bản, tài nguyên thiên nhiên đang lùi
dần về vị trí thứ yếu, kinh tế tri thức đang lên ngôi. Trong
phân tích kinh tế, ngời ta thiên về khai thác lợi thế so sánh
động. Nhng xà hội càng phát triển thì nguồn lực lao động với
đầy đủ ý nghĩa của nó, trong đó bao hàm cả chủ thể mang
trong mình nguồn lực của khoa học, đang ngày một trở nên
quan trọng, không những có ý nghĩa quyết định đến năng
14
lực cạnh tranh của một quốc gia, mà thậm chí còn quyết
định đến bản chất của toàn bộ quá trình ph¸t triĨn.
Bên cạnh khái niệm NNL, trong nghiên cứu cịn có khái niệm vốn nhân
lực. Đó là tiềm năng và khả năng phát huy tiềm năng về sức khỏe, kiến thức
của các cá nhân và là cái mang lại lợi ích trong tương lai cao hơn và lớn hơn
những lợi ích hiện tại. Khái niệm “vốn” được hiểu là giá trị mang lại lợi ích
kinh tế - xã hội để chỉ ra tầm quan trọng của việc đầu tư vào phát triển con
người thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhằm tạo ra những
người lao động có chun mơn kỹ thuật cao, có khả năng nhận thức và tiếp
thu kiến thức, có sức khỏe đáp ứng được những địi hỏi ngày càng cao của
cơng việc. Bởi vì, cũng giống như các nguồn lực khác, để có thể đem lại lợi
ích kinh tế thì bản thân nó phải có giá trị. Giá trị vốn nhân lực ở đây chính là
giá trị sức lao động. Mức của nó cao hay thấp phụ thuộc vào thể chất, trình
độ, trí tuệ và khả năng của mỗi người. Để trở thành vốn nhân lực, người ta
phải được giáo dục, đào tạo qua một thời gian nhất định theo một trình độ
chun mơn k thut nht nh.
Từ những nhận thức nêu trên, cú thể hiểu, NNL về chất là tổng
thể sức lao động của xã hội, bao gồm cả thể lực và trí lực, được huy động vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nó là tổng thể hữu cơ của nhiều yếu tố
hợp thành như thể chất, trí tuệ cùng với trình độ văn hóa, kỹ năng chun
mơn, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ và phong cách làm việc v.v…của
người lao động. Về lượng, NNL bao gồm toàn bộ những người có khả năng
lao động trong nền kinh tế, trong đó thành phần quan trọng nhất là những
người trong độ tuổi lao động và đang lao động. NNL là nguồn lực đặc biệt,
nguồn nội lực quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và kinh tế
tri thức đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, cần phải được quan
tâm phát triển.
15
Xét trên bình diện cá nhân, NNL bao gồm ba yếu tố cơ bản là thể lực,
trí lực và phẩm chất. Thể lực của NNL là trạng thái sức khỏe. Một người có
sức khỏe tức là có khả năng học tập, rẻn luyện và có khả năng làm việc bền
bỉ, lâu dài. Ngược lại, nếu thể lực yếu thì tinh thần khơng sảng khối, khơng
thể say sưa học tập, nên hạn chế về sự phát triển trí tuệ của cá nhân và khơng
thể làm việc bền bỉ, lâu dài. Trí lực của nguồn NNL là kiến thức, trình độ
chun mơn kỹ thuật để lao động. Đây là yếu tố ngày càng có vai trị quyết
định trong phát triển NNL, nhất là trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với kinh tế tri thức như Việt Nam. Phẩm chất NNL là nhân cách, tính trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong làm việc của người lao động. Nó
thể hiện những chuẩn mực xã hội của con người ở độ tuổi trưởng thành. Phẩm
chất kết hợp với trí lực và thể lực tạo nên những giá trị cơ bản của nhân cách,
của chất lượng NNL từ phương diện cá nhân đến xã hội.
Người ta có thể căn cứ vào yếu tố chất lượng để phân chia NNL của xã
thành hai bộ phận: NNL có chun mơn kỹ thuật và NNL khơng có chun
mơn kỹ thuật. NNL có chun mơn kỹ thuật bao gồm những người đã qua đào
tạo được huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực có chun mơn kỹ thuật
NNL có chun mơn kỹ thuật là khái niệm dùng để phân biệt với khái
niệm NNL khơng có CMKT. Đó là những người được đào tạo một chun
mơn hoăc một ngành, nghề nào đó để tham gia vào hoạt động kinh tế, xã hội
có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Những người này có thể được
phân chia ra thành các bộ phận khác nhau như: NNL là cơng nhân lỹ thuật,
NNL là những người có trình độ trung cấp kỹ thuật, NNL là những người có
trình độ đại học và cao đẳng trở nên (còn gọi là những người có trình độ
CMKT cao). Cũng có thể phân chia NNL có CMKT theo sự tham gia của họ
vào hoạt động trong hệ thống ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, như:
NNL cho sản xuất kinh doanh, NNL cho hoạt động khoa học và công nghệ,
NNL cho hoạt động giáo dục và đào tạo v.v… Tuy có phân chia ra thành
16
những bộ phận khác nhau như trên, song nhìn chung NNL có CMKT có
những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Một là, hoạt động kinh tế xã hội của những người này là lao động phức
tạp dựa trên CMKT đã được đào tạo ở các trường chuyên nghiệp, được trang
bị kỹ năng thực hành về một cơng việc nào đó. Tính phức tạp của lao động
càng cao, tức là chuyên môn hóa sản xuất và cơng việc càng sâu bao nhiêu thì
càng địi hỏi người lao động chun mơn hóa sâu bấy nhiêu. Tức là trình độ
CMKT của họ càng cao hơn.
Hai là, do được đào tạo về CMKT, nên hoạt động lao động của những
người này có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn so với những người
lao động khơng có CMKT. Tính kỷ luật của họ cũng cao hơn. Hoạt động lao
động địi hỏi có tính chính xác và tự tin hơn. Trong cùng một thời gian lao
động, người có CMKT sẽ tạo ra được nhiều sản phẩm hơn, chất lượng tốt hơn
và sản phẩm có giá rẻ hơn vì ít có thao tác làm việc thừa hơn so với những so
với người khơng có CMKT.
Ba là, hoạt động lao động của người có CMKT thường có tính chuyên
nghiệp, mang bản sắc, cách thức riêng, thậm chí biểu hiện bằng cá tính, phong
cách riêng, khơng dễ lẫn lộn, khơng dễ hịa tan tuyệt đối vào cái chung. Do
tính chun mơn hóa sâu, nên người lao động đã làm việc ở ngành này rất khó
có thể di chuyển sang làm công việc khác trong một thời gian ngắn. Nếu
muốn di chuyển sang làm việc ở ngành khác thì phải có một thời gian để được
đào tạo, huấn luyện về CMKT.
Bốn là, do làm việc có năng suất và chất lượng cao hơn, nên người có
CMKT có thu nhập cao hơn so với những người khơng có CMKT. Họ cũng ít
bị thất nghiệp hơn so với những người khơng có CMKT, vì họ có nhiều khả
năng thích ứng với cơng nghệ mới hơn, có điều kiện để tiếp cận thông tin
nhiều hơn.
17
Năm là, xét về mặt xã hội, người lao động có CMKT, nhất là những nhà
khoa học và những người có chun mơn sâu, có nhiều sáng tạo trong lao
động, được xã hội trân trọng hơn, được đánh giá ở nấc thang xã hội cao hơn
so với những người không có CMKT.
1.1.2. Vai trị của nguồn nhân lực có chun môn kỹ thuật đối với
phát triển kinh tế xã hội ở miến núi
Nguồn nhân lực có CMKT là bộ phận lực lượng sản xuất có vai trị
quyết định nhất đối với quá trình sản xuất xã hội của một quốc gia nói chung,
một tỉnh nói riêng. Kinh tế chính trị Mác - Lênin xác định vai trò quyết định
của con người và nhân tố con người trong quá trình phát triển kinh tế. Kinh tế
học hiện đại xác định có 4 yếu tố sản xuất cơ bản (4 đầu vào) gồm lao động,
tài nguyên thiên nhiên, tư bản (vốn) và công nghệ. Sự tăng trưởng kinh tế hay
mức gia tăng sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào sự biến đổi của các nguồn
lực này. Lao động (hay NNL) là bộ phận nguồn lực không thể thiếu được cho
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Trong bộ phận đó, NNL
có CMKT là bộ phận chủ yếu có vai trị quyết định nhất.
Đảng và Nhà nước ta cũng ln đề cao vai trị của yếu tố con người
trong nền sản xuất xã hội. Con người được xác định là nhân tố trung tâm, lấy
mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người.
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị
quyết về tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực. nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để CNH, HĐH. Nguồn nội lực mà Nghị
quyết Trung ương nêu trên bao gồm: nguồn lực con người, đất đai, tài ngun,
trí tuệ, truyền thống lịch sử văn hóa. Trong đó, năng lực của con người Việt
Nam với trí tuệ và truyền thống văn hóa dân tộc là trung tâm của nội lực, là
nguồn lực chính quyết định sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tiễn các nước phát triển cho thấy, các nguồn lực thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế - xã hội nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
18
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… giữa chúng có mối quan
hệ nhân quả với nhau trong q trình phát triển, trong đó NNL được coi là
năng lực nội sinh quan trọng chi phối quá trình phát triển của mỗi quốc gia.
NNL với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám, có ưu thế là không bị cạn kiệt
và nếu bồi dưỡng, khai thác, sử dụng hợp lý sẽ được tăng thêm rất nhiều, còn
các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát
huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người một cách có hiệu quả.
Từ những khái quát nêu trên, có thể rút ra NNL có CMKT có những
vai trị chủ yếu như sau:
Một là, NNL có CMKT là lực lượng chủ lực bảo đảm gia tăng năng
suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và là nhân tố quyết
định nhất đối với sự giàu có của một quốc gia.
Vai trị quyết định của NNL có CMKT thể hiện ở chỗ nó cung cấp lao
động sống được đào tạo có trình độ chun nghiệp cho nền kinh tế, là yếu tố
quyết định hiệu quả sử dụng các yếu tố nguồn lực sản xuất khác. Tác động
của NNL có CMKT cịn thể hiện trên cả hai phương diện: tái sản xuất mở
rộng theo bề rộng và đặc biệt là tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Nếu một
nền kinh tế muốn tái sản xuất theo chiều rộng với điều kiện hiện có của trình
độ cơng nghệ biến đổi, nhưng thiếu NNL có CMKT tương ứng thì mong
muốn này không thể thực hiện được. Cũng như vậy, nhưng nếu muốn tăng
năng suất và chất lượng sản phẩm mà thiếu sự đáp ứng ngày càng tăng lên cả
số lượng và chất lượng NNL có CMKT thì dù khoa học và cơng nghệ có cao
đến mấy vẫn khơng tự nó có được kết quả mong muốn. Tức là, việc phát huy
vai trị động lực của khoa học và cơng nghệ phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
NNL hay vào những người có CMKT trong nền kinh tế.
Ngân hàng Thế giới đã đưa ra một báo cáo về xếp hạng loại giàu có của
một quốc gia, trong đó NNL chiếm 2/3 giá trị tài sản tạo nên sự giàu có của
một nước. Lịch sử phát triển kinh tế của nhân loại cũng đã cho thấy, lực lượng
19
sản xuất càng phát triển càng chứng tỏ rằng con người càng có sức chinh phục
tự nhiên nhiều hơn, có hiệu quả hơn. C. Mác nêu quan niệm sự khác nhau
giữa các thời đại kinh tế không phải là ở chỗ người ta sản xuất ra cài gì, mà là
ở chỗ người ta sử dụng tư liệu lao động (mà chủ yếu là tư liệu sản xuất) nào.
Những trình độ khác nhau của tư liệu sản xuất được dùng để đánh dấu thời
đại kinh tế. Những trình độ này được tạo ra bởi hoạt động của những người
lao động trong một xã hội, mà bộ phận cốt lõi, linh hồn của trình độ sản xuất
đó là những người lao động có CMKT.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ đã và đang diễn ra
như vũ bão, vai trò của tri thức ngày càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Tri
thức trở thành nhân tố ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn và trở thành chủ yếu
so với các yếu tố khác tạo nên giá trị sản lượng của nền kinh tế. Chính vì thế,
đã có rất nhiều dự báo nhân loại đang tiến vào nền kinh tế tri thức. Trong nền
kinh tế này, NNL có CMKT là bộ phận động lực của sự phát triển.
Hai là, NNL có CMKT là nhân tố quyết định nhất đối với việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Thực chất của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tiếp tục phát triển
phân cơng lao động xã hội thể hiện trước hết là những biến đổi về cơ cấu
ngành theo chiều hướng tiến bộ. Đối với nước ta, đó là q trình làm cho tỷ
trọng của ngành cơng nghiệp và ngành dịch vụ tăng lên, còn của ngành nơng
nghiệp giảm xuống trong GDP. Đây chính là q trình CNH, HĐH nền kinh tế
quốc dân. Trong quá trình này, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng
tỷ lệ lao động có CMKT ngày càng tăng lên, cịn của lao động khơng có
CMKT thì giảm xuống trong tổng lực lượng lao động xã hội. Thực tế cho
thấy, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhanh hay chậm phụ thuộc có
tính quyết định vào tốc độ gia tăng NNL có CMKT hay vào quy mơ và trình
độ đào tạo nghề cho người lao động của một quốc gia.
20
Ba là, NNL có CMKT là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tiến bộ khoa học,
công nghệ và phát triển kinh tế tri thức.
Trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, máy móc thay thế
lao động cơ bắp của con người; cịn cuộc cách mạng cơng nghiệp ngày nay,
máy tính giúp con người lao động trí óc nhân gấp bội sức mạnh trí tuệ và sức
sáng tạo. Thơng tin và tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất trong việc tạo
ra việc làm, của cải và nâng cao sức cạnh tranh. Tri thức trở thành nguồn vốn
vơ hình lớn nhất quan trọng hơn cả nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và sức
cơ bắp của con người. Lực lượng sản xuất của xã hội đang chuyển từ việc dựa
chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của
con người. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho
phát triển kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức của nhân
loại cũng như làm chủ và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu riêng của mình.
Để có nền kinh tế đó, NNL có CMKT phải đóng vai trị lực lượng trụ cột.
Vì thế, Đại hội X của Đảng xác định: Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố
quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản
phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp sử dụng
nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước
phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, trong từng dự án kinh
tế - xã hội.
Bốn là, NNL có CMKT là nhân tố chủ yếu để nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm, của doanh nghiệp, của ngành vùng và của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, thúc đẩy phát triển kinh tế đối ngoại.
Sự tồn tại của kinh tế thị trường tất yếu tồn tại quan hệ cạnh tranh.
Quan hệ này sẽ trở nên gay gắt và quyết liệt hơn khi nền kinh tế được đặt
trong môi trường hội nhập quốc tế của xu hướng tồn cầu hóa kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Xét về lý thuyết cũng như thực tế, sức cạnh
tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến những yếu tố chủ yếu