Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 153 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

ĐINH PHƯƠNG HUYỀN

KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NHÀ VĂN LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học

Phú Thọ, năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

ĐINH PHƯƠNG HUYỀN

KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NHÀ VĂN LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 8220120

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Văn Hiểu

Phú Thọ, năm 2021



i
CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn “Không gian hậu chiến trong tiểu
thuyết của Lê Lựu” (khảo sát qua: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Hai nhà)
là công trình nghiên cứu của riêng tơi, chƣa từng đƣợc cơng bố trong bất cứ
cơng trình khoa học nào khác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của bản thân.
Phú Thọ, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Tác giả luận văn

Đinh Phƣơng Huyền


ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lời biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Văn Hiểu Trƣởng môn Tự sự học (Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội) - Ngƣời đã trực
tiếp hƣớng dẫn, động viên khích lệ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên
cứu và hồn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn trƣờng THPT Hƣng Hóa- cơ quan tơi đang
cơng tác, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, ngƣời thân đã tạo điều kiện cho tơi
đƣợc hồn thành nhiệm vụ cơng tác, học tập, nghiên cứu.
Phú Thọ, ngày 18 tháng 5 năm 2021
Học viên

Đinh Phƣơng Huyền


iii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ........................................................................... 2
2.1. Nghiên cứu về không gian trong văn học ...................................................... 2
2.2. Nghiên cứu về không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu .............................. 6
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................... 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................. 10
6. Cấu trúc của luận văn ...................................................................................... 10
NỘI DUNG ......................................................................................................... 11
CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÔNG GIAN TRONG TÁC PHẨM
VĂN HỌC ........................................................................................................... 11
1.1. Khái niệm không gian trong tác phẩm văn học ........................................... 11
1.1.1. Vai trị định vị của khơng gian trong tác phẩm......................................... 12
1.1.2. Hình thức khơng gian của tác phẩm văn học ............................................ 14
1.2. Đặc điểm của không gian trong tác phẩm văn học ...................................... 15
1.2.1. Khơng gian mang tính quan niệm ............................................................. 15
1.2.2. Khơng gian gắn với cá tính sáng tạo của nhà văn..................................... 18
1.2.3. Không gian gắn với đặc điểm văn hóa của thời đại .................................. 20
1.3. Một số loại hình khơng gian trong tác phẩm văn học .................................. 25
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................ 30
CHƢƠNG II. MỘT SỐ LOẠI KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA LÊ LỰU .................................................................................... 31
2.1. Không gian thành thị .................................................................................... 31
2.1.1. Không gian ngột ngạt tù túng .................................................................... 32
2.1.2. Không gian sinh hoạt ở thành thị với sự cơ đơn, bất hịa ......................... 37
2.2. Khơng gian làng mạc nông thôn .................................................................. 51



iv
2.2.1. Khơng gian thiên nhiên n bình nhƣng khắc nghiệt ............................... 51
2.2.2. Không gian đời sống mới .......................................................................... 54
2.2.3. Không gian làng q “đất lề q thói” ...................................................... 59
2.2.4. Khơng gian tình ngƣời đằm thắm ............................................................. 61
2.3. Khơng gian tâm tƣởng.................................................................................. 65
2.3.1. Không gian ký ức tội lỗi............................................................................ 66
2.3.2. Không gian suy tƣ nén nhịn và tỉnh ngộ ................................................... 72
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................ 80
CHƢƠNG III. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG KHÔNG GIAN HẬU CHIẾN
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU ........................................................... 81
3.1. Điểm nhìn trần thuật..................................................................................... 81
3.1.1. Điểm nhìn bên ngồi kiến tạo khơng gian ................................................ 82
3.1.2. Điểm nhìn bên trong kiến tạo không gian ................................................. 86
3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật............................................................... 89
3.2.1. Giọng hài hƣớc, hóm hỉnh......................................................................... 90
3.2.2. Giọng văn mỉa mai, chế giễu .................................................................... 95
3.2.3. Giọng tâm tình, chua xót ......................................................................... 101
3.2.4. Ngơn ngữ kiến tạo khơng gian ................................................................ 107
3.3. Kết cấu không gian..................................................................................... 109
3.3.1. Kết cấu không gian tƣơng phản .............................................................. 110
3.3.2. Kết cấu không gian luân chuyển ............................................................. 120
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 141


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

1.1. Từ đầu thế kỷ XX với sự ra đời của những lý thuyết ngôn ngữ học
và với sự xuất hiện của những cái tên nhƣ R. Barthes, M. Foucault... đã mở ra
những hƣớng khám phá tác phẩm văn học qua góc độ ngơn ngữ học, ký hiệu
học, văn hóa học, phê bình sinh thái...Cùng với những hƣớng nghiên cứu đó,
thi pháp học, tự sự học vẫn đƣợc sử dụng nhƣ một con đƣờng khám phá sự
độc đáo của tác phẩm văn học. Nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn
học là hƣớng nghiên cứu đƣợc chú ý trong những cơng trình vận dụng thi
pháp nhƣ Thi pháp truyện Kiều, Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, Thi
pháp thơ Huy Cận của Trần Khánh Thành, Thi pháp thơ Đường của Nguyễn
Thị Bích Hải, Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính...Bên cạnh đó, tự sự
học nghiên cứu vấn đề khơng gian của tác phẩm văn học, nhƣng nghiêng sang
tìm hiểu hình thức không gian của tác phẩm văn học.
1.2. Văn học Việt Nam sau 1975, bên cạnh những tác phẩm viết về
khơng gian chiến tranh, cũng có rất nhiều tác phẩm viết về không gian hậu
chiến. Không gian hậu chiến mang những nhân tố của cuộc sống đời thƣờng
nhƣ các vấn đề tình u lứa đơi, tình cảm gia đình, đời sống mƣu sinh…
Những nhân tố này là vừa là di chứng của chiến tranh vừa tất yếu xuất hiện
trong hậu chiến.
1.3. Lê Lựu là nhà văn có vị trí quan trọng trong văn học Việt Nam sau
1975. Các tiểu thuyết của Lê Lựu đã đặt ra những vấn đề nóng bỏng của nƣớc
ta những năm đầu sau giải phóng.
Trong sự nghiệp văn học của Lê Lựu không thể không kể đến ba cuốn
tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1993) và Hai nhà (2000).
Ba cuốn tiểu thuyết này đƣợc sáng tác ở những khoảng thời gian khác nhau
trong sự phát triển của đất nƣớc. Năm 1986 đất nƣớc bƣớc vào một cuộc


2
chuyển mình mới. Từ 1993 đến 2000 là sự thay da đổi thịt trên khắp các dải
đất từ làng quê đến thành thị. Phản ánh lại bối cảnh xã hội Việt Nam ở từng

giai đoạn từ 1986, 1993 đến 2000 đã làm nên những nét độc đáo riêng trong
không gian hậu chiến ở mỗi cuốn tiểu thuyết.
Nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn học, ở đề tài này là không
gian hậu chiến, là một con đƣờng khám phá tác phẩm văn học từ đó giúp
khẳng định giá trị của tác phẩm, vị trí của tác giả, đồng thời thấy đƣợc một số
đặc điểm của Văn học Việt Nam sau chiến tranh. Vì tất cả những lí do đã kể
trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu “Không gian hậu chiến
trong tiểu thuyết của Lê Lựu (Khảo sát qua “Thời xa vắng”, “Chuyện làng
cuội” và “Hai nhà”)”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về không gian trong văn học
Nghiên cứu về không gian tự sự trong văn học bắt đầu đƣợc chú ý từ
bài nghiên cứu Hình thức khơng gian trong văn học hiện đại của J. Frank khi
ơng khám phá các hình thức khơng gian các tác phẩm của T. Eliot, E. Pound,
J. Joyce, M. Prouts. Sau đó, M. Bakhtin trong cơng trình Hình thức thời gian
và không gian trong tiểu thuyết, đã đi sâu vào khơng gian trong một thể loại.
Trong cơng trình này, M. Bakhtin đã chỉ ra sự gắn kết của khơng gian và nhân
vật. Theo đó, khơng gian gắn với mỗi hành động của nhân vật và cũng đặc
biệt lƣu ý đến các không gian nhƣ không gian ngƣỡng cửa, không gian gặp
gỡ, không gian riêng tƣ, không gian nhào nặn nhân vật… Nhƣ vậy, vấn đề
nghiên cứu không gian trong tác phẩm văn học bắt đầu từ khoảng giữa thế kỷ
XX. Tuy nhiên, theo Trần Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, thì
đến nay các cơng trình nghiên cứu trực tiếp bàn đến khơng gian theo hƣớng tự
sự học chƣa nhiều. Một số cơng trình nghiên cứu về khơng gian tự sự có thể
kể đến nhƣ Hình thức khơng gian trong văn học hiện đại của J.Frank với quan


3
niệm về không gian ngôn ngữ, không gian vật lý của câu chuyện và không
gian tâm lý của ngƣời đọc; Lý thuyết văn xuôi (1929) của V.Shklovski với

quy ƣớc về không gian trong truyện kể và quan hệ giữa không gian và nhân
vật; Cấu trúc văn bản nghệ thuật của I.Lotman với quan niệm “không gian
nghệ thuật nhƣ một mô hình thế giới tƣơng thích với bức tranh thế giới của
một nền văn hóa và sự sáng tác của ngƣời nghệ sĩ” [42, 177]; Câu chuyện và
diễn ngôn (1978) của S.Chatman. Vẫn theo Trần Đình Sử trong cơng trình
trên, “khơng gian câu chuyện gắn bó với hành động cụ thể của nhân vật, cịn
khơng gian diễn ngơn gắn với lời kể, chỉ nơi mà ngƣời kể xuất hiện và kể
chuyện” [70, 177]. Theo đó, ngƣời kể ở ngơi thứ ba khơng có khơng gian cịn
ngƣời kể ở ngơi thứ nhất là một nhân vật luôn xuất hiện trong không gian của
mình. Tóm lại, kế thừa thành quả nghiên cứu của các cơng trình kể trên, Trần
Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng khẳng định quan niệm của
ông về không gian tự sự “không gian tự sự là một phạm trù mơ hình hóa thế
giới của con ngƣời, mà con ngƣời sống trong đó” [70, 178]. Đồng tình với
quan điểm của Trần Đình Sử, trong luận văn này, chúng tôi quan niệm không
gian là sự tái tạo thế giới của con ngƣời, là môi trƣờng tồn tại và hoạt động
của nhân vật.
Trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, Trần Đình Sử lý giải về sự biểu
hiện cũng nhƣ sự đa dạng của không gian. Nhà nghiên cứu cho rằng “không
gian tự sự thể hiện ở sự miêu tả các địa điểm, nơi chốn, vị trí mà nhân vật và
sự kiện xảy ra. Không gian thể hiện qua hệ thống các từ ngữ phƣơng vị nhƣ
cao/ thấp, xa/ gần, dài/ ngắn, trên/ dƣới, phải/ trái, đông/ tây, nam/ bắc. Các
phƣơng vị này thƣờng kết hợp với ý nghĩa đạo đức, tơn giáo, địa lí, lịch sử.
Khơng gian thể hiện qua các biểu tƣợng không gian nhƣ sông, biển, núi cao,
đồng ruộng, trời đất, thế giới bên này, bên kia xứ không tƣởng. Không gian tự
sự luôn ln gắn liền với điểm nhìn của nhân vật kể chuyện hay nhân vật
hành động. Qua điểm nhìn mà có thêm không gian bên trong, không gian bên


4
ngồi, khơng gian q khứ hoặc tƣơng lai” [70, 179]. Nhƣ vậy, theo Trần

Đình Sử khơng gian có thể xác định và phân loại thành các cặp tƣơng ứng
trên ranh giới của hữu thể là bên ngoài/ bên trong hoặc xác định trên cơ sở
thời gian là quá khứ/ hiện tại/ tƣơng lai. Mỗi không gian lại tồn tại trong đối
lập cao thấp hay xa gần…
Ở Việt Nam, hai công trình nghiên cứu có đóng góp quan trọng trong
giải mã không gian là Thi pháp truyện Kiều và Thi pháp thơ của Tố Hữu của
Trần Đình Sử. Bên cạnh đó cịn có thể kể đến các cơng trình nhƣ Thi pháp ca
dao của Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Cơng
Hoan của Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú, Thi pháp thơ Huy Cận của
Trần Khánh Thành… Chúng tôi sẽ điểm qua quan niệm về không gian trong
các cơng trình kể trên theo phân loại từ văn học dân gian, văn học trung đại
đến văn học hiện đại.
Nguyễn Xn Kính trong Thi pháp ca dao, hiểu khơng gian là nơi sinh
hoạt và mang tâm trạng của con ngƣời “không gian trong ca dao chủ yếu là
không gian trần thế, đời thƣờng, bình dị, phiếm chỉ với những nhân vật chƣa
đƣợc cá thể hóa, mang tâm trạng, tình cảm chung của nhiều ngƣời” [36, 307].
Điều đó có nghĩa giữa khơng gian và con ngƣời khơng có sự tách rời mà tồn
tại đồng thời.
Trong Thi pháp truyện Kiều, Trần Đình Sử đã đƣa ra khái niệm về
khơng gian nghệ thuật “khơng gian nghệ thuật là mơ hình nghệ thuật về cái
thế giới mà con ngƣời đang sống, đang cảm thấy vị trí, số phận của mình ở
trong đó” [69, 174]. Hiểu theo Trần Đình Sử, khơng gian nghệ thuật trong tác
phẩm văn học chỉ là sự tái tạo lại không gian trong hiện thực khách quan. Tuy
nhiên, sự tái tạo không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học cịn gắn liền
với sự tái tạo con ngƣời trong khơng gian đó. Khơng gian nghệ thuật trong tác
phẩm văn học có thể đƣợc phân định thành các cặp nhị phân nhƣ cao/ thấp,
rộng/ hẹp, cao q/ ơ trọc: “mơ hình không gian bao giờ cũng là một thể


5

thống nhất bị phân giới thành cặp đối lập nhƣ nơi cao q và nơi ơ trọc, q
mình và q ngƣời, gần gũi và xa cách, bên trong và bên ngồi...” [69, 174].
Tất cả những sự phân định đó cho thấy không gian nghệ thuật là một hiện
tượng nội cảm, giá trị chứ khơng đơn thuần là đối tƣợng có tính vật lý. Theo
Trần Đình Sử khơng gian địa lí, vật lý “chỉ là cái nền khách quan bề ngồi”
cịn “khơng gian nghệ thuật có thể xem là một “khơng quyển” tinh thần bao
bọc cảm thức con ngƣời, là một hiện tƣợng nội cảm, giá trị, chứ không phải là
hiện tƣợng địa lý và vật lý” [69, 175]. Nhƣ vậy, khơng gian nghệ thuật có hai
mặt khách quan và chủ quan. Về khách quan, khơng gian nghệ thuật là mơ
hình tái tạo của hiện thực khách quan, là môi trƣờng lƣu trú của con ngƣời,
đƣợc xác định trên phƣơng diện hữu hình. Về chủ quan, khơng gian nghệ
thuật đƣợc xác định bởi ý niệm về các giá trị của con ngƣời.
Trong một nghiên cứu khác đƣợc Trần Đình Sử cơng bố năm 1987, Thi
pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử tiếp cận các sáng tác của Tố Hữu và xác định
khơng gian nghệ thuật. Ơng cho rằng, hình tƣợng khơng gian quan trọng nhất
trong thơ Tố Hữu là không gian con đƣờng “hình tƣợng khơng gian quan
trọng nhất đóng vai trị hình tƣợng xun suốt trong thơ Tố Hữu là con đƣờng
cách mạng” [69, 536]. Những con đƣờng nhƣ “Đƣờng Bắc Sơn, Đình Cả,
Thái Nguyên/ Đƣờng qua Tây Bắc, đƣờng lên Điện Biên” chỉ là những
khoảng không khách quan, khoảng khơng vật lý. Trên phƣơng diện ý niệm thì
khơng gian con đƣờng trở thành không gian cộng đồng, sử thi “con đƣờng
trong thơ Tố Hữu đóng vai trị tƣơng tự nhƣ không gian “quảng trƣờng” trong
văn học thời kỳ Cộng hịa cổ đại ở phƣơng Tây-đó là khơng gian cơng cộng
của mọi ngƣời, nó cho phép bộc lộ trọn vẹn cái chung và xã hội của con
ngƣời một cách thuần túy nhất” [69, 541]. Con đƣờng thực sự trở thành khơng
gian của xã hội, của cộng đồng khi có thể thấy trên những con đƣờng hầu hết
các tầng lớp ngƣời Việt Nam từ anh chiến sĩ, ngƣời cán bộ đến chị hàng hoa,
chị quyét rác...



6
Ở Thi pháp thơ Huy Cận, Trần Khánh Thành giống nhƣ Trần Đình Sử,
quan niệm khơng gian là nơi tồn tại của nhân vật “trong hiện thực, không gian
và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất; trong văn học, khơng gian và
thời gian là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là phạm trù của hình
thức nghệ thuật” [73, 97]. Trần Khánh Thành cũng cho rằng không gian
không tách khỏi thời gian mà luôn gắn với thời gian nhƣ hai mặt của vấn đề.
Nghiên cứu thơ Huy Cận, trong đó có Lửa thiêng, Trần Khánh Thành phân
lập ba không gian: không gian thiên đƣờng, không gian trần thế và không gian
địa ngục. Cách phân loại này dựa trên đặc tính của mơi trƣờng tồn tại của sự
vật, con ngƣời và có cơ sở từ tƣ duy văn hóa.
Trong Thi pháp truyện ngắn trào phúng Nguyễn Cơng Hoan, hai tác giả
Trần Đình Sử và Nguyễn Thanh Tú cho rằng không gian trong các truyện
ngắn đƣợc của Nguyễn Cơng Hoan mang tính kịch bởi sự chật chội hơn nữa
không gian không nhằm biểu hiện tâm lý mà chỉ tạo khung cho cốt truyện tức
nó đơn thuần là môi trƣờng tồn tại của nhân vật.
Nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã coi không gian trong tác
phẩm văn học là môi trƣờng tồn tại của nhân vật, là tâm tƣởng của nhân vật.
Không gian đƣợc kiến tạo bởi các ranh giới, các mặt đối lập và đồng thời là
mơ hình hóa hiện thực khách quan và thế giới tâm tƣởng thực tế của con
ngƣời. Không gian nghệ thuật có là mơ hình của sự tồn tại trong khách quan
và là một biểu tƣợng có tính nội cảm, giá trị các nhà nghiên cứu đã triển khai
khám phá không gian nghệ thuật trong nhiều tác phẩm lớn.
2.2. Nghiên cứu về không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu
Đến nay đã có nhiều cơng trình ở các cấp độ nghiên cứu về ba tiểu
thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà của Lê Lựu. Các nhà
nghiên cứu đã tiếp cận ba tiểu thuyết nói trên từ nhiều phƣơng diện nhƣ thi
pháp học, tự sự học...khám phá ra nhiều chiều sâu nhƣng chƣa có nghiên cứu



7
nào đặt ra vấn đề về không gian hậu chiến trong sự hệ thống cả ba tác phẩm
này. Tiến hành nghiên cứu về không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu
qua thời xa vắng, chuyện làng Cuội và Hai nhà chúng tôi kế thừa và phát huy
những kết quả của những ngƣời đi trƣớc. Đặt ra vấn đề về không gian hậu
chiến chúng tôi đã khảo sát một số nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu gần gũi
với đề tài và hệ thống lại nhằm xác định vị trí nghiên cứu, các thành quả kế
thừa.
Nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu Nghệ thuật trần thuật trong tiểu
thuyết Lê Lựu (2008) trong Luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Hạnh bảo vệ tại
Đại học sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã khám phá nghệ thuật trần thuật
trong các tiểu thuyết của Lê Lựu cả trƣớc 1975 và sau 1975 trong đó có Thời
xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà. Võ Thị Mỹ Hạnh đã khám phá các
phƣơng diện ngƣời trần thuật, kết cấu lời văn trần thuật và giọng điệu trần
thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nghiên cứu này dù không đặt ra vấn đề không
gian trong sáng tác của Lê Lựu nhƣng góp một phần khám phá vào những tác
phẩm và tác giả mà chúng tôi đang theo đuổi nên xin vẫn kể ra ở đây.
So với nghiên cứu của Võ Thị Mỹ Hạnh thì luận văn thạc sỹ về Không
gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới năm
2010 của Đào Thị Cúc tại Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn gần
gũi hơn với đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Đào Thị Cúc đã xác định các
dạng thức không gian tồn tại trong tiểu thuyết Lê Lựu nhƣ khơng gian mang
tính bối cảnh xã hội với hai yếu tố không gian nông thôn nghèo khổ, lam lũ,
tăm tối và không gian phố phƣờng chật hẹp, bức bối ngột ngạt; khơng gian
mang tính tâm tƣởng. Tác giả cũng xác định cách thức biểu hiện không gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nghiên cứu của Đào Thị Cúc tập trung
vào yếu tố không gian mang tính khái quát với giới hạn là các tiểu thuyết Thời
xa vắng (1986), Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994) và Hai
nhà (2003). Khác biệt với Đào Thị Cúc, đề tài của chúng tôi chỉ tập trung



8
nghiên cứu không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu và nghệ thuật xây
dựng khơng gian đó qua ba tiểu thuyết cụ thể Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội
và Hai nhà.
Mai Thị Liên lựa chọn hƣớng tiếp cận tƣ duy nghệ thuật qua cơng trình
Tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu (2013, luận văn Thạc sĩ, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn). Trong cơng trình này, Mai Thị Liên nghiên
cứu tƣ duy nghệ thuật và xem khơng gian nhƣ một biểu hiện của nó. Tác giả
đã phân định không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thành không
gian nông thôn và không gian phố phƣờng đô thị. Nhƣ vậy, cách phân định
không gian của Mai Thị Liên dựa vào đƣờng biên địa lý.
Luận văn Nông thôn Việt Nam qua tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu
(2018, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên) của Phan Thị Quyên đã đƣa
ra nhận định về nông thôn trong Thời xa vắng từ hai phƣơng diện nội dung và
phƣơng thức thể hiện. Theo tác giả, nông thơn Việt Nam trong tiểu thuyết
mang tính “đột phá khẩu”-chữ dùng của Bùi Việt Thắng-là một miền quê
nghèo khó đầy những tục lệ “đất lề quê thói” nhƣng đang chuyển mình trong
thời đại mới. Trong vùng quê “đất lề quê thói” ấy có những ngƣời nơng dân
sống trong bi kịch. Họ khơng đƣợc là chính mình, họ đƣợc sống nhƣng lại
đánh mất mình. Dẫu có cuộc đời chất chứa bi kịch nhƣng họ ngập tràn khát
vọng trong tình yêu và hôn nhân. Nông thôn trong nghiên cứu của Phan Thị
Quyên là một kiểu không gian đƣợc xác định trên cơ sở ranh giới địa lý giống
nhƣ cách phân định ranh giới không gian của Mai Thị Liên trong Tư duy nghệ
thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu. Nó tồn tại một cách đối lập với không gian
thành thị. Bởi vậy, không gian trong nghiên cứu của Phan Thị Quyên có sự
tƣơng đồng và có sự khác biệt với khơng gian trong nghiên cứu của chúng tôi.
Chúng tôi xác định ranh giới không gian trên phƣơng diện địa lý để làm cơ sở
tìm hiểu những đặc điểm của thời hậu chiến.



9
Sáng tác của Lê Lựu mà đặc biệt là Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và
Hai nhà là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều đề tài. Các đề tài nghiên cứu tiếp
cận từ nhiều hƣớng thi pháp học, tự sự học... và đã ít nhiều đặt ra vấn đề
khơng gian nghệ thuật. Tuy nhiên chƣa có đề tài nào đi sâu khám phá về
không gian hậu chiến trong hai tiểu thuyết nói trên cùng với nghệ thuật xây
dựng nó. Nhƣ vậy, đề tài của chúng tôi đang hƣớng đến một khoảng trống
trong nghiên cứu về tiểu thuyết Lê Lựu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về Không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của Lê Lựu qua
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Hai nhà chúng tôi đặt ra một số mục tiêu
sau:
- Thứ nhất, khái lƣợc về vấn đề lí thuyết khơng gian trong tác phẩm văn học.
- Thứ hai, chỉ ra đặc điểm của không gian hậu chiến trong tiểu thuyết Lê Lựu
- Thứ ba, làm rõ nghệ thuật kiến tạo không gian hậu chiến trong tiểu thuyết
của Lê Lựu.
- Thứ tƣ, khẳng định những đóng góp của Lê Lựu cho văn học Việt Nam sau
đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi xác định đối tƣợng nghiên cứu là không gian hậu
chiến với những yếu tố cấu thành và nghệ thuật xây dựng không gian hậu
chiến trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của luận văn là những tiểu thuyết có
vị trí quan trọng trong sự nghiệp văn học của Lê Lựu và ở những thập niên
khác nhau:
- Thời xa vắng, Nhà xuấn bản Văn học, 1986.
- Chuyện làng Cuội, Nhà xuất bản Văn học, 1993.
- Hai nhà, Nhà xuất bản Văn học, 2000.



10
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sẽ đặt ba tiểu thuyết này trong
toàn bộ hệ thống tác phẩm của nhà văn để thấy đƣợc đặc sắc của không gian
hậu chiến và nghệ thuật kiến tạo không gian hậu chiến của mỗi tác phẩm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng kết hợp các phƣơng
pháp sau:
+ Thi pháp học và Tự sự học: Kết hợp thi pháp học và tự sự học để phân định
các không gian thành thị, nông thôn, tâm tƣởng từ đó khai thác, rút ra những
đặc trƣng của từng loại không gian.
+ Phƣơng pháp lịch sử: Trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét các
vấn đề không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu trong tính lịch đại, đặt nó
trong thời điểm ra đời…
+ Phƣơng pháp nghiên cứu loại hình: Giúp khái qt các loại hình khơng gian
trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
+ Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Sử dụng tri thức khoa học liên ngành
văn học, văn hóa, tâm lý, triết học…để tiếp cận tồn diện các vấn đề không
gian, cố gắng tránh sự hạn chế, phiến diện.
Ngồi các phƣơng pháp trên chúng tơi cịn sử dụng kết hợp các thao tác thống
kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, bình luận....
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm ba phần lớn: phần mở đầu, phần kết luận và phần
nội dung.
Phần nội dung có cấu trúc 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng I: Một số vấn đề về không gian trong tác phẩm văn học
Chƣơng II: Một số loại hình khơng gian hậu chiến trong tiểu thuyết của Lê
Lựu



11
Chƣơng III: Nghệ thuật xây dựng không gian hậu chiến trong tiểu thuyết của
Lê Lựu.

NỘI DUNG
CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KHÔNG GIAN TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
Nghiên cứu về không gian trong các tiểu thuyết của Lê Lựu tất yếu phải
giải quyết các vấn đề lý thuyết về không gian. Trong chƣơng này, chúng tôi
làm rõ một số vấn đề làm cơ sở lý thuyết nhƣ khái niệm không gian trong tác
phẩm văn học, đặc điểm của không gian trong tác phẩm văn học, một số loại
hình khơng gian trong tác phẩm văn học.
1.1. Khái niệm không gian trong tác phẩm văn học
Không gian trong tác phẩm văn học thuộc về thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm văn học bởi vậy nó là sản phẩm của chủ thể sáng tạo. Theo Trần
Đình Sử trong Tự sự học lý thuyết và ứng dụng, thì “khơng gian tự sự là một
phạm trù mơ hình hóa thế giới của con ngƣời, mà con ngƣời sống trong đó
(Ju. Lotman)...Khơng gian là một phạm trù thể hiện bản chất cấu trúc, văn hóa
và kí hiệu của tự sự. Nó là yếu tố nội tại của tự sự. Bất cứ tự sự nào cũng có
sự kiện, nhân vật, không gian là điều kiện tất yếu để nhân vật tồn tại và sự
kiện diễn ra” [70, 178-179]. Theo đó, khơng gian nghệ thuật thể hiện quan
niệm, mức độ nhận thức của tác giả về bức tranh thế giới. Từ những quan
niệm này, thông qua tƣ duy nghệt thuật, tác giả tạo ra một “hiện tƣợng nghệ
thuật” có bản chất cấu trúc, văn hóa và kí hiệu. Không gian thuộc về nội thể
của tác phẩm tự sự và tạo thành môi trƣờng cho sự tồn tại của nhân vật. Có
thể nói, mọi nhân vật trong tự sự đều đƣợc định vị bởi những tọa độ trong
không gian tự sự.


12

1.1.1. Vai trị định vị của khơng gian trong tác phẩm
Không gian thuộc về thế giới nghệ thuật trong tác phẩm và là yếu tố
không thể thiếu của thế giới ấy bởi vai trị định vị nhân vật của nó. Khơng có
nhân vật nào tồn tại và hoạt động bên ngồi khơng gian. Trần Đình Sử cũng
đã khẳng định điều này trong Tuyển nghiên cứu văn học nhƣ sau “không gian
là hình thức tồn tại của hình tƣợng” [69, 529]. Ở đây, chúng tơi khẳng định vị
trí quan trọng của khơng gian qua vai trị định vị nhân vật của nó.
Trong Chí Phèo, nhà văn Nam Cao mỗi lần miêu tả sự xuất hiện của
Chí đều đặt hắn vào trong khơng gian. Chí về làng hơm trƣớc thì hơm sau đã
ngồi uống rƣợu ở chợ từ trƣa đến chiều “Hắn về hôm trƣớc, hôm sau đã thấy
ngồi ở chợ uống rƣợu với thịt chó suốt từ trƣa đến xế chiều” [7, 33]. Lúc này,
chợ là không gian định vị sự tồn tại của Chí. Trong khơng gian đó, nhân vật
khơng đứng yên mà có hoạt động và đồng thời đƣợc định vị trong thời gian từ
trƣa đến xế chiều. Nhƣ vậy, Chí đƣợc tạo dựng bởi khơng gian, thời gian và
bản thân hoạt động của nhân vật. Ngay sau không gian “chợ”, Chí tiếp tục
xuất hiện trong một khơng gian khác “Rồi say khƣớt, hắn xách một cái vỏ
chai đến cổng nhà Bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi” [7, 34]. Hoạt động của
Chí, uống rƣợu say rồi tìm đến nhà Bá Kiến để chửi diễn ra trong không gian
tổng thể làng Vũ Đại. Miêu tả hoạt động của Chí đồng thời là miêu tả những
khơng gian định vị Chí trong làng Vũ Đại nhƣ chợ, cổng nhà Bá Kiến và sau
này là trên đƣờng làng đầy ánh trăng. Khi uống rƣợu từ nhà Tự Lãng về, Chí
lảo đảo đi trên đƣờng trăng “Nhƣng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành
vạnh. Và ánh trăng chảy trên đƣờng trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó
trên đƣờng trăng nhễ nhại?” [7, 47]. Không gian và thời gian quanh Chí lúc
này có sự thay đổi. Hắn khơng còn ở chợ hay ở cổng nhà Bá Kiến mà ở trên
đƣờng làng vừa quen thuộc vừa lạ lẫm dƣới ánh trăng. Trăng không phải chỉ
là một biểu tƣợng thẩm mĩ mà cịn là tín hiệu của thời gian. Trăng rằm và


13

sáng cho thấy lúc này đêm đã về sâu. Nhƣ vậy, dù Chí đi đâu, làm gì cũng
khơng ra ngồi khơng gian và thời gian.
Tƣơng tự nhƣ ở Chí Phèo (Nam Cao), nhân vật trong Cơn giông
(Nguyễn Minh Châu) cũng đƣợc định vị trong không gian. Mở đầu truyện
ngắn là không gian rộng lớn từ Bắc vào Nam theo sự trải dài của đƣờng tàu
“con đƣờng tầu Thống Nhất từ ngồi phía Bắc vào mới vƣơn tới cái ngơi nhà
ga mới xây, tàu đã lăn bánh thì chủ yếu chở đá, tà vẹt và cũng đã chở hành
khách” [8, 205]. Khơng gian rộng lớn này giới định hành trình và giới hạn
hoạt động của nhân vật. Xuyên suốt tác phẩm, nhiều khơng gian khác nhau
đƣợc “mơ hình hóa”. Chẳng hạn, những gì đã diễn ra sau trận chiến khốc liệt
“anh dƣớn bụng trƣờn qua hết tảng đất này đến tảng đất khác, hết búi gai xấu
hổ này đến búi gai xấu hổ khác. Thế mà anh cũng đã vƣợt qua hết hai đám
ruộng. Anh đã bò sang đám ruộng thứ ba. Anh đã vƣợt xa đƣợc chỗ đám
ngƣời đứng ba trăm thƣớc. Rồi năm trăm thƣớc. Anh đã bò sang đƣợc bên kia
con đƣờng tàu hỏa” [8, 228]. Ý chí sống và lịng quyết tâm khơng đầu hàng
đã khiến ngƣời lính bị thƣơng có một nỗ lực phi thƣờng. Anh bò qua những
thửa ruộng “bỏ hoang từ bao đời” với “những hịn đất thịt khơng vỡ ra mà trải
qua mƣa nắng đã rắn lại nhƣ đất nung, ở giữa kẽ những hịn đất, gai xấu hổ
mọc chìa lên tua tủa lẫn với những nụ hoa bằng chiếc cúc áo” [8, 228]. Không
gian những thửa ruộng và không gian đƣờng tàu với tính ranh giới của nó đã
định vị nhân vật, làm nền cho sự xuất hiện của ngƣời lính.
Bên cạnh vai trò định vị nhân vật, để nhân vật bộc lộ ý nghĩa thì đến
lƣợt mình, khơng gian cũng bộc lộ ý nghĩa tự thân. Chẳng hạn không gian căn
buồng ngột ngạt và tù túng cũng chính là tâm tƣởng đầy ức chế, gị bó của
Raxcolnicov (Tội ác và hình phạt); không gian căn buồng với ô cửa sổ nhỏ
bằng bàn tay trơng ra ngồi chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sƣơng
hay là nắng ở căn buồng của Mị (Vợ chồng A Phủ) biểu tƣợng cho cuộc sống


14

ngục tù của Mị thƣờng ngày và cũng là sự trói buộc thần quyền của nhà thống
lí Pá Tra với cơ….
Khơng gian dù bản thân nó có thể mang ý nghĩa biểu tƣợng nhƣng điều
quan trọng nhất đối với không gian trong tác phẩm văn học là kiến tạo nhân
vật. Không gian cung cấp cho nhân vật môi trƣờng hoạt động và từ đó tạo
nghĩa.
1.1.2. Hình thức khơng gian của tác phẩm văn học
Xuất phát từ chất liệu ngôn từ, văn học đƣợc xem là nghệ thuật thời
gian. Hình tƣợng trong văn học không hiện lên đầy đủ trong một thời điểm
mà chỉ hoàn thiện sau khi câu chuyện hoàn tất thời gian của nó. Với tƣ cách là
một nghệ thuật thời gian, văn học đƣợc phân biệt với nghệ thuật không gian
nhƣ điêu khắc…. Quan niệm văn học là nghệ thuật thời gian khiến trong suốt
thế kỷ XVIII, XIX ngƣời ta chú ý nhiều đến cốt truyện, diễn biến các sự kiện,
các dấu mốc trong cuộc đời nhân vật… Thế kỷ XX, Thuyết tương đối của
Einstein đã mang lại cảm hứng cho toàn nhân loại và đƣơng nhiên trong đó có
các nhà văn. Họ chú ý nhiều hơn đến không gian khi tạo dựng những không
gian khi rộng lớn mênh mơng đƣợm tính sử thi, khi chật hẹp dồn nén, khi
triền miên tâm tƣởng… Hàng loạt tác phẩm có thể minh chứng cho chú ý về
không gian trong văn học nhƣ Đi tìm thời gian đã mất (Proust), Âm thanh và
cuồng nộ (William Faulker)…
Theo hƣớng xác nhận vai trò của không gian trong tác phẩm văn học
dẫn đến việc đặt ra vấn đề về hình thức khơng gian. Về phạm trù này có thể
kể đến cơng trình The idea of spatial form của Joseph Frank. Trần Đình Sử đã
khẳng định vai trò của J.Frank cùng với lý thuyết về hình thức khơng gian
trong Tự sự học – lý thuyết và ứng dụng nhƣ sau: “thuật ngữ do J.Frank nêu ra
trong cơng trình Hình thức khơng gian trong văn học hiện đại (1945), dùng
chỉ đặc trƣng của hình thức trong tiểu thuyết hiện đại”. Cũng theo Trần Đình


15

Sử, khái niệm hình thức khơng gian “chỉ các hình thức làm thay đổi kết cấu
của thời gian tiểu thuyết truyền thống. Đó là làm giảm sút vai trị của câu
chuyện và thời gian của nó, giảm bớt hoặc làm mờ tính chuyện bằng cách xóa
bỏ kết cục, xóa bỏ cao trào, để mở cái kết hoặc có nhiều kết. Hoặc trong
truyện đƣa vào nhiều độc thoại nội tâm, nhiều tự do liên tƣởng, nhiều dòng ý
thức, nhiều hồi tƣởng tự do…” [70, 544]. Nhƣ vậy, tác phẩm đƣợc tổ chức
theo hình thức khơng gian sẽ là sự xáo trộn các sự kiện khiến chúng khơng
cịn liên kết với nhau theo thời gian tuyến tính.
Lý thuyết về hình thức khơng gian mang đến một góc nhìn mới về tác
phẩm văn học đó là tác phẩm văn học khơng cịn là một sản phẩm thuộc loại
hình nghệ thuật thời gian mà trở thành sản phẩm của loại hình nghệ thuật
khơng gian. Tự sự sẽ khơng cịn là những sự kiện mà tự sự là những không
gian.
1.2. Đặc điểm của không gian trong tác phẩm văn học
1.2.1. Khơng gian mang tính quan niệm
Không gian là sản phẩm sáng tạo của nhà văn bởi vậy nó cho thấy nhận
thức của nhà văn về hiện thực. Theo đó, nhận thức về khơng gian trong tác
phẩm văn học khơng nằm ngồi nhận thức của con ngƣời về không gian theo
quan điểm biện chứng và quan niệm về khơng gian nhƣ một yếu tố văn hóa.
Bởi vậy, chúng tơi sẽ trình bày về các quan niệm này trƣớc khi diễn giải về
không gian trong tác phẩm văn học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian và thời gian là hình
thức tồn tại khách quan của vật chất. Nhƣ vậy có nghĩa thừa nhận tính vật
chất của thế giới thì cũng thừa nhận tính khách quan của không gian và thời
gian. “Đã thừa nhận sự tồn tại của thực tại khách quan tức là của vật chất
đang vận động độc lập với ý thức của ta, chủ nghĩa duy vật ắt cũng thừa nhận
thực tại khách quan của không gian và thời gian” [17, 448-449]. “sự vận động


16

của vật chất bao giờ cũng tiến hành trong không gian và thời gian” [1, tr.449].
Theo quan niệm của triết học duy vật, có thể khẳng định khơng gian nghệ
thuật là yếu tố tất yếu phải xây dựng trong tác phẩm văn học khi tác giả muốn
tạo dựng bất cứ điều gì thuộc về thế giới vật chất trong đó có cả con ngƣời
hay nhân vật.
Cho rằng khơng gian là một phạm trù văn hóa, A. JA. Gurêvich trong
cuốn Các phạm trù văn hóa trung cổ đã khảo sát những quan niệm về không
gian và thời gian từ thời kỳ cổ đại đến trung cổ và hiện đại. Trƣớc hết, A. JA.
Gurêvich cho rằng “thời gian và không gian là những thông số quyết định của
sự tồn tại của thế giới, là những hình thức cơ bản của kinh nghiệm của con
ngƣời” [1, 30]. Từ sự khẳng định về vai trò quyết định trong việc kiến tạo
“bức tranh thế giới” của hai phạm trù không gian và thời gian, A. JA.
Gurêvich tiến đến khẳng định sự nhận thức của con ngƣời về không gian và
thời gian. Không gian và thời gian tồn tại một cách khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của con ngƣời nhƣng nó hồn tồn có thể “đƣợc con ngƣời ý
thức và thể nghiệm một cách chủ quan, trong những nền văn minh và xã hội
khác nhau ở những giai đoạn khác nhau của sự phát triển xã hội, ở những tầng
lớp khác nhau của cùng một xã hội” [1, 31]. Thời kỳ hiện đại, với sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, con ngƣời “nhận thức lại” về không gian và cả thời
gian. Ở đây, chúng tôi chỉ xem xét quan niệm của A. JA. Gurêvich về khơng
gian. Ơng cho rằng “trong thế giới hiện đại, khái niệm khơng gian cũng biến
đổi: nó có khả năng co lại. Những phƣơng tiện liên lạc và chuyển động mới
đã khiến cho trong một đơn vị thời gian con ngƣời ta có thể vƣợt đƣợc những
khoảng cách lớn hơn rất nhiều so với mấy chục năm trƣớc đây, chƣa nói là so
với mấy trăm năm trƣớc đây. Kết quả là thế giới trở nên nhỏ bé hơn rất nhiều”
[1, 32]. Không gian đƣợc thu hẹp lại do sự chuyển động của các phƣơng tiện
giao thông hiện đại đã làm thay đổi quan niệm về không gian của con ngƣời.
Khơng gian rộng, hẹp giờ đây mang tính tƣơng đối. Lập luận này của A. JA.



17
Gurêvich tiếp tục khẳng định cho điều đƣợc ông nêu lên từ rất sớm trong
nghiên cứu của mình đó là quan niệm về khơng gian và thời gian có thể thay
đổi theo từng thời kỳ, từng nền văn minh. Rõ ràng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật thì “những phạm trù không gian và thời gian hiện đại khác xa
không gian và thời gian đƣợc tri giác và thể nghiệm bởi con ngƣời sống trong
thời đại lịch sử khác” [1, 33]. Đáng chú ý ở cơng trình Các phạm trù văn hóa
trung cổ của A. JA. Gurêvich là tác giả xem văn học nghệ thuật là một dạng
ký hiệu để từ đó chỉ ra “bức tranh thế giới hoặc những yếu tố của nó đƣợc thể
hiện trong mọi hệ thống ký hiệu tác động trong xã hội. Do đó một điều hết
sức tự nhiên là ta đi tìm những dấu vết của nó trƣớc hết trong những tác phẩm
văn học nghệ thuật” [1, 40]. Xem tác phẩm văn học là một ký hiệu, A. JA.
Gurêvich khẳng định có sự ảnh hƣởng của các yếu tố không gian, thời gian
đến nó. Điều này đặc biệt quan trọng với chúng tôi khi nghiên cứu về không
gian hậu chiến trong tiểu thuyết của Lê Lựu. Trở lại với quan niệm về sự ảnh
hƣởng của không gian và thời gian trong hiện thực đến thế giới bên trong của
những tác phẩm nghệ thuật, A.JA.Gurêvich khẳng định “Thời gian nghệ thuật
và không gian nghệ thuật mà chúng ta gặp trong văn học và hội họa có những
nét đặc thù về căn bản khơng xuất phát trực tiếp từ những phƣơng thức tri
giác thế giới và lịch sử của xã hội trong đó những tác phẩm này đƣợc sáng tác
mà xuất phát từ những nhiệm vụ nghệ thuật và ý thức hệ đặc biệt đƣợc đặt ra
trƣớc nhà văn, nhà thơ và họa sĩ” [1, 40]. Theo A. JA. Gurêvich, thì khơng
gian và thời gian trong tác phẩm nghệ thuật đƣợc hình thành do ý đồ sáng tác
của nhà văn. Bởi vậy, chúng có những hàm ý nghệ thuật. Điều đó đồng nghĩa
với việc nhận thức về không gian và thời gian trong tác phẩm nghệ thuật cần
phải đặt trong tƣơng quan với ý đồ sáng tác của nhà văn.
Không gian là một khái niệm đƣợc khẳng định giá trị ở mỗi cá nhân,
mỗi thời đại và mỗi nền văn hóa. Bởi vậy có thể nói, khơng gian là một khái



18
niệm có tính quan niệm. Điều này cũng đúng với không gian trong tác phẩm
văn học.
1.2.2. Không gian gắn với cá tính sáng tạo của nhà văn
Khơng gian là sản phẩm lao động nghệ thuật của nhà văn bởi vậy nó
hội tụ những phẩm chất, cá tính…của ngƣời nghệ sĩ. Cùng một không
gian nhƣng đối với những nghệ sĩ khác nhau sẽ tái hiện những đặc điểm
khác nhau, độ đậm nhạt khác nhau. Hơn nữa, với mỗi nghệ sĩ sẽ có một
khơng gian ƣa thích riêng xuất hiện trong nhiều tác phẩm. Kiểu khơng
gian ƣa thích, đặc điểm của sự mô phỏng không gian thực tế… là những
biểu hiện của cá tính sáng tạo của nhà văn.
Trƣớc năm 1945, Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán ƣa thích
khơng gian làng quê với rất nhiều tác phẩm nhƣ Lão Hạc, Dì Hảo, Lang rận,
Chí Phèo… Có thể coi khơng gian làng quê cho thấy cá tính sáng tạo của nhà
văn này trƣớc Cách mạng. Trong truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã tạo
dựng không gian làng Vũ Đại với những ngƣời dân hiền lành lƣơng thiện, với
những quan lại phong kiến độc ác, tàn nhẫn. Không gian làng quê trong
truyện ngắn đƣợc tạo dựng từ hai mảng lớn là không gian thiên nhiên và
không gian xã hội con ngƣời. Không gian thiên nhiên đƣợc nhà văn miêu tả
với những chi tiết đan xen xuyên suốt câu chuyện. Đó là thiên nhiên bình lặng
trong mảnh vƣờn của Chí “cái vƣờn của hắn ở gần một con sông con, nƣớc
lặng và trong, khắp bãi trồng tồn dâu, gió đƣa đẩy những thân mềm oặt ẹo,
cuộn theo nhau thành làn. Duy có vƣờn nhà hắn trồng tồn chuối, ở một góc
vƣờn có túp lều con. Những đêm trăng nhƣ đêm nay, cái vƣờn phẳng ngổn
ngang những bóng chuối đen nhƣ những cái áo nhuộm vắt lung tung trên bãi.
Và những tàu chuối nằm ngửa, ƣỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi
nhƣ là ƣớt nƣớc, thỉnh thoảng bị gió lay lại giẫy lên đành đạch nhƣ là hứng
tình” [7, 48-49].



19
Không gian sinh hoạt của con ngƣời là nơi buôn bán làm ăn, là nơi lều quán
mộc mạc và cũng là nơi bến bãi, đị sơng. Khi Chí tỉnh rƣợu sau đêm giao
hoan với Thị Nở, anh cảm nhận đƣợc khơng gian cuộc sống đời thƣờng:
“Có tiếng cƣời nói của những ngƣời đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo
đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hơm nào chả có. Nhƣng hôm nay hắn mới
nghe thấy… Chao ôi là buồn.
- Vải hơm nay bán mấy?
- Ba xu gì ạ.
- Thế thì cịn ăn thua gì!
- Cố co kéo mới đƣợc một tấm năm xu.
- Thật thế đấy. Nhƣng chẳng lẽ lại chơi.
Chí Phèo đốn một ngƣời đàn bà hỏi một ngƣời đàn bà khác đi bán vải ở Nam
Định về” [7, 54].
Không gian sinh hoạt ở làng Vũ Đại mang theo sự bình n, nghèo khổ
có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trƣớc 1945. Với cá tính sáng tạo của mình, nhân
sinh quan của nhà văn hƣớng cả về những ngƣời nông dân nơi làng quê ấy.
Trong một truyện ngắn khác của Nam Cao, truyện Dì Hảo, nhà văn cũng
hƣớng đến một làng quê mang tên Vũ Đại với không gian sinh hoạt của con
ngƣời rất giản dị, đời thƣờng nhƣ một hàng quán “mỗi sáng, tôi cầm hai xu
mẹ phát cho, theo con ở đi ra hàng: -hàng là một cái chợ nhỏ của làng tôi, họp
ngay ở mặt đƣờng, mỗi sáng chỉ họp độ một giờ là đã tan-từ đằng xa tôi đã
thấy những ngƣời đàn bà váy bạc phếch xúm xít quanh mẹt bánh đúc của bà
xã Vận” [7, 330]. Trƣớc Cách mạng, Nam Cao tập trung vào đề tài ngƣời
nông dân và khi xây dựng những hình tƣợng ngƣời nơng dân điển hình nhà
văn tất yếu xây dựng những không gian thuộc về họ-không gian làng q. Bởi
vậy có thể khẳng định khơng gian làng quê cho thấy cá tính sáng tạo của nhà
văn trong những năm trƣớc Cách mạng.



×