BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIÊN GIANG
KHOA SƯ PHẠM VÀ XÃ HỘI NHÂN VĂN
TIỂU LUẬN
So sánh Thần Thoại Việt Nam và Thần Thoại Hy lạp
Giảng viên hướng dẫn : Dương Thị Diệu
Sinh viên thực hiện : Võ Hoàng Em
Lớp : B20TV
NĂM 2021
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài.
Thần thoại ra đời, phát triển và suy vong trong xã hội công xã nguyên thủy. Đây
là loại truyện đầu tiên ra đời và phát triển trong thể loại truyện dân gian của các
dân tộc. Thần thoại là sự tưởng tượng , thần thánh hoặc con người, những sinh
vật huyền bí, siêu nhiên do con người nguyên thủy sáng tạo ra xung quanh các
hiện tượng để phản ánh trong thế giới và giải thích thế giới tự nhiên và xã hội
theo góc nhìn của mình.Khái niệm vạn vật đều có linh hồn riêng (hay thế giới
thần thánh) Thần thoại ra đời nhằm thể hiện mong muốn lý giải thế giới xung
quanh, quá trình khám phá, học hỏi của con người thời đại ngày nay với một
trình độ hiểu biết, ý thức của họ cịn hạn chế, non nớt, ấu trĩ nên có những quan
niệm sai lầm về tự nhiên, với đặc điểm chung này đã tạo nên những nét tương
đồng trong thần thoại của các dân tộc, sự khác nhau nảy sinh từ cơ sở văn hố
địa lí, quan niệm thẩm mĩ. .. Kể từ đó, thế giới đã có một cơ thể thần thoại rộng
lớn và hấp dẫn được tạo ra từ thần thoại của các vị thần.Tìm hiểu sự giống và
khác nhau trong thần thoại các dân tộc đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều, nhưng vì
muốn tìm hiểu sâu hơn về chủ đề này thông qua các nguồn tư liệu cụ thể về thần
thoại Việt Nam và Hy Lạp, chúng tôi đã chọn đề tài: "So sánh Thần Thoại Việt
Nam và Thần Thoại Hy Lạp". Một thực tế cho thấy, thần thoại ra đời khá sớm ở
Việt Nam và đây cũng là thể loại thần thoại đầu tiên của Việt Nam. Văn tự sự
dân gian phổ biến với những hình thức biểu đạt đặc sắc về nội dung và nghệ
thuật. Nhưng bạn có thể thấy rằng giới trẻ ngày nay có phần thờ ơ với những
câu chuyện thần thoại của đất nước mình. Đa số hiện nay biết đến thần thoại Hy
Lạp nhiều hơn . Hiện nay ở Việt Nam cũng khó mua sách thần thoại Việt Nam
ngay cả trong nhà sách. Ngược lại, sách thần thoại Hy Lạp được tái bản nhiều
lần và bán rộng rãi. Lập luận điểm này cũng có nghĩa là thấy được những biểu
hiện độc đáo của thần thoại Việt Nam, so với thần thoại, một trong những quốc
gia có nền văn hóa dân gian sáng giá nhất.
2.
Lịch sử vấn đề
Khi con người bắt đầu nhận thức thế giới xung quanh, họ biết cách tạo ra những
câu chuyện thần thoại. Đó là nhận thức về các đối tượng tồn tại khách quan đối
với con người, mà trên hết là các hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, sấm,
chớp, các vì sao. ... và sau đó là nhận thức về thế giới tàn khốc, bí ẩn và hoang
dã bao quanh các dân tộc nguyên thủy. Thần thoại là thể loại văn học đầu tiên
trong thế giới loài người. Đối thoại đã trở thành và là nguồn nuôi dưỡng cho văn
học sau nàynguồn cảm hứng dồi dào cho nhiều loại hình nghệ thuật khác như
điêu khắc, hội họa, sân khấu,… Thần thoại đã trở thành đề tài hấp dẫn cho các
nghiên cứu về văn học, văn hóa, lịch sử… Thần thoại và những câu hỏi về
nguồn gốc, tính chất, nhân vật, cốt truyện, v.v ... đã được cô lập đề cập trong các
bài báo, luận văn, luận án ... Trong một số nghiên cứu, thần thoại tộc người
cũng được nhìn nhận dưới góc độ. so sánh, nhưng trên thực tế vấn đề này chưa
được xem xét rộng rãi. Bài nghiên cứu của E. Meletinski, "Thần thoại cổ đại
trong ánh sáng so sánh" - nguyên bản tiếng Nga (1971), của Trần Thị Phương
pháp dịch và in trong "Thần thoại và văn học", Thư viện các vấn đề ngôn ngữ,
xuất bản năm 2007. Meletinski đã rút ra những so sánh ở nhiều khía cạnh khác
nhau như đối tượng, tính cách, v.v. trong nghiên cứu sâu rộng của mình. Đề cập
đến thần thoại Việt Nam, nhà nghiên cứu nhận xét chung về một số biểu hiện
tương tự trong thần thoại Đông Nam Á. Ví dụ như châu Á với thần thoại Hy
Lạp: “Chủ đề nhiều mặt trời và việc giảm bớt chúng trong thần thoại (nghịch
bản của chủ đề tìm kiếm ánh sáng mặt trời giữa bóng đêm khởi thủy) rất phổ
biến trong các dân tộc vùng Đơng Nam Á... Đó là sự giống nhau y hệt về loại
hình với những chiến công của Heracles” ”. Đây là một gợi ý rất nhỏ, nhưng vô
cùng quý giá giúp chúng ta tiếp cận và xử lý tài liệu dễ dàng hơn. Trong cuốn
“Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam” (1974) ơng viết: “ Thời cổ có
thần thoại. Và như mọi dân tộc khác, tổ tiên ta chắc cũng đã hư cấu để giải thích
nguồn gốc sự vật và ca ngợi những lực lượng tự nhiên như biển, nước, đất, cỏ
cây, chim mng, gió, bão, mưa, sấm, sét, lửa, mặt trời, mặt trăng,… Loại thần
thoại này thấm sâu vào sinh hoạt tinh thần của người Lạc Việt và tồn tại dai
dẳng về sau với những vũ trụ quan cổ truyền của người nơng dân lao động, dưới
nhiều hình thức văn nghệ khác nhau ”Quan sát này đã cho chúng ta thấy rằng
thần thoại của dân tộc chúng ta, giống như tất cả các quốc gia khác, đã xây dựng
một hệ thống thần thoại với các nhân vật thần thánh như thần biển, thần nước,
thần núi ... Tuy nhiên, sự giống nhau này chỉ là một nhận xét nhỏ, tác giả viết
với mục đích miêu tả khái quát hệ thống kí hiệu trong thần thoại Việt Nam,
không phải với mệnh đề Z. đánh thức bạn để so sánh thần thoại Việt Nam với
thần thoại của các quốc gia khác. Trên trang 13 của sách "Văn học dân gian Việt
Nam tập 2" (1990), tác giả Hoàng Tiến Tựa viết: "Tuy thần thoại Việt khơng cịn
giữ được đầy đủ hệ thống và cốt cách nguyên thủy của nó, nhưng xét về phương
diện nội dung thì số thần thoại Việt cịn lại chẳng những đã phản ánh được xã
hội, tư tưởng, tâm hồn Việt Nam mà còn thể hiện được những vấn đề cơ bản có
trong thần thoại của nhiều dân tộc (như vấn đề nguồn gốc của vụ trụ, nguyên
nhân của các hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc của các loài động vật, thực vật và
loài người, nguyên nhân của sự sống, sự chết, nguồn gốc dân tộc, nguồn gốc các
nghề…)" Do đó tác giả đã đưa ra nhận định so sánh thần thoại Việt Nam với
thần thoại các nước về số lượng và nội dung.
3.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu :
Đề tài tập trung xem xét những điểm giống và khác nhau trong việc lựa chọn,
xây dựng nhân vật và cốt truyện trong thần thoại Việt Nam và Hy Lạp.
- Đối tượng nghiên cứu :
So sánh thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp.
4.
Mục tiêu của đề tài
- Nghiên cứu và so sánh thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp để thấy điểm
tương đồng và điểm khác biệt trong thần thoại của dân tộc Việt Nam và dân tộc
Hy Lạp ở khía cạnh xây dựng hình tượng nhân vật thần và cốt truyện. Từ đó,
thấy được bản sắc văn hóa, văn học và quan niệm sống khác nhau của hai quốc
gia.
- Đồng thời, góp phần hệ thống hóa tư liệu về thể loại thần thoại, đặc biệt là
thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp.
5.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6.
Bố cục
Chương 1: Giới thuyết về thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp
Chương 2: So sánh nhân vật trong thần thoại Việt Nam và thần thoại
Hy Lạp
Chương 3: So sánh cốt truyện trong thần thoại Việt Nam và thần thoại
Hy Lạp
CHƯƠNG 1. GIỚI THUYẾT VỀ THẦN THOẠI VIỆT NAM VÀ THẦN
THOẠI HY LẠP
1.1 .
Khái niệm về thần thoại
Theo ông Chu Xuân Diên cho rằng Thần thoại là những truyện kể hoang đường
về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản
ảnh nhận thức và sự hình dung của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và
đời sống con người. Cịn theo ơng Đỗ Bình Trị, Thần thoại là những truyện kể
về sự tích các “thần”, do người thời cổ tưởng tượng ra nhằm giải thích nguồn
gốc ý nghĩa của một số hiện tượng tự nhiên và xã hội được coi là có quan hệ
mật thiết đến sự sống còn của tập thể thị tộc bộ lạc.
Về khái niệm thần thoại, hầu như các ý kiến của những nhà nghiên cứu đều gặp
nhau và thống nhất với nhau. Thần thoại là những truyện kể hoang đường, kỳ
ảo, kể về những nhân vật chính là những vị thần – có cả các nhân vật được sùng
bái hoặc có quan hệ nguồn gốc với các vị thần (E. M. Mê-lê- tin-xki) tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập thế giới và các nhân tố của nó như thiên
nhiên và văn hóa. Thần thoại là phương pháp cơ bản để tìm hiểu thế giới, phản
ảnh cảm giác, sự hiểu biết về thế giới của thời đại sinh ra nó.
Nói đến các vị thần trong thần thoại là nói đến nhân vật trung tâm đại diện cho
sức mạnh của vũ trụ (Trời, Đất, Sông, Biển….), họ có lai lịch, diện mạo, hành
động, hoạt động và các quan hệ của các thần với nhau. Họ có sức mạnh và đại
diện cho sức mạnh, tạo ra mọi vật. Nhân vật thần thoại, ngoài các vị thần tạo lập
vũ trụ còn là các nhân vật sáng tạo văn hóa, các anh hùng dũng sĩ thời cổ đại,
các nhân vật anh hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hóa thần linh, các
nhân vật siêu nhiên khơng có trong thực tế Từ các nhân vật hoang đường, kỳ ảo
này, Thần thoại giải thích nguồn gốc vũ trụ, hiện tượng tự nhiên, sự hình thành
mn lồi và sự hình thành của các tộc người, phản ảnh quan niệm của con
người cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội con người.
Thần thoại là trí tưởng tượng gắn liền với những quan niệm cổ mà người xưa
dùng để giải thích thế giới, coi tất cả mọi hiện tượng đều do sức mạnh thần linh
chi phối, chế ngự…
1.1.1
Sự ra đời của thần thoại
a. Thời
gian ra đời .
Thần thoại là một loại tự sự dân gian ra đời và phát triển trong thời cơng xã
ngun thủy, khi trình độ về mọi mặt của con người cịn rất thấp, ngơn ngữ cịn
nghèo, sự tiếp xúc giao lưu văn hóa cịn hạn chế (Ở Việt Nam, thời kỳ đó là thời
tiền Hùng Vương, trước khi lập nước Văn Lang, cách đây trên 3000 năm).
b. Nguyên
nhân ra đời .
Thần thoại nảy sinh do nhu cầu giải thích các hiện tượng tự nhiên và xã hội của
con người thời tiền sử. Ở đó, thiên nhiên vừa gần gũi vừa đe dọa người nguyên
thủy, đánh thức khát vọng khám phá, giải thích, chinh phục tự nhiên. Và thần
thoại là kết quả, là thành tựu khám phá tự nhiên của người thời cổ. Với năng lực
tư duy hạn chế, thế giới quan thần linh, cảm nhận sự vật còn ngây thơ chất phác,
người nguyên thủy đã giải thích mọi thứ bằng cách quy vào hoạt động của thế
giới thần linh để từ đó nhào nặn thế giới tự nhiên trong trí tưởng tượng của
mình (Những Thần trụ trời, Thần Mưa, Thần Gió, Thần Sét, Thần Biển.. )
Vì vậy, thần thoại là tồn bộ những hoạt động nhận thức và là kho tàng tri thức
của con người trong hình thái xã hội cơng xã ngun thủy. Họ nhận thức thực
tại khách quan và đã trả lời – dù còn sai lầm – các câu hỏi: Tại sao? Như thế
nào?. về thực tại khách quan.
1.1.2 Thần thoại hiểu theo nghĩa rộng.
Trong cơng trình nghiên cứu của mình, Lại Nguyên Ân đưa ra cách hiểu về thần thoại
như sau: "Sáng tạo của trí tưởng tượng tập thể toàn dân, phản ánh khái quát hiện thực
dưới dạng những vị thần được nhân cách hóa hoặc những sinh thể có linh hồn mà dù
là quái tượng, phi thường đến mấy cũng vẫn được đầu óc người nguyên thủy nghĩ và
tin là hồn tồn có thực. Mặc dù thần thoại tồn tại như những truyện kể về thế gian,
nhưng thần thoại không phải là một thể loại ngôn từ mà là những ý niệm và biểu
tượng nhất định về thế giới. Cảm quan thần thoại nói chung khơng chỉ bộc lộ bằng
truyện kể, mà cịn bộc lộ trong nhiều hình thức khác: trong hành động (nghi lễ, lễ
thức, răn cấm), trong các bài ca, điệu nhảy… Đặc trưng của thần thoại thể hiện rõ nhất
trong văn hóa nguyên thủy, ở đó thần thoại là cái tương đương với "văn hóa tinh thần"
và "khoa học" của xã hội cận hiện đại. Trong đời sống các cộng đồng nguyên thủy,
thần thoại là cả một hệ thống, con người nguyên thủy tri giác và mô tả thế giới bằng
các biểu tượng của hệ thống ấy. Thần thoại là ý thức nguyên hợp của xã hội nguyên
thủy. Về sau, thần thoại phân chia thành các hình thái ý thức xã hội như tơn giáo, nghệ
thuật, văn học, khoa học, tư tưởng chính trị…thì các hình thái ấy vẫn bảo lưu trong
chúng hàng loạt mơ hình thần thoại, được chế biến lại để đưa vào cấu trúc mới, thần
thoại có cuộc sống thứ hai" . Như vậy khái niệm thần thoại ở đây được hiểu là một
hình thức tư duy, tồn tại phổ biến trong cộng đồng nguyên thủy, nhờ lối tư duy này mà
người nguyên thủy tri giác về thế giới và con người. Đó là lối tư duy thần thoại, được
in dấu trong các hình thái ý thức xã hội. Văn học dân gian cổ đại là một loại hình nghệ
thuật ngơn từ, ở đó phản ánh rõ nét hình thức tư duy thần thoại. Người ta biết tới Mác
không chỉ với tư cách là một nhà tư tưởng lỗi lạc, mà còn là một người có những nhận
định hết sức tinh tường về thần thoại. Quá trình nghiên cứu thần thoại của Mác gắn
liền với những tri thức triết học. Ông cho rằng "Thần thoại nào cũng chinh phục, chi
phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng
tượng. Tiền đề của nghệ thuật Hy Lạp là thần thoại Hy Lạp, tức là tự nhiên và bản
thân hình thái xã hội đã được trí tưởng tượng của dân gian chế biến đi một cách nghệ
thuật và vô ý thức. Không thể nào hiểu đúng được thần thoại nếu tách nó ra khỏi xã
hội nguyên thủy, nơi mà nhu cầu lí giải, chinh phục tự nhiên và xã hội của con người
thời cổ đại gắn liền với thế giới quan thần linh hay cũng gọi là thế giới quan thần
thoại. Dùng trí tưởng tượng để hình dung, giải thích và chinh phục thế giới, người
ngun thủy đã tạo ra thần thoại và thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp đa
chức năng, nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật vơ ý thức, đồng thời cịn là tín
ngưỡng, tơn giáo của người nguyên thủy" . Quan điểm của Mác đã gắn việc lí giải
thần thoại với việc lí giải các vấn đề của xã hội nguyên thủy. Thần thoại không đơn
thuần là một thể loại văn học mà tồn tại trong nó rất nhiều tri thức tổng hợp, đa dạng,
nó là một kiểu tư duy tồn tại phổ biến ở nhiều loại hình nghệ thuật cũng như trong
cuộc sống của người xưa. Hai ý kiến trên đây cho ta thấy thần thoại được nhìn nhận
dưới góc độ là một phương thức tư duy, nó tồn tại trong nhiều loại hình nghệ thuật
cũng như tồn bộ đời sống của con người thời nguyên thủy, cái thời "một đi không trở
lại", trong đó văn học dân gian cổ đại là một phương diện thể hiện phương thức tư duy
thần thoại rõ nét.
1.1.3 Thần thoại hiểu theo nghĩa hẹp.
Trên thế giới và ở Việt Nam, văn học dân gian cổ đại cũng như thể loại thần thoại đã
được nghiên cứu từ lâu, đặc biệt vẻ đẹp của thần thoại Hy Lạp đã là nguồn cảm hứng
của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau. Khái niệm
thần thoại đã được đưa ra trong nhiều cơng trình nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước. Nhà nghiên cứu người Nga, E.M. Meletinski cho rằng: "Từ thần thoại có
nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, truyện thoại. Thường người ta
hiểu nó là truyện về các vị thần, các nhân vật được sùng bái hoặc có quan hệ nguồn
gốc với các vị thần, về các thế hệ xuất hiện trong thời gian ban đầu, tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào việc tạo lập nên những nhân tố của nó - thiên nhiên và văn hóa. Hệ
thần thoại (mifalogia) là tổng thể những câu chuyện như thế về các vị thần và các
nhân vật đồng thời là hệ thống những quan niệm hoang đường về thế giới" . Như vậy
ở đây, thần thoại được xem xét dưới góc độ là một thể loại văn học, nghĩa là nó là một
thể loại tự sự ra đời đầu tiên của lồi người và nó phản ánh thế giới cũng như xã hội
thơng qua yếu tố "thần". Ơng cũng chỉ ra rằng thần thoại có sự đan kết những yếu tố
phôi thai của tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật. Quan hệ hữu cơ của thần
thoại với nghi lễ vốn được thực hiện qua các phương tiện âm nhạc, vũ đạo, các
phương tiện tiền sân khấu và ngôn từ, quan hệ ấy có bí mật và chưa được giải mã một
cách chính xác. Thần thoại khơng chỉ là một loại hình nghệ thuật ngơn từ, nó pha trộn
trong đó nhiều yếu tố của các ngành khoa học và nghệ thuật khác. Xem xét các mối
quan hệ giữa thần thoại và xã hội nguyên thủy, F. Enghen nhận thấy: "Thần thoại là
sản phẩm tinh thần của người nguyên thủy, nội dung của nó mang nặng tính chất
hoang đường ảo tưởng nhưng trong đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan
trọng về nhiều mặt. Sự nhận thức và lí giải sai lầm, ảo tưởng về thế giới ở trong thần
thoại là điều tất yếu không thể tránh khỏi" . Ý kiến này của Enghen cho chúng ta thấy
hai vấn đề mang tính bản chất của thể loại thần thoại. Thứ nhất, đó là sản phẩm tinh
thần của người nguyên thủy, mang tính chất ảo tưởng, hoang đường nhưng chứa đựng
nhiều yếu tố có giá trị về nhiều mặt. Thứ hai, sự nhận thức và lí giải sai lầm ảo tưởng
tồn tại trong thần thoại mang tính tất yếu khơng thể tránh khỏi, đó chính là dấu hiệu
của tư duy nguyên thủy đặc thù mà ta chỉ có thể tìm thấy trong thần thoại mà thơi.
Nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian trong nước từ lâu đã tìm cách định nghĩa thần
thoại theo cách nhìn nhận của riêng mình. Một trong những tài liệu nghiên cứu mang
tính chất mở đường về thần thoại là cuốn Lược khảo về thần thoại Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi. Trong tài liệu này, ông đã định nghĩa thần thoại như sau: "Thần
thoại là một truyện cổ tích. Trong các truyện cổ tích có thể chia làm hai thứ: một thứ
nội dung hồn tồn nói về người hoặc về vật mà ta có thê gọi là nhân thoại, vật thoại,
trong đó khơng có sức thần phép tiên len vào; một thứ trái lại, bao hàm ít nhiều chất
hoang đường quái đản. Thần thoại thuộc về thứ sau" . Cách hiểu trên đây của Nguyễn
Đổng Chi đã cho chúng ta thấy mấy vấn đề hết sức phức tạp trong nghiên cứu thần
thoại: - Thứ nhất, ranh giới giữa thần thoại và một số thể loại khác (đặc biệt là với
truyền thuyết, cổ tích) là khá mong manh, do đó có những tác phẩm được xếp vào
nhiều thể loại. - Thứ hai, cách thức phản ánh của thần thoại và cổ tích có những nét
hết sức giống nhau, từ đó dẫn tới việc phân loại và nghiên cứu thần thoại gặp nhiều
rắc rối. Một trong những nhà nghiên cứu văn học dân gian có uy tín là Chu Xn Diên
đã đưa ra cách hiểu về thần thoại như sau: "Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân
gian về các vị thần, những nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản
ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc của thế giới và của đời sống con
người" . Cách hiểu này đã chỉ ra 3 đặc điểm quan trọng nhất của thần thoại: thần thoại
là tập hợp những truyện kể (tức là có số lượng lớn tạo nên một thể loại độc lập); đối
tượng phản ánh của thần thoại là các vị thần, những nhân vật anh hùng, các nhân vật
sáng tạo văn hóa; nội dung của thần thoại phản ánh quan niệm của người thời cổ về
nguồn gốc của thế giới và của đời sống con người. Có thể khẳng định rằng đây là cách
hiểu khá chính xác và tồn diện về thần thoại, xứng đáng là cơ sở để người nghiên cứu
có những xem xét, đánh giá đúng đắn về thần thoại. Với cách hiểu này, Chu Xuân
Diên đã khẳng định sự tồn tại của thể loại thần thoại trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam. Vũ Ngọc Khánh trong cơng trình chủ biên của mình là Kho tàng thần thoại
Việt Nam đã đưa ra nhận định: "Thần thoại là hình thức sáng tác của con người thời
đại xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lí giải vũ trụ và chinh phục vũ trụ
của con người" . Nhận định này đã lần nữa bổ sung và khẳng định sự tồn tại của thần
thoại Việt Nam, tuy cách hiểu có hẹp hơn nhưng cũng khơng mâu thuẫn với cách hiểu
của Chu Xuân Diên. Khái niệm thần thoại, chúng ta cịn bắt gặp trong giáo trình Văn
học dân gian Việt Nam do Đinh Gia Khánh làm chủ biên: "Thần thoại là hiện tượng
văn hóa tinh thần ra đời từ khá sớm. Theo qui luật phổ biến, thần thoại chủ yếu ra đời
trong xã hội cộng đồng nguyên thủy, vào những thời kì xa xưa của các xã hội trước
khi có giai cấp. Thần thoại phản ánh một cách kì diệu nhận thức về vũ trụ, về công
cuộc đấu tranh thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và tư duy xã hội ở các tộc người anh em
từ thời cổ sơ" . Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học (Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Lê
Bá Hán làm chủ biên) đưa ra khái niệm thần thoại như sau : "Thần thoại còn gọi là
huyền thoại. Là thể loại truyện ra đời và phát triển sớm nhất trong lịch sử truyện kể
dân gian các dân tộc. Đó là tồn bộ những truyện hoang đường, tưởng tượng về các vị
thần hoặc những con người, những lồi vật mang tính chất kỳ bí, siêu nhiên do con
người thời nguyên thủy sáng tạo ra để phản ánh và lí giải các hiện tượng trong thế giới
tự nhiên và xã hội theo quan niệm vận vật có linh hồn (hay thế giới quan thần linh)
của họ". Theo quan điểm này ta có thể thấy khái niệm thần thoại được nhìn nhận một
cách đầy đủ và cụ thể hơn, bao gồm các yếu tố: định danh thể loại, thời gian ra đời,
đối tượng phản ánh, nội dung phản ánh và cách thức phản ánh. Khái niệm trên giúp
cho người nghiên cứu có thể nhìn nhận tương đối chính xác một tác phẩm thần thoại.
Từ những cách hiểu trên đây ta có thể rút ra một cách hiểu chung nhất về thần
thoại:Thần thoại là một thể loại của văn học dân gian kể về các vị thần, các anh hùng,
những người sáng tạo văn hóa, phản ánh lịch sử và xã hội của người xưa theo một
phương thức riêng (phương thức thần thoại). Nhìn chung khái niệm thần thoại là một
vấn đề hết sức phức tạp, hầu như mỗi nhà nghiên cứu muốn đưa ra một quan niệm của
riêng mình. Nhưng cho dù có sự khác nhau thì họ cũng có những điểm chung nhất
định khiến chúng ta có thể đưa ra cách hiểu chung nhất về thần thoại để từ đó có thể
giúp nhìn nhận thể loại này một cách tương đối cụ thể và chính xác. Tuy vậy việc mở
rộng nội hàm khái niệm thần thoại thành huyền thoại hay cách hiểu chưa rạch ròi giữa
thần thoại và truyền thuyết, thần thoại với cổ tích, hoặc cho thần thoại là tiền văn học
chứ chưa phải là văn học, cũng đem lại những phức tạp không thể tránh khỏi cho
những ai nghiên cứu thần thoại .
1.2 Một số đặc trưng cơ bản về thần thoại.
a. Điều kiện xã hội của thần thoại:
Như trên đã nói, thực tiễn của lồi người ở hình thái cơng xã ngun thủy đã
thúc đẩy sự nảy sinh trí tưởng tượng của họ và từ đó nảy sinh thần thoại.
Tư duy người nguyên thủy được nảy sinh trên cơ sở phản ảnh những quan hệ
của các hiện tượng của thực tại khách quan với con người thông qua lao động.
Ở đó có mối quan hệ giữa nhu cầu nhận thức và nhu cầu giao tiếp; giữa kinh
nghiệm và sự khẳng định mình; sự sợ hãi và khát vọng chinh phục…
b. Tính nguyên hợp của thần thoại:
Tính nguyên hợp là đặc điểm nổi bật của thần thoại. Bởi lẽ ta thấy ở thần thoại
sự thể hiện của nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố khác nhau. Thần thoại vừa là khoa
học sơ khai hình thành và phát triển hồn tồn tự phát nhằm giải thích thế giới;
vừa là tơn giáo ngun thủy phản ánh sự sùng bái tự nhiên của người xưa; vừa
là nghệ thuật “vô ý thức” của người cổ đại. Trong thần thoại còn chứa đựng
mầm mống của triết học, lịch sử, luật pháp…
c. Chức năng cơ bản của thần thoại:
Là một thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, thần thoại có các chức năng tiêu
biểu của một tác phẩm văn học dân gian. Tuy nhiên, các chức năng của thần
thoại lại có những đặc trưng riêng khó có thể lầm lẫn được.
Đó là chức năng nhận thức – dù nhận thức trong thần thoại ở buổi đầu cịn rất
sai lầm. Sự nhận thức đó thể hiện ở hai phương diện: Nhận thức thực tiễn khách
quan (nhận thức những gì đang tồn tại, đang xảy ra) và nhận thức suy nguyên
(nhận thức những gì thuộc về nguồn gốc của vũ trụ, của con người, của vạn vật,
muôn lồi…).
Đó cũng là chức năng sinh hoạt thực hành như một phương thức tồn tại – ra đời,
lưu truyền và diễn xướng – của thần thoại. Không nằm khuôn cứng như trong
những văn bản sưu tầm về văn học dân gian hiện nay, đời sống của một tác
phẩm thần thoại đích thực ln gắn liền với các hoạt động lễ nghi, có màu sắc
tơn giáo ma thuật…Những hình thức đó tham gia trực tiếp vào hoạt động sinh
hoạt lao động sản xuất và đời sống của người thời cổ.
Ở thần thoại, đặc biệt, ta cịn có thể nhận ra chức năng thẩm mỹ của nó. Đó là
sự thể hiện cái hoang đường của nhận thức là trí tưởng tượng lãng mạn và khát
vọng đẹp đẽ vươn tới chinh phục tự nhiên (mỹ học gọi là hướng đến cái đẹp, cái
cao thượng).Từ đó, thần thoại đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật thẩm
mỹ cao – dù sự sáng tạo này không phải lúc nào cũng là tự giác (mà thường là
tự phát).
1.3 Đôi nét về thần thoại Việt Nam.
Ở Việt Nam, thần thoại xuất hiện khá sớm, “được thoát thai từ triết lý sống tự
nhiên của con người, được sáng tạo ra trong thời kỳ các thị tộc, bộ lạc đã sớm
có ý thức về địa vực cư trú và ý thức về giống nòi”. Theo Đinh Gia Khánh, thần
thoạị nước ta “nảy sinh từ cuộc sống của người nguyên thuỷ và phát triển theo
yêu cầu của xã hội Lạc Việt”. Tức là, ơng đã cho rằng thần thoại Việt Nam có từ
trước công nguyên, trước thời Bắc thuộc và trong quá trình con người, xã hội
phát triển, thần thoại đã có sự thay đổi ít nhiều về hình thức và nội dung cốt
truyện. Truyện thần thoại của người Việt đã không còn giữ được sự nguyên vẹn
như lúc ban đầu mới sáng tác.
Thần thoại Việt Nam là tên gọi để chỉ chung những câu chuyện thần thoại do
người Việt Nam xưa sáng tác. Thế nhưng, đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh
em cho nên mỗi dân tộc lại có kho thần thoại riêng như thần thoại dân tộc Việt
(Kinh), thần thoại dân tộc Mường, thần thoại dân tộc Tày, thần thoại dân tộc
Thái, thần thoại dân tộc Êđê, thần thoại dân tộc Tây Nguyên… dẫn tới việc
trong truyện thần thoại Việt Nam có nhiều truyện cùng viết về một vị thần hay
cùng giải thích một hiện tượng nào đó nhưng cách lí giải và đặt tên nhân vật lại
khác nhau. Thế nhưng, điểm khác biệt đó khơng đáng kể bởi nội dung các câu
chuyện vẫn tựa như nhau, chỉ khác vài chi tiết nhỏ.
Trong thần thoại Việt Nam, số lượng thần thoại của dân tộc Việt (dân tộc Kinh)
chiếm tỉ lệ cao nhất. Thần thoại các dân tộc thiểu số chỉ chiếm tỉ lệ ít hơn. Thần
thoại Việt Nam bị pha trộn với phương Bắc, với thần thoại Trung Quốc do nghìn
năm Bắc thuộc. Song, thần thoại dân tộc Việt chịu sự ảnh hưởng nặng nề hơn
cả.
Ở Việt Nam, hai thể loại là thể loại thần thoại và thể loại truyền thuyết dễ lẫn
lộn với nhau bởi có nhiều câu chuyện bị lịch sử hóa, truyền thuyết hóa, cổ tích
hóa như những chuyện về thời kì Văn Lang, Âu Lạc An Dương Vương, Thánh
Gióng, Thạch Sanh… Theo Nguyễn Đổng Chi trong cuốn “Lược khảo về thần
thoại Việt Nam”, tác giả đã đặt ra câu hỏi: “nhân vật An Dương Vương có thực
hay khơng có thực?”. Ơng đưa ra một loạt các dẫn chứng: trong truyện “An
Dương Vương”, Triệu Đà là nhân vật có thật nhưng nước Thục, nước Ba Tư lại
không thuộc Việt Nam. Và ông cũng nói rằng trong sách sử nước ta không hề
nhắc tới cuộc giao tranh giữa Triệu Đà và An Dương Vương. Vì vậy, khi đọc
truyện, người đọc và các nhà nghiên cứu văn học phải đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi nhân vật An Dương Vương có thực hay khơng có thực? Và khi nói truyện
“An Dương Vương” thuộc thể loại thần thoại hay truyền thuyết thì cần phải đưa
ra được lí lẽ thuyết phục người nghe.
Có nhiều cách để phân chia thần thoại Việt Nam, theo các nhà nghiên cứu, họ
phân chia theo cách truyền thống và chia thần thoại Việt Nam thành bốn nhóm
chính: Nhóm một là thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự
nhiên (Đó là những câu chuyện kể về sự hình thành vũ trụ, thiên nhiên, các hiện
tượng trong tự nhiên một cách mộc mạc, trong sáng); Nhóm hai là thần thoại kể
về nguồn gốc các loài vật, cây cối, núi, sơng…; Nhóm ba là truyện về nguồn
gốc lồi người; Nhóm bốn là thần thoại kể về sự chinh phục thiên nhiên, các anh
hùng sáng tạo văn hóa.
Do hồn cảnh lịch sử – xã hội, do hình thức lưu truyền bằng miệng và không
được ghi chép nên thần thoại Việt Nam bị mất mát khá nhiều. Thế nhưng các
nhà nghiên cứu văn học đã cố gắng sưu tầm, tập hợp lại. Tuy thần thoại Việt
Nam không phải là kho tàng truyện thần thoại đồ sộ thế nhưng thần thoại Việt
Nam vẫn là nguồn tài liệu quý giá cho tất cả các ngành khoa học xã hội, phản
ánh được một phần nào đó tình trạng sinh hoạt, xã hội của người Việt cổ và là
nguồn cảm hứng vô tận cho các loại hình nghệ thuật khác của người Việt như:
hôi họa, sáng tác văn học…
1.4 Đôi nét về thần thoại Hy Lạp.
Theo giáo trình “Văn học thế giới” do Lưu Đức Trung chủ biên định nghĩa:
Thần thoại Hy Lạp là muthos + logos. Trong đó, muthos được hiểu là câu
chuyện, huyền thoại. Cịn logos được hiểu là lời nói, học
thuyết. Muthos + logos chỉ chung toàn bộ các câu chuyện kể dân gian, truyên
miệng, liên quan tới các chiến công, các truyền thuyết, liên quan tới các thần
linh. Hay theo lối chiết tự có thể hiểu: thần là một kiểu sức mạnh siêu nhiên,
siêu phàm được con người sáng tạo, tiếp nhận và phản ánh thơng qua trí tưởng
tượng theo cách thức lĩnh hội riêng của từng dân tộc; thoại là cách kể về câu
chuyện siêu nhiên đó.
Thần thoại Hy Lạp là cách gọi để chỉ chung toàn bộ các câu chuyện kể dân gian
truyền miệng của người dân Hy Lạp liên quan tới các vị thần, các anh hùng, bản
chất của thế giới và nguồn gốc, ý nghĩa các hình thức tín ngưỡng, nghi lễ tơn
giáo của người Hy Lạp xưa. Nó cũng như thần thoại của các nước khác trên thế
giới, dùng trí tưởng tưởng để giải thích tự nhiên và chinh phục tự nhiên thế
nhưng “So với thần thoại các dân tộc khác, thần thoại Hy Lạp phong phú và
đa dạng hơn, đồ sộ và có tính hệ thống cao hơn và là loại thần thoại hay nhất
thế giới” .
Khi tìm hiểu về thần thoại Hy Lạp, tác giả Nguyễn Văn Khỏa nhận định:
“Hiếm có thần thoại của dân tộc nào trên thế giới lại luôn luôn được tái sinh
như thần thoại Hy Lạp, lại ln ln có mặt, hiện diện trong đời sống hằng
ngày như thần thoại Hy Lạp. Ngay cả trong thời cổ đại, thần thoại Hy Lạp đã
hóa thân thành thần thoại La Mã. Sự chế biến này của nền văn hóa La Mã gần
với nguyên mẫu như sao chép đến nỗi khoa thần thoại học gần như khơng có sự
phân biệt giữa những vị thần Hy Lạp đổi tên Latinh với những vị thần Hy Lạp
chính cống” . Như vậy, so với thần thoại của các dân tộc khác trên thế giới, thần
thoại Hy Lạp được nhiều người biết tới hơn cả. Thần thoại La Mã đã sao chép
gần như y nguyên thần thoại Hy Lạp, chỉ đổi tên Latinh cho các vị thần. Ví như
thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp được gọi là thần Jupiter theo tiếng Latinh
trong thần thoại La Mã. Không những thế, thần thoại Hy Lạp cịn là nguồn suối
ni dưỡng mọi hình thức nghệ thuật khác như: văn học, sân khấu, hội họa, điêu
khắc… ngay từ thế kỉ XVII và cho tới tận ngày ngay. Thần thoại Hy Lạp cung
cấp đề tài, cốt truyện, nhân vật… để từ đó những nhà văn, nhà viết kịch, họa sĩ,
nhà điêu khắc dựa vào đó sáng tác ra những tác phẩm nghệ thuật riêng của
mình. Từ thần thoại Hy Lạp chúng ta cịn có các điển tích, điển cố văn học, có
tên các chịm sao…
“Thần thoại Hy Lạp hình thành trong một quãng thời gian lịch sử khá dài. Đó
là một quá trình lịch sử từ thời kỳ nền văn minh Mycènes (2000-1100 TCN) đến
những buổi thi biểu diễn, đọc, kể anh hùng ca của Homère trong những ngày
hội rồi đến hội diễn bi kịch trong ngày hội Dionysos…” . Trong quãng thời gian
này, thần thoại phát triển gắn liền với các giai đoạn xã hội lúc bấy giờ. Đó là
một quá trình diễn ra rất phức tạp khiến cho thần thoại đã bị mai một khá nhiều.
Tuy nhiên, dù bị mai một đi khá nhiều, nhưng ngày nay chúng ta vẫn có một
kho tàng thần thoại Hy Lạp phong phú. Bởi vì, những nghệ nhân dân gian ằde,
rhapsode đã lưu giữ gia tài thần thoại. Họ sưu tầm và thậm chí là tái tạo lại thần
thoại rồi sau đó biểu diễn. Nhờ vậy, thần thoại đã được lưu truyền và với sự ra
đời của chữ viết, thần thoại Hy Lạp đã được ghi chép lại và “hầu hết nhưng câu
chuyện thần thoại còn lại với chúng ta ngày nay đều do những nhà thơ, nhà viết
kịch kể lại, sau này là các mythographe” .
Truyện thần thoại Hy Lạp thường được chia thành ba loại: Loại thứ nhất là
truyện thần thoại về các gia hệ thần (Loại này tập hợp những truyện kể về
những thế hệ trong gia đình thần linh nhằm giải thích các hiện tượng tự nhiên,
giải thích những quá trình hình thành, vận động và phát triển của vũ trụ. Theo
thứ tự trước sau, có bốn gia hệ thần. Các vị thần già sáng tạo ra thế giới sau đó
các vị thần trẻ lần lượt thay thế các vị thần già cai quản thế giới); Loại thứ hai là
truyện thần thoại về các thành bang (Đây là loại truyện thần thoại có nội dung
giải thích nguồn gốc các thành bang, phản ánh cuộc sống, giải thích các phong
tục tập quán, lễ nghi xã hội của những con người sống trong thành bang, ca ngợi
những vị anh hùng ưu tú trong thành bang….); Loại thần thoại thứ ba là thần
thoại về các anh hùng (Loại truyện này kể về những con người có sức mạnh,
khả năng siêu phàm, trí tuệ thơng minh lập nên những chiến công vang dội). Sự
phân chia này thể hiện sự phát triển từ thấp tới cao trong trình độ tư duy, nhận
thức xã hội của người Hy Lạp cổ đại. Qua truyện thần thoại của người Hy Lạp,
chúng ta có thể thấy ngay từ thời nguyên thủy, người
Hy Lạp đã lấy con người làm thước đo vũ trụ và dùng trí tưởng tượng để lý giải
sự bí ẩn của thế giới xung quanh.
Tóm lại, thần thoại Hy Lạp đóng vai trò rất quan trọng. Hiếm thấy thần thoại
của dân tộc nào trên thế giới lại có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến văn minh nhân
loại như thần thoại Hy Lạp. “Khơng có thần thoại Hy Lạp thì khơng có nghệ
thuật Hy Lạp. Thần thoại Hy Lạp không những là kho vũ khí mà cịn là mảnh
đất bồi dưỡng nghệ thuật Hy Lạp” (Mác).
CHƯƠNG II : SO SÁNH NHÂN VẬT CỦA THẦN THOẠI VIỆT NAM
VÀ THẦN THOẠI HY LẠP
2.1 Sự tương đồng về nhân vật.
2.1.1. Nhân vật trung tâm trong thần thoại
Tác giả Đỗ Bình Trị trong cuốn ”Phân tích tác phẩm văn học dân gian” đã viết:
“Trong thần thoại, thế giới là thế giới các thần, nhân vật trong đó là các vị thần,
con người chưa có vai trị gì. Đến sử thi, lần đầu tiên, con người mới thực sự
xuất hiện và là nhân vật trung tâm, tuy thế giới các thần vãn ngự trị. Các vị thần
trong thần thoại là sản phẩm của quan niệm vạn vật đều có linh hồn, quan niệm
thần và người đồng hình, đồng tính của tư duy vốn mang những nét đặc thù của
người thời cổ”.
Nhân vật trung tâm của thần thoại ln là các vị thần. Chính vì thế, thần được
coi là một thực thể tự nhiên hoặc siêu nhiên, được người đời xem là thiêng liêng
và quyền năng. Thần còn được xem là bất tử, trí tuệ, siêu phàm hơn con người.
Theo giới tính, thần được chia thành nam thần và nữ thần.
Không chỉ riêng trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp mới chia các vị
thần theo giới tính là nam thần và nữ thần. Đọc giả có thể bắt gặp trong tất cả
các câu chuyện thần thoại của các dân tộc trên thế giới đều xuất hiện cả nam
thần và nữ thần. Xét trên tổng thể, trong thần thoại của Việt Nam và Hy Lạp đều
có nam thần và nữ thần. Không phải ngẫu nhiên các câu chuyện thần thoại đều
chia giới tính của các vị thần thành nam và nữ.
Họ thấy con người được chia thành hai giới tính là nam và nữ thì thần cũng vậy,
cũng có nam thần và nữ thần. Dù ở đâu trên trái đất thì con người buổi bình
minh đều cùng nhận thấy điều đó và phán ảnh lại vào thần thoại bởi thần thoại
chính là kết quả của sự tri giác thế giới xung quanh của người nguyên thủy.
Song, số lượng nam thần trong thần thoại vẫn nhiều hơn số lượng nữ thần dù là
thần thoại phương Đông hay phương Tây. Chính vì thế, trong thần thoại, nam
thần được nhắc đến nhiều hơn các vị nữ thần, đồng thời chức năng của các thần
cũng thường gắn với những công việc nặng nhọc.
Thần thoại đã phản ánh đúng thực chất cuộc sống con người ngun thủy dưới
trí tưởng tượng phong phú. Ngồi nhân vật trung tâm là các vị thần, thần thoại
còn viết về các bán thần hay còn gọi là những người anh hùng, những con người
được thần thánh hóa. Thế nhưng, so với nhân vật thần, những nhân vật này có
tần xuất xuất hiện ít hơn. Họ có thể là con của thần với người hay là những
người phàm được nhân dân thần thánh hóa do có cơng với bộ tộc.
Đây không chỉ là điểm tương đồng của thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy
Lạp mà nó cịn đặc điểm chung của thể loại thần thoại.
2.1.2. Không gian hoạt động của các vị thần.
Theo thần thoại các vị thần có mặt ở mọi nơi trên Trái Đất. Thần hoạt động chủ
yếu ở bốn khơng gian hay cịn gọi là bốn thế giới nhỏ. Các vị thần cũng sống
xung quanh con người nhưng con người không hề hay biết. Các vị thần phân
chia nhau sống và hoạt động ở các vùng khơng gian đó nhằm mục đích cai quản
thế gian một cách trật tự, quy củ.
Và để có thể cai quản một cách dễ dàng, mỗi thế giới có một vị thần đứng đầu
cai quản. Trong mỗi một thế giới lại chia ra thành nhiều vùng nhỏ hơn do các vị
thần hay bán thần giữ chức vụ nhỏ hơn cai quản. Song, để thống nhất được thế
gian vẫn cần một vị thần quyền uy, có quyền hành tối cao cai quản cả thế gian
rộng lớn . Trong thần thoại Hy Lạp, vua của các vị thần chính là Zeus.
Trước thần Zeus là thần Cronus và Uranus. Cronus là cha của thần Zeus, thần đã
nuốt tất cả các con của mình vào bụng vì sợ chúng sẽ cướp ngơi vua của cha,
giống như việc làm mà Cronus đã làm với Uranus. Để có được ngai vàng, Zeus
cùng các anh chị, Gigantes, Hecatonchires và Cyclooes đánh bại thế hệ thần già.
Phe của Cronus bại trận, Zeus lên làm vua của các vị thần, cùng các anh của
mình cai quản thế gian bằng cách rút thăm.
Tất cả các vị thần sống trên trời cao phải nghe theo lời Zeus. Thần trị vì một nơi
“tối tăm lạnh lẽo”. “Giúp việc cai quản thế giới vong hồn cho Hades cịn có
nhiều vị thần và hai vị quan tịa nổi tiếng thơng minh, chính trực” . Ngồi ra cịn
có một số vị thần sống hịa mình bên cạnh con người những con người khơng hề
hay biết.
Song, quyền lực tối cao vẫn nằm trong tay thần Zeus. Đến với thần thoại Việt
Nam, người Việt xưa cũng có suy nghĩ giống người Hy Lạp cổ đại. Ơng Trời
hay cịn gọi là Ngọc Hồng là vị thần tối cao, cai quản cả bầu trời và nhân gian.
Ngoài ra, để phụ giúp Ngọc Hoàng cai quản thế gian cịn có nhiều vị thần.
Diêm Vương là vị thần cai quản âm phủ. Nước là một vùng rất rộng lớn, một
mình thần Biển khơng thể cai quản hết vì vậy ở mỗi con sơng lại có một vị thần
nhỏ cai quản. Sự tích thần nước trong thần thoại Việt Nam bị pha trộn với thần
thoại Trung Quốc nên thần còn có một tên gọi khác là Đơng Hải Long Vương.
Đến cuối năm, các thần sẽ bay lên trời để báo cáo tình hình hạ giới của cả năm
qua.
Khơng gian hoạt động của các vị thần chính là khơng gian con người sinh sống.
Cứ nơi đâu có sinh vật tồn tại thì người ngun thủy cho rằng nơi đó có các vị
thần cai quản. Chốn âm phủ tuy khơng có con người sinh sống nhưng đó là nơi
linh hồn con người đến sau khi chết và người nguyên thủy cũng cho đó là nơi
giam hãm các vị thần mang tội lỗi bị trừng phạt. Đây chính là sự phản ánh thế
giới tự nhiên qua những câu chuyện thần thoại.
2.1.3. Cách thức xây dựng hình tượng nhân vật
2.1.3.1. Thần thường mang theo bên mình những vũ khí, con vật riêng.
Các vị thần trong thần thoại Hy Lạp và thần thoại Việt Nam, thần nào cũng có
một chức năng nhất định. Song, để làm tốt chức năng của mình, các thần thường
có những thứ vũ khí hỗ trợ hay những con vật. Những thứ này làm nên biểu
tượng riêng gắn liền với hình tượng thần. Đọc thần thoại Hy Lạp, chúng ta bắt
gặp hình tượng thần Zeus với những vũ khí hỗ trợ như: chớp do Cyclope Argès
sáng tạo, sấm do Brontès sáng tạo, sét thì do Stéropès trao cho thần Zeus. Đây
đều là những thứ vũ khí rất lợi hại thể hiện sự quyền uy và sức mạnh to lớn của
thần Zues. Hình tượng nữ thần Héra với “đơi mắt bị cái”, thể hiện quan niệm về
cái đẹp của người Hy Lạp cổ bởi họ cho rằng bị là lồi vật linh thiêng. Đơi ki
nữ thần cịn cịn cầm trong tay một quả táo – biển tượng của tình yêu, hay quả
lựu – vật tượng trung của cuộc hơn nhân chính thức, sự mắn đẻ, đông con.
Bên cạnh nữ thần cịn có một con chim cơng ln xịe đi múa, hay có thuyết
choc ho là chim cu. Nó đều biểu tượng cho sự yên ấm Hay như thần Hades
được các Cyclops rèn cho "một chiếc mũ tàng hình". "Ai đội mũ này thì địch
thủ dù có trăm mắt cũng không sao thấy được". Trong thần thoại Việt Nam cũng
vậy, các thần cũng có những vũ khí và con vật hỗ trợ như: thần Sét mang bên
mình một cái trống, một cái lưỡi búa đá. Khi nào thần làm nhiệm vụ xét xử,
thần thường đánh trống để tạo ra tiếng sấm và dùng búa để bổ vào đầu kẻ có tội,
coi đó là hình phạt thích đáng cho kẻ tội nhân; Hay nói về thần Gió, thần thoại
Việt Nam kể rằng thần Gió là vị thần có bảo bối là một thứ quạt nhiệm màu.
2.1.3.2. Mỗi vị thần có một chức năng nhất định.
Thần thoại là sản phẩm của trí tượng của con người thời mơng muội nhằm giải
thích thế giới trong điều kiện vật chất và trí tuệ cịn thấp kém. Bởi vậy mỗi vị
thần mà họ tượng tượng ra là nhằm giải thích cho một sự vật, sự việc, một hiện
tượng tự nhiên nào đó trong cuộc sống. Để giải thích các hiện tượng tự nhiên,
họ đều xây dựng các nhân vật thần có những chức năng nhất định. Như vây,
nhân vật trong thần thoại thường là nhân vật chức năng.
“Nhân vật chức năng – nhân vật có những đặc điểm, phẩm chất cố định, khơng
thay đổi từ đầu tới cuối, khơng có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt đọng của
nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh
đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trị đóng trong tác phẩm” . Trong cả thần
thoại Hy Lạp và thần thoại Việt Nam, mỗi một vị thần đều làm một nhiệm vụ
nhất định. Đó cũng chính là chức năng của thần.
Đọc thần thoại Hy Lạp, chúng ta biết tới nữ thần Héra là “vị nữ thần của hơn
nhân và gia đình”. Chức năng của thần là “bảo vệ hạnh phúc cho những cặp đơi
gắn bó với nhau bằng lễ kết hơn”. Ngồi ra, thần cịn trơng nom và chăm sóc
đến việc sinh nở con cái. Hay thần Eros – thần tình u có nhiệm vụ dùng mũi
tên bắn vào những chàng trai, cô gái để họ yêu nhau.
Chẳng ai tránh được mũi tên này, kể cả thần Zeus – người có địa vị tối cao. Hay
thần Apollon – thần của nghệ thuật và âm nhạc, chỉ huy các nàng Muses. Theo
thần thoại Việt Nam, thần Trụ Trời có chức năng phân tách trời và đất. Thần đã
đội trời lên đầu để tách đất và trời ra khỏi nhau.
Hình ảnh thần Trụ Trời đội trời lên đầu của người Việt rất giống với hình ảnh
thần Átlát trong thần thoại Hy Lạp bị thần Zeus phạt phải đỡ vòm trời và đắp
cột chống trời. Thần trong truyện thần thoại được nhân dân xây dựng để làm
một nhiệm vụ nhất định. Người xưa xây dựng nhân vật thần tập trung thể hiển
chức năng của thần để nhằm lí giải thế giới tự nhiên, ít quan tâm tới tâm lí, tính
cách của thần.
2.1.3.3. Thần có tính cách như con người.
Tuy nói nhân vật thần trong truyện thần thoại là nhân vật chức năng, thần chỉ
hành động theo chức năng nhưng thực chất những câu chuyện thần thoại không
đơn giản như vậy. Thần thoại khơng chỉ nói về thần Mưa tạo ra mưa, thần Gió
tạo ra gió mà các vị thần đều được nhân dân xây dựng là nhân vật có tính cách
như con người. Tuy là thần, nhưng thần cũng có cảm xúc riêng. Thần cũng biết
vui, biết buồn, biết giận, biết ghen tng, tương tư…
Chính nhờ điều này các câu chuyện trở nên hấp dẫn người đọc hơn. Người đọc
nhận thấy, cuộc sống của thần rất gần gũi với cuộc sống của con người.
Còn thần Cronos, điều thần lo lắng sợ bị cưới ngơi đã phản ánh được tình hình
cuộc sống của người nguyên thủy. Họ sống theo bầy đàn, bộ tộc, ln có một
người tộc trưởng lãnh đạo và câu chuyện về thần Cronos đã phản ánh sự lo sợ bị
cướp ngơi của cộng đồng người lúc bấy giờ.
Khi nói tới tính cách nóng nảy, người ta thường nghĩ ngay tới thần Zeus trong
thần thoại Hy Lạp. Thần rất hay nổi cơn thịnh nộ. Khi bực tức, thần “chỉ chau
mày vung tay một cái là mây đen ùn ùn kéo đến, sấm động, chớp giật và sét nổ
rách bầu trời, lửa cháy bừng bừng, khói mù khét lẹt”. Tính thần Zeus “nóng như
lửa. Mỗi khi nổi nóng chẳng ai dám can ngăn”. Bên cạnh đó, thần Zeus cịn có
tính hiếu sắc, hay lăng nhăng, không chung thủy với vợ, “chẳng đúng với tư
cách của một vị thần tối cao cai quản thế giới thần linh và loài người”.
“Thần Sét là một vị hung dữ, mặt mũi nanh ác, quát tháo dữ dội, mình mẩy đen
thui”. Theo truyện thần thoại kể lại, thần Sét vì tính khí nóng nảy nên có nhiều
lúc đã đánh nhầm người “làm cho người, vật chết oan”. Chính vì điều này, nhiều
lần thần Sét bị ơng Trời trị tội, phạt bắt nằm im không được cựa quậy. “Con gà
thần của Trời thỉnh thoảng lại đến mổ một cái đau điếng mà thần Sét đành phỉa
nằm im. Cho nên sau này khi được tha rồi, thần có thói quen hễ nghe thấy tiếng
gà là giật mình” . Ngoài thần Sấm, thần Diêm Vương, thần Lửa, thần Lúa…
cũng rất khó tính và hay nóng giận.
Thực chất, người ngun thủy quan niệm đem bản thân mình với các sự vật, sự
việc, hiện tượng, các lực lượng trong tự nhiên hợp thành một.
2.1.4. Thần trong mối quan hệ với con người.
a) Thần yêu thương con người, con người kính trọng các vị thần.
Theo quan niệm của người nguyên thủy, mọi thứ mà con người có đều là do
thần ban cho. Thần ban cho họ từ những giọt mưa, hạt nắng, cơn gió, thú rừng,
con cá, con tơm,… đến trí tuệ thơng minh, nhan sắc xinh đẹp và cả những
chuyện may rủi trong cuộc sống. Thế nên theo suy nghĩ của người nguyên thủy,
thần tạo ra những thứ may mắn, làm tốt hơn cuộc sống của họ thì đó là những
thần tốt, là những thần biết yêu thương con người.
Trong thần thoại Hy Lạp, vị thần yêu thương con người nhất là thần Prométhée.
Theo cuốn truyện “Thần thoại Hy Lạp” của Nguyễn Văn Khỏa biên soạn chúng
ta biết Prométhée và Épiméthée đã xin Ouranos và Gaia tạo ra các loài vật để
thế gian đông vui hơn. Những người đi vào rừng kiếm củi, săn thú, kiếm đồ ăn
đều trong trong phạm vi quản lí của thần. Vì vậy, con người rất q thần núi.
Ngoài những chi tiết kể về việc tốt thần làm cho con người khơng sợ hiểm nguy
để thể hiện tình u thương của thần đối với con người thì cịn những chi tiết
phản ánh về những câu chuyện tình yêu giữa thần với người. Thần là đấng tối
cao. Con người là kẻ phàm trần. Thần và người không được kết duyên với nhau,
nếu cố tình kết duyên tức là phạm luật trời. Chuyện kể rằng Psyché là một cô
gái xinh đẹp tuyệt trần. Tiếng tăm về nhan sắc của nàng bay xa khắp bốn
phương. Người ta tôn sùng nàng như một vị nữ thần vì thế việc con người tơn
sùng thần Vénus ngày càng giảm. Con người chỉ mong được đến để «liếc trộm»
dung nhan của Psyché. Nữ thần Vénus đã sau con trai xuống trừng phạt Psyché
thế nhưng vị thần Cupidon lại phải lòng nàng và dấu mẹ, cưới nàng về làm vợ.
Hay câu chuyện Apollon trả thù cho Asclépios, cũng nói về chuyện tình dun
của thần Apollon với một thiếu nữ phàm trần tên là Coronis. Thần Apollon đã
gặp và đem lòng yêu mến nàng ngay từ khi lần đầu gặp gỡ.
Thực chất, người nguyên thủy do không thể hiểu được lí do vì sao các hiện
tượng thiên nhiên lại có thể biến đổi lì lạ như thế.
b) Con người coi thường các vị thần, thần trừng phạt con người.
Thần là một bậc tốt cao mà con người ln sợ sệt thế nhưng vẫn có một số
người khơng sợ thần. Họ đánh thần, thách đấu với thần, coi thường tài năng, sức
mạnh của thần. Đây là một điều bất kính mà khơng vị thần nào tha thứ cho con
người.
Thần thoại hy Lạp có nhiều truyện kể về sự bất kính của con người đối với thần
như nữ thần Săn bắn Artémis, con của thần Zeus và Lesto, anh em sinh đôi với
thần Apollon đã trừng phạt Niobé. Chuyện viết rằng từ xưa tới nay chưa hề xảy
ra một cuộc trừng phạt nào tàn nhẫn, khắc nghiệt như thế. “ Đây là một cuộc tàn
sát khủng khiếp, khủng khiếp đến nỗi tới nay chưa mấy ai quên” . Chuyện xảy
ra như sau: Niobé lấy Amphion vua của thành Thèbes và sinh được mười bốn
người con, trong đó có bảy người là con trai và bảy người là con gái. Người xúc
phạm nữ thần Artémis lần này là Actéon – một anh chàng chăn chiêng. Hắn đã
có câu nói phạm thượng đến nữ thần: “Ta chẳng hiểu Artémis tài giỏi đến đâu
nhưng cứ như tài săn bắn của ta bây giờ thì Artémis dẫu có đến thi tài thì cũng
phải nhường ta vịng nguyệt quế”. Hơn nữa, trong một lần vào rừng, Actéon vơ
tình nhìn thấy nữ thần Artémis bước ra suối tắm. Nữ thần từ khuôn mặt e thẹn
chuyển sáng giận dữ và biến Actéon thành một con hươu.
Hay có câu chuyện khác về nữ thần Athéna biến Arachné thành con nhện do
dám đua tài dệt vải với thần. Hơn cả sự bất kính với thần Athéna là Arachné
dám bôi nhọ thần thánh, dám dệt cảnh sinh hoạt hàng ngày của các vị thần với
“những cảnh ghen tuông, những thú vui trần tục” của các thần. Nữ thần Athéna
xé tan miếng vải và đánh túi bụi vào mặt Arachné. Những “con người trần thế
đoản mệnh” đáng nhẽ ra phải biết tơn kính, phục tùng các vị thần, phải biết làm
đúng bổn thận là phải dâng cúng thành tâm, phải nói năng lễ phép với các thần
thì ngược lại họ lại có một số hành động coi khinh các thần, khiến các thần tức
giận và trừng phạt. Thực chất của câu chuyện nói về sự trừng phạt của thần đối
với con người là nhắm phản ánh những thói hư tật xấu của con người. Chính bởi
con người lười biếng, ngạo mạn nên mới xảy ra tại họa như thế.
Những người dân ở các cùng khác nhau cùng viết về thần thoại đã cho thấy
trong tâm niệm niệm của họ đều có sự tơn sùng các vị thần, hay nói khác đi là
đều có sự mơ hồ về các hiện tượng tự nhiên, xã hội.
Tây. Theo phong tục, tập qn, người phương Đơng có lối sống khác với người
phương Tây, người phương Đông sống định cư tại nới đồng bằng ẩm, thấp với
lối văn hóa trọng tình, gốc nơng nghiệp, còn người phương Tây sống du cư trên
đồng cỏ khơ, cao với lối văn hóa trọng động, gốc du mục khiến cho nghề nghiệp
chủ yếu của hai vùng khác nhau.
2.2. Khác biệt về nhân vật
2.2.1. Hệ thống nhân vật.
Nét khác biệt dễ nhận thấy nhất giữa thần thoại Hy Lạp và thần thoại
Việt Nam chính là phương diện hệ thống nhân vật. Trong khi người dân Hy
Lạp xây dựng một hệ thống nhân vật thần đồ sộ, khoảng hơn 2000 vị thần và
giữa các thần có mối quan hệ họ hàng phức tạp với nhau thì người Việt Nam lại
xây dựng các vị thần riêng lẻ, tách rời, khơng có mối quan hệ họ hàng, khơng
tạo thành một hệ thống.
Với số lượng nhân vật đồ sộ, thần thoại Hy Lạp cuốn hút người đọc vào
những mối quan hệ phức tạp trong truyện. Hơn thế, những câu chuyện thần
thoại này lại được xây dựng ở thời kì mẫu hệ, những câu chuyện về thần nhưng
thực chất là nói về đời sống của những con người trong bộ tộc nên mối quan hệ
họ hàng càng phức tạp. Trong cuốn sách “Thần thoại Hy Lạp” của Nguyễn Văn
Khỏa, tác giả đã phải lập nên sơ đồ chú thích mối quan hệ họ hàng trước khi kể
về thế giới Olympus và mười hai vị thần tối cao. Tác giả cũng tổng kết lại danh
sách các thần trên đỉnh Olympus sau khi hết phần này, ngồi ra cịn rất nhiều
những sơ đồ khác nhằm khái quát lại cho người đọc nội dung truyện.
Thần thoại Việt Nam mở đầu bằng câu chuyện về ông Trời và khẳng định
đây “ là vị thần tối cao ” có nhiệm vụ cai quản cả thế gian. Hết câu chuyện ấy,
tác giả tiếp tục viết về một vị thần khác như: thần Trụ Trời, thần Biển, Mười hai
bà mụ, thần Lúa… giữa các thần khơng hề có một mối quan hệ logic nào. “
Khơng hiểu sau đó rồi vị thần ấy chết hay sống, hay là thành Ngọc Hồng. Việc
đó cũng khơng thấy dân gian kể đến. Nhưng chắc rằng cũng cách khoảng thời
gian ấy không lâu một vị thần có tên là Ngọc Hồng hay ơng Trời quản lãnh cả
mọi việc trên trời dưới đất. Sau thần Trụ Trời phân khai trời đất, một số thần
khác được phân công hoặc lên trời hoặc xuống đất để tiếp tục công việc kiến
thiết ra thế giới. Nào thần làm sao, nào thần đào sông, nào thần tát biển, thần
nghiền cát nghiền sỏi, thần trồng cây…” . Người đọc không hề biết nguồn gốc
của các vị thần.
Trong khi thần thoại Hy Lạp rất cuốn hút, rất hấp dẫn, đòi hỏi người đọc
phải biết huy động trí tuệ và có sự tập trung cao độ thì thần thoại Việt Nam khá
đơn giản.
2.2.2. Cách thức xây dựng hình tượng nhân vật
a) Thần trong thần thoại Hy Lạp mang đậm bản chất con người
Nghệ thuật Hy Lạp cổ đại có truyền thống ca ngợi con người và thế giới tự
nhiên. Khi xây dựng hình tượng nhân vật, người Hy Lạp ln tìm mọi cách
nhằm thể hiện cái đẹp. Vì vậy, khi xây dựng hình tượng các vị thần trong thần
thoại Hy Lạp, tác giả dân gian rất quan tâm, chú ý đến vẻ đẹp ngoại hình của
các thần. Nếu như các thần trong thần thoại Việt Nam có hình dáng kì dị, ăn
mặc kín đáo, tế nhị, chỉ chú trọng miêu tả hành động và chức năng của thần thì
thần thoại Hy Lạp lại xây dựng hình tượng thần phơ ra những đường nét cơ thể
giống như con người. Người Hy Lạp lúc bấy giờ đã nhận thấy con người với cơ
bắp lực lưỡng, dẻo dai, bộ ngực nở nang là điều đẹp nhất và họ phô ra những
đường nét cơ thể. Trong cuốn “Thần thoại Hy Lạp” của Nguyễn Văn Khỏa, tác
giả cũng đã vẽ tranh minh họa các thần. Các thần được xây dựng dựa trên hình
dáng của con người.
Những cuộc tình của thần đều phải diễn ra một cách vụng trộm. Có lần, thần
Zeus đang vụng trộm với tình nhân thì bị nữ thần Héra phát hiện, thần Zeus đã
phải biến tình nhân của mình thành con bị.
Người Hy Lạp cổ đại đã xây dựng hình tượng các vị thần đậm chất hiện
thực. Bên cạnh những vẻ đẹp lí tưởng như trí tuệ, phép thuật,…thì các thần có
tại những nhược điểm. Trong mối quan hệ giữa các thần hay giữa thần với con
người, các thần vẫn có nhiều tính xấu…Nhân dân Hy Lạp đã xây dựng các vị
thần trở nên gần gũi, đời thường.
Các vị thần trong thần thoại Hy Lạp cũng phải chịu những bi kịch của cuộc
sống. Cả một tuổi thơ, thần Zeus phải sống trốn cha và xa mẹ.
Héra cũng là một vị thần quyền lực như Zeus. “Héra có thể dồn mây mù, nổi
giơng tố, sấm sét”. Nữ thần có chức năng bảo vệ cho hạnh phúc lứa đôi thế
nhưng hạnh phúc của bản thân mình thì nữ thần chẳng bảo vệ nổi vì thần Zeus
quá hiếu sắc và lăng nhăng.
So với các vị thần tối cao trên đỉnh Olympe, thần Thợ rèn Héphaistos có
một số phận rất hẩm hiu. Thần Héphaistos là con của thần Héra và thần Zeus. Vì
sự thách đố nhau của cha mẹ mà Héphaistos bị sinh ra thành chân thọt.
b) Thần thoại Việt Nam xây dựng những vị thần thần thánh, siêu năng
Nếu nhân vật trong truyện truyền thuyết là những con người phi thường,
nhân vật trong truyện cổ tích là những con người nhỏ bé thì nhân vật trung tâm
trong thần thoại là những lực lượng tự nhiên được thần thánh hóa thành những
nhân vật được miêu tả có thân hình to lớn, kỳ vỹ, kỳ dị.
Người dân Việt Nam xây dựng thần có thân hình kỳ vĩ. Đây là do người Việt
cổ đã mô phỏng sự to lớn của thiên nhiên thông qua việc xây dựng hình dáng
thần. Thần Trụ Trời được miêu tả “thân hình to lớn không biết bao nhiêu mà kê,
chân thần bước một bước cứ như bây giờ từ tỉnh này qua tỉnh nọ hay từ ngon
núi này sáng ngọn núi kia”. Chính bởi thần có thân mình phi phàm nên thần mới
có thể nâng đỡ cả bầu trời.
Người Việt đã xây dựng nhân vật thần dựa trên cảm xúc thẩm mĩ về cái đẹp.
Qua việc miêu tả hình dáng của thần, người Việt muốn phần nào phản ánh rằng
thiên nhiên xung quanh ta rất dữ tợn.
Thần thoại được ra đời trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại. Vì thế,
trình độ sản xuất và sự nhận thức về thế giới tự của con người cịn hạn chế.
Sơng dài, trời rộng, núi non hùng vĩ, mưa giơng, gió giật… đối với người
ngun thủy đó là những điều rất sợ và họ không biết từ đâu lại có những thứ
đó. Thiên nhiên nhiều lúc hiền hịa nhưng nhiều lúc lại giữ tợn. Họ cũng không
biết tại sao lại như vậy. Điều này đã thôi thúc họ giải thích những hiện tượng ấy.
Họ đã chọn cách lấy trí tưởng tượng để lí giải những điều bí ẩn, cho nên, trí
tưởng tượng đóng vai trị quan trọng trong việc hình thành thần thoại
Bà có thứ bảo bối là những chiếc lưỡi đỏ lòm được dấu ở trong miệng. Khi
liếm một cái, chiếc lưỡi này có thể làm cho ngàn khu rừng, hàng ngàn cánh
đồng, hàng ngàn dải núi cháy rụi và làm khô cạn hết nước ao hồ. Con người rất
sợ cơn giận dữ của thần Lửa nên chẳng ai dám trêu đùa, bất kính với thần. Như
vậy, chức năng của thần Lửa là giữ lửa. Do lửa có thể làm cháy mọi vật nên
nhân dân đã thần thánh hóa ngon lửa thành một bà già khó tính, hung giữ. Đồng
thời, ngồi thần Lửa ra thì chẳng có ai có thể có quyền giữ lửa.
Thần Mưa “ thường xuống hạ giới hút nước biển, nước sống vào bụng rồi
bay lên trời cao phun nước ra làm mưa cho thế gian có nước uống và cày cấy,
cây cỏ trên mặt đát được tốt tươi. Thần Mưa thường theo lệnh trời đi phân phát
nước ở các nơi”. Công việc của thần là một cơng việc hữu ích cho mn lồi.
CHƯƠNG 3. SO SÁNH CỐT TRUYỆN CỦA THẦN THOẠI VIỆT
NAM VÀ THẦN THOẠI HY LẠP.
3.1. Tương đồng về cốt truyện
3.1.1. Thần thoại về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc tộc người.
Mở đầu thần thoại Hy Lạp là truyện về nguồn gốc các vị thần. “ Hung dữ
như biển khơi, tối đen, lang thang, hoang dã” đã sinh ra các vị thần. Chaos đã
sinh ra năm người con. Từ năm người con này tiếp tục sinh sôi nảy nở tạo nên
một thế giới thần.
“Sau thần Trụ Trời phân khai trời đất một số thần khác được phân công lên trời
hoặc xuống đất để tiếp tục việc kiến thiết ra thế giới.” Điều này đã thể hiện khát
vọng nhận thức của con người. Không chỉ có khát vọng muốn tìm hiểu về
nguồn gốc của vũ trụ mà con người cịn có khát vọng tìm hiểu về nguồn gốc của
loài người. Cả thần thoại của người Việt và người Hy Lạp đều cho rằng con
người là do thần linh nặn ra.
Theo người Hy Lạp, con người là do hai anh em thần Prométhée nặn ra. Còn
theo thần thoại Việt Nam, con người được nặn từ bàn tay của mười hai Bà Mụ.
Ngoài ra, nhân dân hai nước cịn có thần thoại về nguồn gốc tộc người. Sự tích
một trăm trứng của người Việt nói về Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra “bọc
trăm trứng”.
Từ “bọc trăm trứng ấy nở ra trăm người con, năm mươi người con theo cha
xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên núi”. Và người con trưởng đã lên
ngôi vua cai quản đất nước. Còn truyện Nạn hồng thủy của người Hy Lạp kể về
sự ra đời của giống người đá. Do con người ngày càng xấu xa nên thần Zeus sai
thần Mưa trị tội con người.
Mưa tầm tã , ngập lụt khắp nơi khiến lồi người chỉ cịn hai người sinh sống
là Deucalion và Pyrrha. Họ đã chui vào một chiếc hịm và thốt được nạn của
thần Zeus và sau trận hồng thủy ấy, họ chính là “người mở đầu cho một dịng
giống mới của lồi người” – giống người đá. Còn hai đứa con của họ sau này là
“những vị thần thủy tổ của bốn nhóm bộ lạc Doriens, Éoliens, Ioniees và
Achéens cấu thành dân tộc Hy Lạp” . Như vậy, tuy khơng cùng mơ típ nạn hồng
thủy nhưng ở cả thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp đã cùng xây dựng
những câu chuyện để giải thích về dịng tộc của lồi người.
3.1.2. Thần thoại về hiện tượng tự nhiên.
So với người Việt, người Hy Lạp xây dựng được nhiều vị thần hơn. Thế
nhưng về căn bản trong thần thoại Việt Nam và thần thoại Hy Lạp đều có cốt
truyện viết về các thần tự nhiên. Nếu như ở Việt Nam có thần Sét, thần Lửa,
thần Biển, thần Mưa, thần Núi,… làm những công việc tương ứng với tên gọi
của các vị thần là tạo sét, giữ lửa, tạo mưa, trông núi thì ở Hy Lạp cũng có
những vị thần có chức năng như vậy nhưng có tên gọi khác và có địa vị trong
thế giới thần khác với thần thoại Việt Nam. Thần Zeus trong thần thoại Hy Lạp
cũng là vị thần tạo ra sấm chớp nhưng do quan niệm từng vùng mà người Hy
Lạp cho rằng thần Zeus mới là “vị thần tối cao cai quản thế gian”, trong khi đó
người Việt lại cho rằng ơng Trời mới là người có quyền hành cao nhất trong thế
gian này.
Do Việt Nam và Hy Lạp là hai nước ở hai phương khác nhau, khơng có sự
giao thoa văn hóa lớn nên việc văn hóa nước này ảnh hưởng tới văn hóa nước
kia là điều không thể trong thời điểm bấy giờ. Ở Hy Lạp, con người thời bấy giờ
cũng cịn mơng muội. Họ cũng muốn giải thích những hiện tượng cuộc sống
xung quanh mà họ nhìn thấy. Họ cũng cảm thấy sợ hãi trước những hiện tượng
bão lốc, động đất, sóng thần, hạn hán, sấm chớp… nên đã sùng bái các hiện
tượng thiên nhiên và gọi các hiện tượng thiên nhiên là thần.
Không chỉ người Việt cổ hay người Hy Lạp cổ mới có mong muốn giải lí những
hiện tượng tự nhiên của cuộc sống. Các dân tộc khác cũng vậy, họ cũng muốn lí
giải thế giới kì bí quanh họ. Trong truyện Nhật thực và nguyệt thực, người Hàn
đã giải thích hiện tượng tự nhiên trên cơ sở sử dụng yếu tố thần kì, quan niệm
yếu tố nhật thực và nguyệt thực là do người trời tạo ra, con người trần thế khơng
thể tác động. Từ điều này có thể khẳng định con người buổi đầu lịch sử của bất
kì quốc gia, dân tộc nào cũng có cái nhìn tơn sùng về hiện tượng tự nhiên và
đều muốn giải thích các hiện tượng tự nhiên ấy.
3.1.3. Thần thoại về lập nước.