Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

THAM QUAN DI TÍCH CHIẾN KHU Đ VÀ HỒ THUỶ ĐIỆN TRỊ AN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.97 KB, 9 trang )

CHUYẾN ĐI THỰC TẾ VỀ NGUỒN THAM QUAN
DI TÍCH CHIẾN KHU Đ VÀ HỒ THUỶ ĐIỆN TRỊ AN
“Hồ bình khơng mua được bằng tiền.
Hồ bình được đánh đổi bằng tính mạng và máu xương của một thế hệ người
Việt Nam anh hùng.”
Cho đến hôm nay, khi ngồi đây viết những dòng cảm nghĩ về chuyến thực tế về
nguồn của lớp TCCT, tơi vẫn cịn nhớ như in những lời này của bạn hướng dẫn viên
tại Khu uỷ Miền đông Nam bộ (chiến khu Đ), huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Lịch sử chiến tranh đã được khép lại, nhưng sẽ không bao giờ bị lãng quên.
Những anh hùng dân tộc đã đổ máu, xương, mồ hôi, nước mắt cho độc lập dân tộc sẽ
luôn được các thế hệ đi sau – như chúng tôi – ghi nhớ công lao to lớn. Bầu khơng khí
hồ bình chúng tơi hít thở ngày hơm nay, những yên ả của một ngày cuối tuần được
cùng nhau sinh hoạt thực tế của 50 học viên, hay tiếng động cơ gầm vang tại các cơng
trình như Hồ Thuỷ điện Trị An mà chúng tôi được ghé thăm ngày hơm ấy…Tất cả đều
khơng phải tự nhiên mà có được. Hiểu về lịch sử, để trân trọng hiện tại và cùng dựng
xây một tương lai tốt đẹp.
Đó có lẽ là bài học lớn nhất mà tôi nhận được từ chuyến về nguồn hơm ấy.
Một chuyến đi vừa có truyền thống lịch sử, vừa được học hỏi về sự phát
triển của kinh tế xã hội.
Chuyến về nguồn diễn ra vào một ngày cuối tháng 5/2022. Sau nhiều cân nhắc
và liên hệ của Ban tổ chức, điểm đến của chúng tôi là Khu ủy Miền đông Nam bộ
(Chiến khu Đ) tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai và Hồ Thuỷ điện Trị An, tỉnh Đồng
Nai. Tại buổi Gala tổng kết chương trình Thực tế về nguồn, Chúng ta vừa được ơn lại
truyền thống lịch sử cách mạng của dân tộc, vừa được tìm hiểu về một cơng trình tiêu
biểu về kinh tế - xã hội của đất nước hôm nay.” Riêng cá nhân tơi nhận thấy thêm
rằng: Đó chính là sự tiếp nối của quy luật vận động xã hội, mang đậm dấu ấn của Việt
Nam. Bởi, chẳng ai có thể hình dung nổi một đất nước, một vùng đất trải qua 21 năm
chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược, 30 năm chiến tranh cách mạng, 117 năm
chống đế quốc xâm lược, quét sạch quân xâm lược, giành lại nền độc lập, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước chỉ chưa đầy 50 năm, lại có thể vươn mình lên một
cách mạnh mẽ đến vậy. Biết bao đổi thay và biến động, đất nước ta đang ngày càng


phát triển, tiến hành cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế.
1


Ôn lại truyền thống lịch sử tại Chiến khu Đ
Từ TP.HCM xe ô tô đưa chúng tôi tới ngã ba Trị An thì rẽ trái vào con đường
TL767 và từ đây ô tô vượt hơn 30km đường rừng nữa mới đến khu di tích chiến khu
Đ. Dọc hai bên đường bạt ngàn rừng xanh núi thẳm với những cây sao, dầu đặc trưng
của rừng miền Đông Nam bộ. Đi sâu thêm chừng 3km là địa phận của Khu bảo tồn
thiên nhiên - văn hóa Đồng Nai nằm trên diện tích 97.152ha (gồm hồ Trị An, rừng
miền Đông Nam bộ của 9 tỉnh lân cận và khu di tích chiến khu Đ). Khu căn cứ chiến
khu Đ có 3 di tích lịch sử cấp quốc gia được công nhận: Địa đạo Suối Linh, Trung
ương Cục miền Nam và Khu ủy miền Đơng Nam bộ, có diện tích 39,8ha trải dài từ
địa phận huyện Tân Uyên (Bình Dương) và các xã Mã Đà, Hiếu Liêm, huyện Vĩnh
Cửu (Đồng Nai).
Trong kháng chiến chống Mỹ, vùng căn cứ chiến khu Đ là nơi thành lập đầu
tiên của các đơn vị vũ trang miền Đông và chủ lực miền, nơi đứng chân của Khu ủy
miền Đông và đặc biệt là nơi thành lập đầu tiên của Trung ương Cục miền Nam vào
năm 1961. Năm 1962, Trung ương Cục miền Nam chuyển về Tây Ninh. Trong hai
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, từ Chiến khu Đ lực lượng cách mạng tổ chức
nhiều trận tấn công vào kẻ thù giành chiến thắng vang dội. Kẻ thù ln tìm mọi cách
đánh phá nhưng thất bại. Chiến khu D trở thành căn cứ khá vững chắc đã dốc sức
cùng tồn miền Nam trong cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy của nhân dân ta Tết Mậu
Thân (1968), cũng như sau này vùng lên giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đền tưởng niệm di tích căn cứ Trung Ương Cục miền Nam (1961 -1962) được
xây dựng theo kiến trúc đình chùa Nam Bộ, mái ngói âm dương, men xanh. Với diện
tích 114m2, hơn 200 hình ảnh hiện vật gắn liền với thời kỳ Trung Ương Cục miền
Nam đứng chân. Di tích Trung Ương Cục miền Nam thời kỳ 1961-1962 được Bộ Văn
hóa thơng tin cơng nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 2004 bổ sung
vào danh mục những địa danh lịch sử quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

cứu nước của quân và dân miền Đông Nam Bộ.
Những thông tin về Chiến khu Đ và Căn cứ Trung ương cục Miền Nam
Căn cứ địa chiến khu Đ là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ để
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu tranh vũ trang cách mạng và
cũng là hậu phương của chiến tranh cách mạng. Trong chiến tranh Việt Nam, chiến
khu Đ là một trong những căn cứ địa như thế, cùng với các chiến khu Dương Minh
Châu, Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ…đã đi vào lịch sử kháng chiến
của nhân dân Nam Bộ và của cách mạng. Với vị trí chiến lược nơi “tiến có thể thủ, lùi
có thể cơng” chiến khu Đ trở thành khu vực lý tưởng để cất giấu lực lượng, vũ khí và
phát triển mọi mặt của một căn cứ địa kháng chiến. Trong kháng chiến chống thực
2


dân Pháp, chiến khu Đ được hình thành từ 5 xã: Tân Hòa, Tân Tịch, Mỹ Lộc, Thường
Lang, Lạc An của huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Từ năm 1948 chiến khu Đ mở
rộng về phía Bắc là nơi đứng chân của các cơ quan Đảng, chính quyền, đồn thể trong
suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp.Trong kháng chiến chống Mỹ, phạm
vi chiến khu Đ mở rộng trung tâm lên hướng Bắc.
Chiến khu Đ có nhiệm vụ vừa sản xuất vừa gây dựng cơ sở cách mạng trong
buôn, sóc, trong đồng bào dân tộc, vừa bảo đảm ni dưỡng cán bộ và cơ quan lãnh
đạo vừa chiến đấu, chiến khu Đ đã làm tròn nhiệm vụ giữ vững và mở rộng địa bàn
của mình. Tháng 5 năm 1951, chiến khu Đ trở thành một trong những căn cứ địa của
hệ thống căn cứ địa của Nam Bộ (chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, Chiến
khu Đồng Tháp Mười, chiến khu U Minh).
Chiến khu Đ tồn tại như biểu tượng của cách mạng, của cuộc kháng chiến, tiêu
biểu cho ý chí, sức mạnh cả về vật chất và tinh thần của quân dân miền Đông, chiến
khu Đ là cái nơi ra đời của qn giải phóng, là trung tâm chính trị, văn hóa qn sự, là
hậu phương tại chỗ cung cấp sức người sức của cho kháng chiến. Đặc biệt là đồng
bào các dân tộc lấy căn cứ địa lòng dân làm nền tảng, các lực lượng vũ trang giải
phóng ln được che chở, ni dưỡng và trưởng thành.Trong suốt hai cuộc kháng

chiến trường kỳ của dân tộc, căn cứ địa chiến khu Đ đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình trong thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến. Với bề dày lịch sử cùng
những bài học kinh nghiệm của mình, di tích vẫn cịn ngun giá trị thực tiễn hữu ích
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 23-1-1961, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Trung
ương Cục miền Nam và chỉ định Ban chấp hành gồm 10 đồng chí: Nguyễn Văn Linh,
Võ Chí Cơng, Phan Văn Đáng, Võ Văn Kiệt, Trương Chí Cương, Trần Nam Trung,
Nguyễn Đơn, Phạm Thái Bường, Phạm Văn Xơ, Trần Văn Quang, do đồng chí
Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm Bí thư. Trung ương Cục miền Nam được giao
nhiệm vụ lãnh đạo chỉ đạo toàn bộ chiến trường miền Nam từ vỹ tuyến 17 trở vào.
Sự hình thành của căn cứ Trung ương Cục miền Nam tại Chiến khu Đ tạo ra
một bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân miền
Nam. Từ vùng rừng núi Tây Ninh, cán bộ, chiến sĩ của Xứ ủy Nam bộ hành quân vượt
rừng, mở đường đến căn cứ Mã Đà thuộc vùng rừng núi Chiến khu Đ xây dựng căn
cứ, đứng chân hoạt động. Với địa thế của vùng rừng núi bạt ngàn, Mã Đà chính thức
trở thành căn cứ đầu tiên của Trung ương Cục miền Nam. Tại Mã Đà, ngày 10-101961, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất được tổ chức, đánh dấu một bước ngoặt
mới của phong trào cách mạng miền Nam chống cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ. Hội nghị đã nêu lên 10 nhiệm vụ cụ thể đối với các cấp Đảng bộ miền Nam.
3


Việc thành lập Trung ương Cục miền Nam và tổ chức Hội nghị lần thứ I đã đáp ứng
kịp thời những đòi hỏi cấp bách về chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
đang chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách mạng.
Căn cứ Trung ương Cục miền Nam là cơ quan cao nhất, có nhiệm vụ chỉ đạo và
lãnh đạo cách mạng miền Nam đặt tại Nam Bộ, là một bộ phận của Trung ương Đảng,
được Trung ương ủy nhiệm chỉ đạo tồn bộ cơng tác của Đảng ở miền Nam, lãnh đạo
quân dân miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Trước tình hình mới của cách mạng, hội nghị lần thứ III Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp ngày 23 tháng 1 năm 1961 quyết định thành lập Trung ương Cục

miền Nam thay cho Xứ ủy Nam Bộ được thành lập tháng 10 năm 1954 với nhiệm vụ
thay mặt Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở
vào tới mũi Cà Mau. Ngay sau khi thành lập Trung ương Cục đã trực tiếp đương đầu
với những mưu đồ và thủ đoạn của chiến lược “ chiến tranh đặc biệt”, “ chiến tranh
cục bộ”, “ Việt Nam hóa chiến tranh” do đế quốc Mỹ tiến hành.
Việc thành lập Trung ương Cục miền Nam và tổ chức Hội nghị lần thứ I Trung
ương Cục đã đáp ứng kịp thời những đòi hỏi cấp bách về chỉ đạo cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước đang chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang chiến tranh cách
mạng.
Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất đã đề ra nhiệm vụ cấp bách là xây dựng
các cơ quan chuyên môn giúp cấp ủy đề ra chủ trương, đường lối, theo dõi, kiểm tra
đôn đốc việc thi hành các chủ trương, chỉ đạo nghiệp vụ cho cấp dưới và đào tạo cán
bộ thuộc ngành phụ trách. Trung ương Cục miền Nam ở Đồng Nai chỉ là khởi đầu
nhưng chính là nơi xuất phát những chủ trương chỉ đạo quan trọng của Trung ương
Cục thay mặt cho Trung ương Đảng ở miền Nam nhưng có ý nghĩa chiến lược đối với
cách mạng miền Nam.
+ Những trận đánh từ năm 1963- 1965:
Từ năm 1957, ngụy quyền Sài Gòn đã cho thành lập tỉnh Phước Thành bao
trùm lên căn cứ, vì chúng ln lo sợ rằng: “Chiến khu Đ còn, Sài Gòn mất”. Để mở
rộng vùng căn cứ giải phóng TW Cục miền Nam, Bộ Chỉ huy Quân giải phóng quyết
định đánh diệt tiểu khu Phước Thành, lần đầu tiên ở miền Nam, quân giải phóng tiến
cơng làm chủ hồn tồn một tỉnh lỵ của địch. Từ chiến thắng Phước Thành, chiến
công bắt nối tới Ấp Bắc (1963), trận Bình Giã 1964-1965, trận Đồng Xồi năm 1965,
đặc biệt là trận đánh vào sân bay Biên Hòa, ngay sau khi nghe tin thắng trận, với bút
danh là Chiến sĩ, Hồ Chủ tịch đã tặng cho quân và dân Đồng Nai 4 câu thơ:
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
4



Thành đồng trống thắng lay lầu trắng
Điện Biên Mỹ chẳng phải chờ lâu”.
Chiến thắng của trận đánh thể hiện sự táo bạo, bất ngờ và sự phối hợp giữa các
lực lượng qn sự của Biên Hịa, trong đó có những chiến sỹ thầm lặng trong lòng
địch. Sân bay Biên Hòa là một trong những trận đánh gây tiếng vang lớn, đem lại
thắng lợi của quân dân Biên Hòa trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tô
thắm trang sử vàng của vùng đất:
“Miền Đông gian lao mà anh dũng
Đất thép thành đồng rạng núi sông”
Năm 1962, Trung ương Cục miền Nam được chuyển về Tây Ninh để thuận lợi
trong lãnh đạo và đảm bảo an toàn cho cơ quan đầu não.
Cuối tháng 9 năm 1975, Trung ương Đảng quyết định giải thể Trung ương cục
miền Nam là lúc cơ quan lãnh đạo này đã hoàn thành xuất sắc chức năng nhiệm vụ
của mình và cống hiến cho Tổ Quốc Việt Nam quang vinh những cơng tích to lớn
mãi mãi chói sáng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, nguyên
Thủ tướng Chính phủ khi tham dự lễ trùng tu, tơn tạo di tích này, cho rằng: "...Tuy
thời gian căn cứ Trung ương Cục miền Nam đứng chân trên địa bàn Mã Đà Chiến khu
Đ không lâu nhưng lại có ý nghĩa lịch sử rất lớn. Đây chính là nơi ra đời và thành lập
Trung ương Cục miền Nam đầu tiên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, là nơi
Trung ương Cục miền Nam quyết định xây dựng Chiến khu Đ mở rộng thành khu A,
nơi thành lập các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu của Trung ương Cục miền
Nam. Việc bảo tồn di tích là việc làm cần thiết nhằm ghi lại một cột mốc lịch sử lớn
có ý nghĩa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta
cho các thế hệ mai sau..."
Chiến tranh đi qua, máu xương đồng bào ở lại
Chiến tranh đã lùi xa những vết tích chiến tranh đang vơi dần theo năm tháng,
để tìm và giữ lại những giá trị của lịch sử là việc làm cần thiết. Hiện nay tại đền tưởng
niệm di tích Trung ương Cục miền Nam có hơn 200 hình ảnh hiện vật liên quan trực
tiếp tới căn cứ trong thời gian đứng chân cho tới khi trùng tu tôn tạo, đây là tài sản vô

giá của quốc gia, là niềm tự hào, nơi giáo dục cho các thế hệ trẻ về truyền thống cách
mạng, yêu nước của cha ông cần được lưu giữ cho các thế hệ trẻ mai sau, khẳng định
rằng di tích lịch sử cách mạng có vai trị quan trọng trong việc giáo dục truyền thống
yêu nước, lòng tự hào dân tộc đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ
trẻ.
5


Hàng năm khu di tích đã đón tiếp rất nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao cũng như
nhân dân khắp cả nước về đây tham quan và thăm viếng di tích. Đúng như lời của cố
Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nói: “Khơi phục, trùng tu TWCMN là việc làm hết
sức cần thiết, là căn cứ đầu tiên của Trung ương Cục miền Nam. Có thể nói là độc
nhất vơ nhị, có giá trị lớn trong việc giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ
hiện nay và mai sau”.
Như bao người khác đặt chân đến đây, tôi tự hỏi: có bao nhiêu người đã sống,
chiến đấu và đã hy sinh ở vùng đất này? Chiếc bia này là đại diện cho bao nhiêu máu,
xương của dân tộc ta? Nhưng tự bản thân mình, tơi biết, khơng ai có thể đong đếm
được con số và trả lời tơi. Với một địa hình rừng rộng lớn như thế và biết bao nhiêu
căn cứ của quân và dân miền Đông thì số lượng di chuyển trong từng ngày, từng giờ
khơng thể nào thống kê được, số lượng liệt sĩ hy sinh ở đây cịn nhiều nhưng vẫn
khơng tìm thấy hết. Theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, tất cả những người con
trên đất nước đều về đây tham gia chiến đấu, có những người may mắn thì cịn sống
sót sau cuộc chiến để trở về với gia đình bên cạnh những người mẹ, những người vợ
và những đứa con thơ. Cịn những người khơng may mắn thì nằm sâu nằm vĩnh viễn
giữa cánh rừng già…
Tượng đài liệt sĩ, là biểu tượng của tình đồng chí, đồng đội người chiến sĩ hy
sinh cho cuộc chiến tranh, cho độc lập dân tộc dù đã hy sinh nhưng trên khuôn mặt
không một chút gợn buồn, không một chút nuối tiếc, mà trên gương mặt đó là sự
thanh thản, mãn nguyện, nụ cười vẫn nở trên mơi và một niềm tin ở phía trước. Phía
trước anh là trận đánh, sau lưng anh là chiến thắng vẻ vang, dù đã nằm xuống nhưng

tay vẫn cầm chắc cây súng, miệng vẫn cười, đồng đội anh sẽ tiếp bước, noi gương anh
“Anh bộ đội cụ Hồ”. Với ý nghĩa nhắn nhủ những người đang sống cuộc chiến này
vẫn còn dài và đang tiếp diễn, sự nghiệp bảo vệ tổ quốc vẫn cịn, những người đang
sống khơng được buông lơi tay súng phải luôn sẵn sàng chiến đấu.
Phía sau tượng đài là những bức phù điêu của cả một quá trình trong cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam, từng mảng phù điêu nói về cảnh đưa tiễn,
vận chuyển, họp bàn, những trận đánh, cảnh chiến đấu và cảnh đoàn tụ của những
người thân sau chiến tranh. Bức phù điêu là cả một quá trình miêu tả rõ nhất các giai
đoạn của cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Tuy Trung ương Cục miền Nam đứng
chân tại CKĐ một thời gian không lâu nhưng căn cứ này đã trở thành ý chí, biểu
tượng cho lý tưởng giải phóng dân tộc, lịng quyết tâm của toàn Đảng bộ của quân
dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần làm rạng danh
“Hào khí Đồng Nai” cùng truyền thống miền Đơng gian lao mà anh dũng” thực hiện
6


trọn vẹn di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu: thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn
mười ngày nay, đó là truyền thống, đạo lý vơ cùng cao đẹp của dân tộc Việt Nam
chúng ta rất đỗi tự hào.
Bi hùng những ngôi mộ không tên tại Nghĩa trang Mã Đà
Chiến tranh đã lùi xa nhưng nỗi đau để lại là quá lớn. Trải dài trên đất nước Việt Nam
vẫn cịn hàng trăm ngàn ngơi mộ gió và những ngơi mộ chưa có tên của các anh hùng
liệt sĩ đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Người hướng dẫn viên nói với
chúng tơi rằng: “Nghĩa trang liệt sỹ Mã Đà có 70 ngơi mộ được xây lên với ý nghĩa
kỷ niệm 70 năm ngày thành lập căn cứ địa chiến khu Đ, đây là một con số rất ít,
nhưng với một diện tích rừng rộng lớn bạt ngàn như thế này làm sao chúng ta có thể
đào lên hết để tìm hài cốt của các anh, nhiều khi có đào lên thì cũng khơng cịn hài cốt
của các anh nữa, thậm chí có những gốc cây da chôn từ 5 – 10 liệt sỹ nhưng chúng ta
cũng khơng xác định được. Tuy chỉ có 70 ngơi mộ được nhìn thấy, nhưng dưới mỗi
bước chân chúng ta đi đều có thể là nơi mà hài cốt của các anh đang nằm ở đó…”

“Khơng hàng, khơng lối, không tên, không tuổi” là ấn tượng của tôi về nghĩa
trang này. Dưới những tán cây mát rượi của khu căn cứ, thi thoảng có cơn gió thoảng
qua, thổi mát cơ thể chúng tơi, thổi cả những làn khói hương từ những nén nhang
chúng tôi thắp, tôi đã rưng rưng khi lặng mình trước những hàng mộ ấy.
Các thành viên của đoàn lần lượt đi thắp những nén ngang tại những ngôi mộ
của nghĩa trang. Mỗi cây nhang được cắm xuống như nhắc nhớ rằng, chính các anh đã
viết nên những trang sử vàng chói lọi, soi đường cho thế hệ trẻ bước theo sau. Chúng
ta cần phải biết trân q cuộc sống hồ bình hiện có, sống, học tập và cơng tác hết
mình để xứng đáng với sự hy sinh mà các thế hệ cha anh đã đánh đổi cho thế hệ hơm
nay và mai sau có được cuộc sống ngày hôm nay.
Và, những vần thơ của Hoa Hải Đường mới xúc cảm làm sao:
“Hàng bia dài lòng đau xót biết bao
Man mác nhớ về một thời máu lửa
Đất nước mạnh giàu các anh khơng cịn nữa
Bước chân tôi chầm chậm chẳng muốn về
Các anh ơi!
Nơi đây cũng là quê
Hãy yên nghỉ giữa thắm màu hoa lá
Gió ngọt ngào hát ru các anh ngủ
Đêm nghĩa tình từ khách đủ muôn phương”.
7


Cơng trình tiêu biểu về kinh tế - xã hội của đất nước hôm nay
Sau khi rời chiến khu Đ lớp trung cấp lý luận chính trị C65K15 di chuyển đến
thăm nhà máy thủy điện Trị An trong vùng kinh tế Đông Nam bộ.
Nhà máy Thủy điện Trị An được xây dựng trên sơng Đồng Nai, cách thành phố
Hồ Chí Minh 65 km về phía Đơng Bắc, là cơng trình mang ý nghĩa lớn đối với xã hội,
do toàn dân cùng xây dựng và cho đến nay vẫn là công trình trọng điểm quốc gia.
Vào cuối những năm 80 của thế kỷ XX, cơng trình Thuỷ điện Trị An tại Đồng

Nai mang ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế, phục vụ nhu cầu dân sinh ở
miền Nam và đặc biệt là giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị xã hội thời kỳ
sau giải phóng. Đây cũng chính là nhiệm vụ chính trị quan trọng mà anh Quang - một
cán bộ của Nhà máy thuỷ điện Trị An – cũng là người dẫn đồn chúng tơi tham quan,
tìm hiểu về cơng trình này – đã nhấn mạnh. Giữ được sự an toàn của hồ thuỷ điện Trị
An, chính là giữ được sự an tồn cho hàng chục ngàn người dân tại các vùng lòng hồ
và lân cận, là mùa màng, là vườn tược của hàng chục ngàn hộ dân tại Đồng Nai,
TP.HCM, Long An…. Chính vì vậy, khu vực đập chính của hồ ln được canh giữ rất
cẩn trọng.
Từ đó, tơi càng thấy rõ rằng: chỉ khi ổn định chính trị, kinh tế - xã hội mới có
thể phát triển.
Cho đến nay, Thủy điện Trị An đã đảm bảo nguồn điện cho 16 tỉnh, thành phía
Nam; đảm bảo nguồn nước tưới cho hơn 20.000 ha ruộng, đất khu vực hạ lưu...
Để xây dựng cơng trình Thủy điện Trị An phải đào lắp 23 triệu m3 đất đá,
580.000 m3 bê tông, 73.000 tấn kết cấu thép và thiết bị, huy động số lượng cơng nhân
bình qn từ 8.000 - 10.000 người tại công trường, cao điểm nhất đạt đến 19.000
người (năm 1987). Những con số ấn tượng này cho thấy, việc xây dựng Thủy điện Trị
An đã huy động được các nguồn lực và sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân,
nhất là người dân Đồng Nai phải di dời nơi ở để phục vụ xây dựng cơng trình. Và đặc
biệt hơn, để hồn thành cơng trình này trong thời gian ngắn nhất, Liên Xơ đã cử
khoảng 500 chuyên gia, kỹ sư, kỹ thuật viên đến Đồng Nai hỗ trợ. Đồng thời, giúp
Việt Nam đào tạo lực lượng lao động có trình độ, có thể tiếp quản, vận hành cơng
trình sau khi đội ngũ chun gia Liên Xô rút về nước.
Sau những tháng ngày lao động cật lực của cán bộ, công nhân Việt Nam và các
chuyên gia Liên Xô, ngày 30/4/1988, tổ máy số 1 của Thủy điện Trị An chính thức
vận hành và hồ vào lưới điện quốc gia. Với cơng suất 400 MW vào thời điểm đó,
Thủy điện Trị An có cơng suất lớn thứ 2 trên cả nước.
8



Từ đó tới nay, Nhà máy Thủy điện Trị An đã vận hành an tồn, liên tục, có hiệu
quả, đảm bảo đúng phương thức vận hành, thực hiện tốt các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật
của cơng trình. Trong giai đoạn thiếu điện tiêu dùng ở mức trầm trọng, Thủy điện Trị
An ra đời có ý nghĩa kinh tế chính trị rất to lớn và tầm quan trọng quyết định đối với
hệ thống năng lượng miền Nam khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế.
Ngày nay, Thủy điện Trị An vẫn là cơng trình đa mục tiêu với các chức năng
điều tiết lũ, cấp nước, phát điện. Trong đó, vai trò điều tiết lũ đã giúp vùng hạ du bớt
bị ngập lụt; mùa khô cũng đỡ bị xâm nhập mặn, thiếu nước sản xuất - sinh hoạt, giúp
nông dân phát triển sản xuất.
Bình minh bắt đầu từ hồng hơn đã tắt
Chuyến đi của chúng tôi khép lại cũng là lúc mặt trời lặn xuống dưới mặt sông
Đồng Nai. Trên chuyến tàu chở đồn từ Đảo Ĩ – nơi đồn tổ chức Gala – tơi cứ nhìn
mãi những đợt sóng đang vỗ vào mạn tàu. Mặt hồ vẫn cứ yên ả, như sự thanh bình
trên quê hương Việt Nam xinh đẹp. Phía xa, ánh hồng hơn đang dần tàn, ánh nắng
cũng theo đó mà yếu đi.
Bất giác tơi chợt nghĩ: những con sóng đang tung bọt trắng kia cũng như thế hệ
chúng tôi ngày nay, sẽ tiếp tục vỗ về trên những dịng sơng và biển cả, viết tiếp những
trang sử hào hùng của dân tộc, về một thời đại của hồ bình, của sự phát triển. Ánh
hồng hơn kia, cũng như cuộc chiến đã đi qua sau đằng đẵng những năm dài chiến
đấu. Để rồi, một ngày mới sẽ bắt đầu, bình minh sẽ bừng lên ánh sáng của sự tươi
mới.
Để chắc chắn rằng, qua đó, chúng tơi sẽ tự biết bản thân cần phấn đấu, học tập
và làm việc tốt hơn, để xứng đáng với sự hi sinh của cha ơng ta, và để cùng góp phần
vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phát triển, phồn vinh./.

9




×