Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận: Hợp đồng tặng cho Quyền sử đụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.58 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ………………..
KHOA ………………….

TIỂU LUẬN

HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

Người thực hiện:
MSSV:
Lớp:


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài.................................................................................................................... 1

2.

Mục đích nghiên cứu đề tài...................................................................................................1

3.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu.....................................................................................2

NỘI DUNG.................................................................................................................................... 2
1. Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.............................................................2
2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.............................................................3


3. Ý nghĩa của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất................................................................5
4. Đối tượng của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và một số hạn chế........................8
5. Chủ thể của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.....................................................................8
6. Hình thức của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất...............................................................12
7. Nội dung của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.................................................................12

8. Hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.........................................................14
9. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện việc áp dụng, giải quyết tranh

chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.............................................................................17
KẾT LUẬN................................................................................................................................. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................19


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ) là một trong những hợp đồng phổ biến trong
giao dịch dân sự, là công cụ pháp lý hữu ích giúp chuyển dịch tài sản từ chủ thể này qua chủ thể
khác nhằm đảm bảo an toàn pháp lý và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong sản xuất kinh doanh
cũng như trong đời sống.
Thấy được sự quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của hợp đồng tặng cho QSDĐ, Bộ luật Dân
sự (BLDS) năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, đã quy định về hợp đồng này, từ việc xác lập,
thực hiện đến chủ thể cũng như các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, q trình đơ thị hóa diễn ra mạnh mẽ, đã làm cho việc tặng
cho QSDĐ ở ngày càng trở nên phổ biến, các quan hệ về tặng cho QSDĐ chiếm một số lượng
đáng kể trong quan hệ dân sự. Việc tặng cho QSDĐ diễn ra tương đối đa dạng, phong phú và
khơng tránh khỏi những tình huống phức tạp phát sinh theo. Trong quan hệ tặng cho QSDĐ vấn
đề vi phạm chủ yếu là do ý thức và nhận thức pháp luật của các chủ thể khi ký kết và thực hiện
hợp đồng. Sự vi phạm của các bên về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng diễn ra thường xuyên,
kéo theo đó là các tranh chấp giữa các chủ thể ngày càng tăng, nhiều vụ tranh chấp giải quyết kéo

dài, rất nhiều bản án, quyết định nhưng vẫn bị kháng nghị để giải quyết lại từ đầu tốn nhiều thời
gian, công sức. Một trong số những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, là do một số các quy
định của pháp luật, liên quan đến hợp đồng tặng cho nói chung và tặng cho QSDĐ nói riêng, mới
chỉ dừng lại ở tính ngun tắc chung, chưa chi tiết, chưa cụ thể, chưa theo kịp với sự phát triển
kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Việc xảy ra ngày càng nhiều các tranh chấp
trên một phần do các quy định của pháp luật chưa thực sự thống nhất với nhau, thiếu văn bản
hướng dẫn thi hành, giải thích cụ thể dẫn đến nhiều quan điểm và cách hiểu khác nhau, làm cho
cơng tác giải quyết của Tịa án chưa có được kết quả thống nhất.
Vì vậy, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tặng cho QSDĐ một
cách có hệ thống và tồn diện, mang tính cấp thiết và thời sự khơng chỉ góp phần tìm ra những
ngun nhân vi phạm các điều kiện tặng cho QSDĐ, mà cịn tìm ra những cách thức giải quyết
các tranh chấp về vấn đề này một cách đúng đắn. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận,
các quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự tại các Toà án, tác giả mong muốn đưa ra những đề
xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDD. Đó cũng chính là
lí do nghiên cứu của đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Một là, tập trung nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hợp đồng tặng
cho QSDĐ, về khái niệm, đặc điểm pháp lý của hợp đồng tặng cho QSDĐ, làm rõ việc xác lập,
thực hiện và điều kiện có hiệu lực của giao dịch này trong thực tiễn ý nghĩa của hợp đồng tặng
cho QSDĐ trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, cơ sở pháp lý của việc xác lập, thực
1


hiện hợp đồng tặng cho QSDĐ.
Hai là, trên cơ sở phân tích những vấn đề bất cập cịn tồn tại và thực tiễn giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tặng cho QSDĐ, qua đó xác định những bất cập trong thực tiễn để đề xuất
những giải pháp tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới nhằm nâng cao hiệu quả của việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến chế định hợp đồng tặng cho QSDĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay nhằm tạo một hành lang pháp lý vững chắc trong quan hệ hợp đồng tặng cho QSDĐ.

3. Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết dựa trên các tài liệu được sử dụng cho việc xây dựng cơ
sở lý luận về hợp đồng tặng cho QSDĐ;
Phương pháp phân tích - tổng hợp chủ yếu được sử dụng khi đề cập đến tình hình áp dụng
các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản trong thực tế. Phân tích thực trạng áp dụng
các quy định của pháp luật để rút ra những đánh giá về ưu nhược điểm của quy định đó. Từ đó
kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về tặng cho tặng cho QSDĐ
trong giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
1. Khái niệm về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Trong cuộc sống hàng ngày, con người thường xuyên phải tham gia vào nhiều mối quan hệ
xã hội khác nhau, một trong những mối quan hệ xã hội thường gặp đó chính là hợp đồng dân sự.
Thông qua hợp đồng dân sự, con người chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất, lợi ích phi vật
chất nhằm đáp ứng các yêu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng hàng ngày. Như vậy hợp đồng dân sự
là một loại giao dịch phổ biến, thông dụng và diễn ra thường xuyên trong đời sống của con
người, nó chiếm giữ một vị trí quan trọng trong việc thiết lập các quan hệ tài sản giữa người
với người và đóng một vai trò lớn trong đời sống xã hội. Bên cạnh các giao dịch thông thường
trong cuộc sống như mua bán, vay mượn, cầm cố, thế chấp tài sản thì để thỏa mãn các nhu cầu
trong sản xuất, tiêu dùng… con người còn tặng cho nhau những tài sản nhất định.
Về lý luận, khái niệm hợp đồng tặng cho QSDĐ trên được xuất phát dựa trên hai phương
diện:
Theo phương diện khách quan, các quy định về hợp đồng tặng cho QSDĐ được Nhà nước
ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ tặng cho phát sinh trong quá trình dịch chuyển QSDĐ giữa
các chủ thể với nhau. Đây chính là các quy định về điều kiện, nội dung, hình thức của hợp đồng
tặng cho QSDĐ giữa bên tặng cho và bên được tặng cho.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng tặng cho QSDĐ là một giao dịch dân sự, trong đó
các bên tự trao đổi, thỏa thuận với nhau về việc tặng cho quyền sử dụng để làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định nhằm thỏa mãn các nhu cầu sử dụng đất. Như vậy hợp đồng

2


tặng cho QSDĐ không chỉ là sự thỏa thuận để dịch chuyển QSDĐ từ bên tặng cho sang bên được
tặng cho mà nó cịn là sự thỏa thuận để làm phát sinh hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên.
Trong các hợp đồng thông dụng thường gặp hiện nay, dưới góc độ khoa học pháp lý Việt
Nam xếp tặng cho QSDĐ là một loại hợp đồng tặng cho tài sản thơng dụng, có đặc điểm riêng
biệt so với những loại hợp đồng thông dụng khác. Cụ thể, theo quy định tại Điều 465 BLDS năm
2005: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản
của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà khơng u cầu đền bù, cịn bên
được tặng cho đồng ý nhận”. Điều 457 BLDS năm 2015 hiện hành cũng quy định: “Hợp đồng
tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và
chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng
ý nhận”. Có thể thấy sau mười năm thực tiễn thi hành vẫn khơng có sự thay đổi về khái niệm hợp
đồng tặng cho tài sản giữa hai BLDS.
BLDS năm 2015 khơng có quy định riêng về hợp đồng tặng cho QSDĐ mà được quy định
chung là hợp đồng về QSDĐ. Điều 500 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng về QSDĐ là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho
thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn QSDĐ hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật
Đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với người sử dụng đất”.
Ngoài quy định nêu trên từ Điều 501 đến Điều 503 BLDS năm 2015 cũng có quy định về nội
dung, hình thức và thủ tục thực hiện hợp đồng về QSDĐ; hiệu lực của việc chuyển QSDĐ nói
chung chứ khơng có quy định riêng về hợp đồng tặng cho QSDĐ.
2. Đặc điểm của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

Hợp đồng tặng cho QSDĐ là một loại của hợp đồng tặng cho tài sản, do vậy nó cũng có
đầy đủ các đặc điểm của hợp đồng tặng cho, cụ thể:
Hợp đồng tặng cho tài sản có thể là hợp đồng thực tế, đặc điểm thực tế của hợp đồng được
thể hiện khi bên được tặng cho nhận được QSDĐ từ bên tặng cho chuyển giao theo đúng quy

định của pháp luật, nghĩa là tại thời điểm đăng ký QSDĐ ở cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì
bên được tặng cho được coi là nhận được QSDĐ từ bên tặng cho chuyển giao, khi đó hợp đồng
tặng cho mới có hiệu lực và quyền của bên được tặng cho mới phát sinh. Do đặc điểm này của
hợp đồng tặng cho mà mọi việc thỏa thuận về việc tặng cho QSDĐ đều chưa có hiệu lực khi các
bên chưa chuyển giao QSDĐ cho nhau. Đối với hợp đồng tặng cho QSDĐ thì đối tượng của hợp
đồng chính là QSDĐ - một loại tài sản đặc biệt quan trọng nên việc dịch chuyển nó thơng qua
hợp đồng tặng cho được pháp luật quy định chặt chẽ hơn nhiều so với việc tặng cho các tài sản
thơng thường khác, đó là sự quy định về chủ thể, điều kiện, hình thức, nội dung của hợp đồng
tặng cho QSDĐ. “Theo quy định của pháp luật thì khơng phải ai có QSDĐ đều có quyền tặng cho
QSDĐ cho bất cứ người nào, đồng thời khơng phải ai cũng có quyền nhận QSDĐ và khơng phải
loại đất nào cũng được tặng cho. Việc tặng cho và nhận tặng cho QSDĐ phải tuân thủ theo đúng
3


các quy định của pháp luật về đất đai, vì vậy hình thức của hợp đồng tặng cho QSDĐ phải được
lập thành văn bản, có cơng chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực tại thời
điểm đăng ký QSDĐ đai cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đây cũng chính là thời điểm mà bên
được tặng cho nhận QSDĐ và quyền của bên được tặng cho cũng phát sinh từ thời điểm này”.
Như vậy hợp đồng tặng cho QSDĐ chỉ có hiệu lực từ thời điểm đăng ký tại cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, đây chính là một nét riêng của loại hợp đồng này, cho phép ta phân biệt hợp đồng
tặng cho QSDĐ với hợp đồng tặng cho các tài sản thông thường khác. Đối với hợp đồng tặng
cho tài sản thông thường thì khi bên được tặng cho nhận tài sản thì hợp đồng có hiệu lực ngay. Ví
dụ: Hợp đồng tặng cho tài sản là tiền, kết thúc năm học mới với thành tích xuất sắc cháu M
được ơng nội là ông A tặng cho số tiền là năm triệu đồng thời điểm có hiệu lực là thời điểm
cháu M nhận được tiền. Còn đối với hợp đồng tặng cho QSDĐ thì trên thực tế nhiều khi bên tặng
cho mặc dù đã lập văn bản tặng cho QSDĐ và đã giao đất đó cho bên được tặng cho khai thác, sử
dụng nhưng chưa đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì hợp đồng tặng cho QSDĐ
này vẫn chưa có hiệu lực. Bên được tặng cho mặc dù đã nhận đất, đã khai thác sử dụng đất nhưng
theo quy định của pháp luật thì việc tặng cho này chưa hoàn thành về mặt thủ tục nên chưa làm
phát sinh quyền của bên được tặng cho và chưa được Nhà nước công nhận về QSDĐ này. Do

vậy, bên tặng cho vẫn có quyền địi lại QSDĐ đã giao.
Hợp đồng tặng cho có thể là hợp đồng ưng thuận: “Hợp đồng được coi là đã ký kết khi các
bên chuyển giao tài sản, thời điểm chuyển giao tài sản cũng đồng thời là thời điểm chấm dứt hợp
đồng, dù hai bên đã thỏa thuận cụ thể về đối tượng tặng cho (là tiền hoặc là tài sản), điều kiện và
thời gian giao tài sản tặng cho, nhưng nếu bên tặng cho chưa giao tiền hoặc tài sản cho bên được
tặng cho, thì hợp đồng tặng cho tài sản chưa được coi là xác lập. Những điều đó có nghĩa là, tặng
cho phải diễn ra trên thực tế, nếu hai bên chỉ lập hợp đồng để thỏa thuận về đối tượng tài sản tặng
cho, về quyền và nghĩa vụ của hai bên mới chỉ coi là hứa việc tặng cho. Việc chuyển giao
tài sản cùng với quyền sở hữu phải là có thực, hợp đồng được phát sinh và chấm dứt cùng thời
điểm chuyển giao tài sản tặng cho”3.
Hợp đồng tặng cho có thể là hợp đồng đơn vụ, có thể là hợp đồng song vụ. Tính chất đơn
vụ được lý giải: Trong quan hệ hợp đồng này, một bên được nhận tài sản tặng cho mà không phải
thực hiện một nghĩa vụ gì đối với bên đã tặng cho (trừ trường hợp tặng cho có điều kiện). Như
vậy, hợp đồng tặng cho tài sản khơng phải hồn tồn bao giờ cũng là đơn vụ. Đối với hợp đồng
tặng cho có điều kiện được coi là hợp đồng song vụ.
Hợp đồng tặng cho là một hợp đồng khơng có đền bù. Đặc điểm này được thể hiện ở việc,
bên tặng cho chuyển giao tài sản và quyền sở hữu cho bên được tặng cho, cịn bên được tặng
cho khơng có nghĩa vụ trả lại cho bên tặng cho bất kỳ lợi ích nào. Đối với những trường hợp
tặng cho có điều kiện buộc người được tặng cho phải thực hiện một công việc nào đó, tính
chất pháp lý của cơng việc mà người được tặng cho phải thực hiện hoàn toàn khác. Đây khơng
phải là tính chất đền bù trong giao dịch dân sự. Tất nhiên, chuyển giao tài sản và quyền sở hữu
4


mà có đền bù ngang bằng giá trị của tài sản thì trở thành mua bán tài sản, nên việc khơng có đền
bù là thuộc tính tạo nên bản chất và đặc điểm cơ bản của tặng cho tài sản.
Tuy nhiên, do QSDĐ là một quyền đặc biệt nên hợp đồng tặng cho QSDĐ cũng có các đặc
điểm của hợp đồng tặng cho tài sản nói chung và có các đặc điểm riêng, đó là:
Thứ nhất, hợp đồng tặng cho QSDĐ chỉ có tác dụng chuyển QSDĐ. Đây là điểm khác biệt
của hợp đồng tặng cho QSDĐ so với hợp đồng tặng cho thơng thường. Điểm khác biệt đó xuất

phát từ đối tượng của hợp đồng tặng cho QSDĐ bởi đối tượng tài sản tặng cho của hợp đồng chỉ
là quyền tài sản còn bản thân mảnh đất là tài sản của toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý
nên hợp đồng này không chuyển quyền sở hữu tài sản như hợp đồng tặng cho tài sản thông
thường mặc dù, về mặt lý luận, hợp đồng tặng cho được xếp vào nhóm các hợp đồng chuyển
quyền sở hữu tài sản. Chính vì lẽ đó, Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Chuyển QSDĐ là việc
chuyển giao QSDĐ từ người này sang người khác thơng qua các hình thức chuyển đổi, chuyển
nhượng, thừa kế, tặng cho QSDĐ và góp vốn bằng QSDĐ”.
Thứ hai, đối với hợp đồng tặng cho tài sản thông thường khi bên được tặng cho nhận tài
sản thì hợp đồng có hiệu lực ngay. Cịn đối với hợp đồng tặng cho QSDĐ thì trên thực tế nhiều
khi bên tặng cho mặc dù đã lập văn bản tặng cho QSDĐ và đã giao đất đó cho bên được tặng
cho khai thác, sử dụng nhưng chưa đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì hợp đồng
tặng cho QSDĐ này vẫn chưa có hiệu lực. Bên được tặng cho mặc dù đã nhận đất, đã khai thác
sử dụng đất nhưng theo quy định của pháp luật thì việc tặng cho này chưa hoàn thành về mặt thủ
tục nên chưa làm phát sinh quyền của bên được tặng cho và chưa được Nhà nước công nhận về
QSDĐ này, do vậy bên tặng cho vẫn có quyền địi lại QSDĐ đã giao.
3. Ý nghĩa của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Về mặt xã hội, trong đời sống giao lưu dân sự, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau có những quy
định pháp luật khác nhau về hợp đồng tặng cho QSDĐ, nhưng chung quy lại thì hợp đồng tặng
cho QSDĐ được hình thành và xây dựng trên cơ sở quan hệ tình cảm giữa con người với nhau.
Xuất phát từ mối quan hệ tình cảm, con người tặng cho nhau QSDĐ để khai thác, sử dụng nhằm
đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh và trong sinh hoạt hàng ngày. Việc tặng cho
QSDĐ đã nâng cao tình đồn kết và phát huy tinh thần tương thân tương ái trong nhân dân: Hợp
đồng tặng cho QSDĐ giữa con người với con người thường được xuất phát từ các mối quan hệ
tình cảm nhất định, có thể đó là mối quan hệ họ hàng, ruột thịt như ông bà, cha mẹ tặng cho con
cháu QSDĐ để ở, để sản xuất kinh doanh..., cũng có thể đó là mối quan hệ quen biết như bạn bè
hoặc những người trong cùng làng, xã tặng QSDĐ cho nhau. Việc tặng cho QSDĐ này dù được
hình thành từ bất kỳ mối quan hệ nào thì nó cũng nhằm giúp đỡ nhau trong sản xuất, kinh doanh
và trong sinh hoạt của con người, nó thể hiện tình cảm, tình đồn kết gắn bó và giúp đỡ lẫn nhau
giữa người với người trong cuộc sống. Chính vì lẽ đó mà nó có ý nghĩa xã hội sâu sắc, nâng cao
tình đồn kết và phát huy tinh thần tương thân tương ái trong nhân dân.

Nhìn từ phía Nhà nước, các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ đã góp phần
5


thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh. Việc ra đời của chế định về tặng cho QSDĐ là một
trong những bước tiến mới có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật ở nước ta nói chung, cũng như pháp luật về đất đai nói riêng, đồng thời nó có ý nghĩa
thiết thực trong thực tế cuộc sống.
Trước hết hợp đồng tặng cho QSDĐ được Nhà nước quy định và thừa nhận nên mọi người
đã coi hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là một phương tiện pháp lý quan trọng, đảm bảo
cho việc dịch chuyển QSDĐ từ người này sang người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu trong sản
xuất, kinh doanh. Chính yếu tố này đã thúc đẩy con người tặng cho nhau QSDĐ để khai thác, sử
dụng đất một cách hợp lý và có hiệu quả.
Mặt khác, khi Nhà nước cơng nhận hợp đồng tặng cho QSDĐ có hiệu lực, tức là Nhà nước
công nhận QSDĐ hợp pháp của bên được tặng cho, điều đó sẽ thúc đẩy bên được tặng cho gắn bó
hơn với đất đai mà họ được sử dụng, họ sẽ tích cực đầu tư công sức để cải tạo đất đai đồng thời
ra sức tăng gia sản xuất hoặc đẩy mạnh kinh doanh trên phần đất của mình. Như vậy với việc
quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ đã đáp ứng được nhu cầu trong sản xuất,
kinh doanh của nhân dân, nó điều phối và thúc đẩy việc sử dụng đất một cách hợp lý và có hiệu
quả, góp phần làm cho sản xuất, kinh doanh ngày càng phát triển.
Bên cạnh đó, các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ cũng là cơ sở pháp lý để
giải quyết các tranh chấp về tặng cho QSDĐ. Mặc dù Nhà nước thừa nhận người sử dụng đất hợp
pháp có quyền tặng cho người khác QSDĐ của mình nhưng phải theo đúng các quy định của
pháp luật về đất đai. Tuy nhiên trên thực tế có một số người tặng cho nhau QSDĐ nhưng không
tiến hành làm các thủ tục chuyển quyền mà vẫn giao đất cho nhau sử dụng và trong quá trình sử
dụng phát sinh các mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp về QSDĐ. Các tranh chấp này thường được
kiện ra Tòa án và cơ quan Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật về hợp đồng tặng cho
QSDĐ để giải quyết, nếu giữa hai bên tranh chấp đã làm hợp đồng và hoàn tất các thủ tục về tặng
cho QSDĐ theo đúng quy định của pháp luật thì bên được tặng cho có QSDĐ vì hợp đồng tặng
cho QSDĐ đã có hiệu lực pháp luật, ngược lại nếu hai bên chưa tiến hành hoàn tất hợp đồng tặng

cho QSDĐ theo quy định của pháp luật thì QSDĐ chưa được chuyển giao cho bên được tặng
cho nên bên được tặng cho chưa được Nhà nước công nhận QSDĐ này. Như vậy hợp đồng tặng
cho QSDĐ là cơ sở pháp lý để Tòa án căn cứ vào đó giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tặng
cho QSDĐ.
Trong việc quản lý đất đai, sự chuyển dịch QSDĐ từ người này sang người khác thông qua
hợp đồng tặng cho được pháp luật quy định tương đối chặt chẽ, với sự quy định cụ thể về điều
kiện, nội dung và hình thức của hợp đồng tặng cho QSDĐ, Nhà nước đã kiểm soát và theo dõi
được sự dịch chuyển QSDĐ của các chủ thể tặng cho nhau. Theo quy định của pháp luật thì việc
tặng cho QSDĐ giữa các chủ thể phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực
và phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thơng qua việc đăng ký này, Nhà
nước theo dõi, kiểm soát được các biến động về việc sử dụng đất, nắm được tình hình tặng cho
6


QSDĐ giữa các chủ thể trong xã hội, đồng thời phát hiện được việc trốn thuế của các chủ thể khi
chuyển nhượng đất cho nhau nhưng lại ẩn dưới dạng hợp đồng tặng cho QSDĐ, từ đó có các biện
pháp quản lý đất đai một cách chặt chẽ, khoa học.
Góp phần thúc đẩy sự phát triển sản xuất, kinh doanh: Việc ra đời của chế định về tặng
cho QSDĐ là một trong những bước tiến mới có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật ở nước ta nói chung, cũng như pháp luật về đất đai nói riêng, đồng thời
nó có ý nghĩa thiết thực trong thực tế cuộc sống. Trước hết hợp đồng tặng cho QSDĐ được Nhà
nước quy định và thừa nhận nên mọi người đã coi hợp đồng tặng cho QSDĐ là một phương tiện
pháp lý quan trọng, đảm bảo cho việc dịch chuyển QSDĐ từ người này sang người khác nhằm
đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh. Chính yếu tố này đã thúc đẩy con người tặng
cho nhau QSDĐ để khai thác, sử dụng đất một cách hợp lý và có hiệu quả. Mặt khác khi Nhà
nước cơng nhận hợp đồng tặng cho QSDĐ có hiệu lực, tức là Nhà nước công nhận QSDĐ hợp
pháp của bên được tặng cho, điều đó sẽ thúc đẩy bên được tặng cho gắn bó hơn với đất đai mà họ
được sử dụng, họ sẽ tích cực đầu tư cơng sức để cải tạo đất đai đồng thời ra sức tăng gia sản xuất
hoặc đẩy mạnh kinh doanh trên phần đất của mình. Như vậy với việc quy định của pháp luật
về hợp đồng tặng cho QSDĐ đã đáp ứng được nhu cầu trong sản xuất, kinh doanh của nhân dân,

nó điều phối và thúc đẩy việc sử dụng đất một cách hợp lý và có hiệu quả, góp phần làm cho sản
xuất, kinh doanh ngày càng phát triển.
Tạo sự thuận lợi cho Nhà nước trong việc quản lý đất đai: Sự chuyển dịch QSDĐ từ người
này sang người khác thông qua hợp đồng tặng cho được pháp luật quy định tương đối chặt chẽ,
với các quy định cụ thể về điều kiện, nội dung và hình thức của hợp đồng tặng cho QSDĐ, Nhà
nước đã kiểm soát và theo dõi được sự dịch chuyển QSDĐ của các chủ thể tặng cho nhau.
Theo quy định của pháp luật thì việc tặng cho QSDĐ giữa các chủ thể phải được lập thành văn
bản, có cơng chứng hoặc chứng thực và phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thông qua việc đăng ký này, Nhà nước theo dõi, kiểm soát được các biến động về việc sử dụng
đất, nắm được tình hình tặng cho QSDĐ giữa các chủ thể trong xã hội, đồng thời phát hiện được
việc trốn thuế của các chủ thể khi chuyển nhượng đất cho nhau nhưng lại ẩn dưới dạng hợp đồng
tặng cho QSDĐ, từ đó có các biện pháp quản lý đất đai một cách chặt chẽ, khoa học.
Là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tặng cho QSDĐ: Mặc dù Nhà nước thừa
nhận người sử dụng đất hợp pháp có quyền tặng cho người khác QSDĐ của mình nhưng phải
theo đúng các quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên trên thực tế có một số người tặng cho
nhau quyền sử dụng đất nhưng không tiến hành làm các thủ tục chuyển quyền mà vẫn giao đất
cho nhau sử dụng và trong quá trình sử dụng phát sinh các mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp về
QSDĐ. Các tranh chấp này thường được kiện ra Tòa án và cơ quan Tòa án căn cứ vào các quy
định của pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ để giải quyết, nếu giữa hai bên tranh chấp đã làm
hợp đồng và hoàn tất các thủ tục về tặng cho QSDĐ theo đúng quy định của pháp luật thì bên
được tặng cho có QSDĐ vì hợp đồng tặng cho QSDĐ đã có hiệu lực pháp luật, ngược lại nếu hai
7


bên chưa tiến hành hoàn tất hợp đồng tặng cho QSDĐ theo quy định của pháp luật thì QSDĐ
chưa được chuyển giao cho bên được tặng cho nên bên được tặng cho chưa được Nhà nước công
nhận QSDĐ này. Như vậy hợp đồng tặng cho QSDĐ là cơ sở pháp lý để Tịa án căn cứ vào đó
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng tặng cho QSDĐ.
4. Đối tượng của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và một số hạn chế
Đối với hợp đồng tặng cho QSDĐ thì đối tượng của hợp đồng chính là QSDĐ - một loại tài

sản đặc biệt quan trọng nên việc dịch chuyển nó thơng qua hợp đồng tặng cho được pháp luật
quy định chặt chẽ hơn nhiều so với việc tặng cho các tài sản thơng thường khác. Đó là sự quy
định về chủ thể, điều kiện, hình thức và nội dung của hợp đồng tặng cho QSDĐ. Theo quy định
của pháp luật thì khơng phải ai có QSDĐ đều có quyền tặng cho QSDĐ cho bất cứ người nào,
đồng thời khơng phải ai cũng có quyền nhận QSDĐ và khơng phải loại đất nào cũng được tặng
cho.
Việc tặng cho và nhận tặng cho QSDĐ phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật
về đất đai, vì vậy hình thức của hợp đồng tặng cho QSDĐ phải được lập thành văn bản, có cơng
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Thông qua việc đăng ký này, Nhà nước theo dõi,
kiểm soát được các biến động về việc sử dụng đất, nắm được tình hình tặng cho QSDĐ giữa các
chủ thể trong xã hội, đồng thời phát hiện được việc trốn thuế của các chủ thể khi chuyển nhượng
đất cho nhau nhưng lại ẩn dưới dạng hợp đồng tặng cho QSDĐ, từ đó có các biện pháp quản lý
đất đai một cách chặt chẽ, khoa học.
Ngoài các điều kiện chung để hợp đồng có hiệu lực được quy định tại Điều 117 BLDS năm
2015, hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cịn có những điều kiện khác đối với loại đối tượng
của hợp đồng này. Theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, điều kiện chung để tiến hành
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đó là:tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được quyền tặng cho
quyền sử dụng đất (cho đất) khi có đủ các điều kiện sau: Thứ nhất, có giấy chứng nhận (trừ
trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được quyền tặng
cho đất sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất và trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng
đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền tặng cho khi có điều kiện để cấp giấy chứng nhận
(chưa cần có giấy chứng nhận). Thứ hai, quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành
án. Thứ ba, đất khơng có tranh chấp. Thứ tư, cịn trong thời hạn sử dụng đất. Nếu quyền sử dụng
đất thỏa mãn các điều kiện trên thì quyền sử dụng đất đó có thể trở thành đối tượng của hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất. Thứ năm, không thuộc các trường hợp không được tặng cho quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
5. Chủ thể của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Các bên chủ thể trong hợp đồng tặng cho QSDĐ bao gồm: Bên tặng cho và bên được
tặng cho. Các chủ thể thuộc bên tặng cho hay bên được tặng cho đều có thể là các cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hay Nhà nước. Có thể thấy, Nhà nước là một chủ thể đặc biệt trong

8


các giao dịch dân sự. Nhà nước đóng vai trị bên được tặng cho trong những trường hợp việc tặng
cho mang tính chất từ thiện hoặc ủng hộ nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của tồn xã hội.
Chủ thể của tặng cho QSDĐ phải là những người có đủ điều kiện theo quy định của
pháp luật. Đồng thời, họ phải được pháp luật cho phép hoặc không cấm trong việc tham gia quan
hệ tặng cho QSDĐ, thì mới được xác lập, thực hiện tặng cho QSDĐ.
Cá nhân tham gia vào quan hệ tặng cho phụ thuộc vào năng lực hành vi dân sự của chính
bản thân mình, tức phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Đối với người chưa thành niên hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự thì việc thực hiện tặng cho tài sản phải thông qua người đại diện,
người giám hộ hợp pháp.
Trong hợp đồng tặng cho QSDĐ chỉ có các chủ sở hữu tài sản mới có thể đóng vai trị
người tặng cho. Điều này cũng dễ hiểu vì chỉ có chủ sở hữu của mình đối với tài sản mới có thể
quyết định việc từ bỏ quyền sở hữu của mình đối với tài sản và chuyển giao cho người khác. Do
đó, pháp luật hiện hành cũng quy định trường hợp bên tặng cho cố ý tặng cho tài sản khơng thuộc
sở hữu của mình mà bên được tặng cho khơng biết hoặc khơng thể biết về việc đó thì bên tặng
cho phải thanh tốn chi phí để làm tăng giá trị của tài sản cho bên được tặng cho khi chủ sở hữu
lấy lại tài sản.
Mặc khác, đối với chủ sở hữu QSDĐ, để được thực hiện quyền tặng cho thì phải thỏa mãn
các điều kiện: Có giấy chứng nhận QSDĐ; đất khơng có tranh chấp; QSDĐ khơng bị kê biên để
bảo đảm thi hành án; trong thời hạn sử dụng đất.

* Bên tặng cho
Yêu cầu trong Luật đất đai. Đất đai là tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu, vì vậy người sử dụng đất muốn đưa quyền sử dụng đất vào giao dịch thì phải
tuân theo các quy định của Luật Đất đai năm 2013. Quyền giao dịch quyền sử dụng đất nói chung
và quyền tặng cho quyền sử dụng đất nói riêng khơng phải là quyền dành cho tất cả các chủ thể
sử dụng đất. Theo đó, các chủ thể có thể được quyền tặng cho quyền sử dụng đất (bên tặng cho
quyền sử dụng đất) gồm có: hộ gia đình, cá nhân; tổ chức kinh tế; người Việt Nam định cư ở

nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Điều kiện để có quyền tặng cho quyền sử
dụng đất đối với các chủ thể khác nhau cũng có sự khác nhau về nguồn gốc đất được phép đưa
vào giao dịch, về giới hạn phạm vi được phép tặng cho … Cụ thể:
Tổ chức. Tổ chức có quyền tặng cho quyền sử dụng đất cho Nhà nước, cộng đồng dân cư
để xây dựng các cơng trình phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, trong các trường hợp sau:
+ Thứ nhất, tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê
đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê (điểm c, khoản 2 Điều 174 Luật Đất đai năm
2013).
+ Thứ hai, tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án xây dựng
kinh doanh nhà ở mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (điểm a, khoản 4 Điều
9


174 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ ba, tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư vì
mục đích lợi nhuận (khơng phải dự án nhà ở) mà được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất (điểm
4 Điều 174 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ tư, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính được Nhà nước cho thuê đất trả
tiền thuê đất một lần cho cả thời gian th mà tiền th đất đã trả khơng có nguồn gốc từ ngân
sách nhà nước và được sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (khoản
3 Điều 174 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ năm, tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc các trường
hợp tại khoản 2, tại điểm a, b, khoản 3, tại điểm a, khoản 4 Điều 176; tổ chức kinh tế nhận góp
vốn bằng quyền sử dụng đất thuộc trường hợp tại khoản 1 Điều 177, và tổ chức kinh tế được Nhà
nước cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian th để đầu tư cơng trình ngầm theo
khoản 1 Điều 178 Luật Đất đai năm 2013).
Như vậy, điểm chung của các trường hợp này là về hình thức sử dụng đất phải là đất
giao có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất trả tiền thuê một lần.
Hộ gia đình, cá nhân. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có quyền tặng cho khi quyền sử
dụng đất khơng phải là đất thuê trả tiền thuê đất hằng năm (ví dụ như đất nông nghiệp được Nhà

nước giao trong hạn mức; đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước công
nhận quyền sử dụng đất; đất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất
một lần cho cả thời gian thuê). Như vậy, khác với tổ chức thì luật quy định phải là giao đất có thu
tiền sử dụng đất mới được tặng cho, cịn hộ gia đình, cá nhân nếu sử dụng đất dưới hình thức giao
đất thì khơng phân biệt là giao đất có thu tiền hay khơng thu tiền đều được tặng cho quyền sử
dụng đất. Ngoài ra, Luật Đất đai năm 2013 cũng quy định rõ hộ gia đình, cá nhân chỉ được phép
tặng cho các đối tượng mà tổ chức được phép tặng cho, tặng cho đối với hộ gia đình, cá nhân
hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngồi thuộc đối tượng có quyền sở hữu nhà ở theo quy định
của pháp luật về nhà ở.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng
đất để thực hiện dự án đầu tư cũng có quyền tặng cho quyền sử dụng đất giống như tổ chức kinh
tế (tức là có quyền tặng cho Nhà nước, cho cộng đồng dân cư) trong các trường hợp sau đây:
+ Thứ nhất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư
(điểm b, khoản 1 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ hai, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà trả tiền thuê đất, thuê lại đất một lần
cho cả thời gian thuê, thuê lại (điểm a, khoản 2, Điều 185 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ ba, thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế
10


xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà trả tiền thuê đất, thuê lại đất một lần cho cả thời gian
thuê, thuê lại (điểm a, khoản 2 Điều 185 Luật Đất đai năm 2013).
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có
quyền tặng cho như tổ chức kinh tế trong các trường hợp sau:
+ Thứ nhất, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hình thành do nhận chuyển
nhượng cổ phần là doanh nghiệp mà bên Việt Nam chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối theo quy định
của pháp luật về doanh nghiệp (điểm b, khoản 4 Điều 183 Luật Đất đai năm 2013).
+ Thứ hai, doanh nghiệp liên doanh sử dụng đất do nhận góp vốn bằng quyền sử dụng
đất trong các trường hợp tại khoản 1, 2, 3 Điều 184 Luật Đất đai năm 2013).

+ Thứ ba, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi th đất, th lại đất trong khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế trả tiền thuê đất, thuê lại
đất một lần cho cả thời gian thuê, thuê lại (điểm a, khoản 2 Điều 185 Luật Đất đai năm 2013).
Ngoài ra, chủ thể tham gia hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất phả thỏa mãn các điều
kiện chung về chủ thể để hợp đồng có hiệu lực được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015, điều
kiện về tài sản là đối tượng của giao dịch được quy định tại khoản I Điều 188 Luật Đất đai năm
2013

* Bên được tặng cho
Hạn chế chủ thể được tặng cho. Tặng cho quyền sử dụng đất là giao dịch làm chuyển
quyền sử dụng đất từ chủ thể này sang thể khác, người nhận tặng cho quyền sử dụng đất sẽ trở
thành “người sử dụng đất” theo quy định tại khoản 10 Điều 3 và Điều 5 Đất đai năm 2013. Do
đó, pháp luật cũng quy định khá hạn chế về các chủ thể được phép nhận quyền sử dụng đất thông
qua giao dịch tặng cho.
Giới hạn trong Luật Đất đai. Theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 169 Luật Đất đai
năm 2013, “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư được nhận chuyển quyền sử dụng
đất thông qua nhận tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 174 và
điểm e, khoản 1 Điều 179 của Luật này, trừ các trường hợp không được nhận tặng cho theo Điều
191 của Luật này”
Mặt khác, từ quy định về phạm vi tặng cho của các chủ thể sử dụng đất như đã phân
tích, bên được nhận tặng cho quyền sử dụng đất có quyền nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ các
chủ thể có quyền tặng cho (đã phân tích ở trên) bao gồm: Nhà nước, cá nhân, hộ gia đình, cộng
đồng dân cư, tổ chức (trong nước) và người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng có
quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Như vậy, đối với giao dịch tặng cho quyền sử dụng đất thì
người nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật khơng có tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng như người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án
đầu tư tại Việt Nam …
Ngoài việc giới hạn phạm vi được phép tặng cho của các chủ thể sử dụng đất, Luật
11



Đất đai năm 2013 cũng quy định về các trường hợp tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện theo
Điều 191, 192 Luật Đất đai năm 2013. Ví dụ như hộ gia đình, cá nhân khơng trực tiếp sản xuất
nông nghiệp không được nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa, nhận tặng cho quyền sử
dụng đất ở, đất nơng nghiệp trong khu vực rừng phịng hộ , trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt,
phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng phịng
hộ, rừng đặc dụng đó.
6. Hình thức của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Hợp đồng tặng cho QSDĐ muốn có hiệu lực pháp luật về mặt hình thức phải thoả mãn các
điều kiện là: Hợp đồng tặng cho QSDĐ phải được lập thành văn bản; hợp đồng tặng cho QSDĐ
phải được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật; hợp đồng tặng cho QSDĐ phải
được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

7. Nội dung của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Cũng giống như các loại hợp đồng dân sự khác, các bên tham gia tặng cho có quyền thỏa
thuận về nội dung của hợp đồng các nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng; số lượng, chất
lượng; thời hạn, địa điểm, loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất
tặng cho; phương thức thực hiện hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; phương thức giải quyết tranh chấp.
Theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất được thực hiện
quyền tặng cho QSDĐ khi có các điều kiện sau đây: “a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật
này; b) Đất khơng có tranh chấp; c) QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; d) Trong
thời hạn sử dụng đất”.
Bên tặng cho là người có tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Khi tặng cho, bên tặng cho
có nghĩa vụ thơng báo về khuyết tật của tài sản tặng cho để tạo điều kiện cho bên được tặng cho
sử dụng tài sản một cách tốt nhất, đảm bảo an toàn về pháp lý và các điều kiện khác, lường được
trước những hậu quả khi sử dụng tài sản được tặng cho, tránh được những thiệt hại có thể xảy ra.
Bên tặng cho có nghĩa vụ thơng báo cho bên được tặng cho khuyết tật của tài sản tặng cho
để tại điều kiện cho bên được tặng cho sử dụng tài sản một cách tốt nhất, lường trước được

những hậu quả khi sử sụng tài sản được tặng cho, tránh được những thiệt hại có thể xảy ra. Nếu
thiệt hại xảy ra do những khuyết tặng của tài sản tặng cho gây nên mà bên tặng cho đã biết trước
nhưng không thông báo cho bên được tặng cho biết, thì khi đó bên tặng cho có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Trường hợp bên tặng cho đưa ra điều kiện trước khi giao tài sản hoặc sau khi giao tài sản thì
điều kiện đó phải có thể thực hiện được và khơng trái với pháp luật, đạo đức xã hội. Nếu điều
kiện phải thực hiện là một nghĩa vụ trước khi giao tài sản mà sau khi bên được tặng cho thực hiện
xong điều kiện đó thì bên tặng cho phải chuyển giao tài sản tặng cho. Nếu bên tặng cho không
12


giao tài sản thì phải bồi thường những chi phí công sức mà bên được tặng cho đã thực hiện hoặc
chi phí đã bỏ ra.
Vì bản chất của hợp đồng tặng cho là khơng mang tính đền bù, cho nên theo ngun tắc
chung thì bên được tặng cho khơng phải thực hiện nghĩa vụ gì cho bên kia, ngay cả khi việc tiếp
nhận tài sản tặng cho cũng không thể được coi là nghĩa vụ của bên được tặng cho, trừ trường hợp
tặng cho có điều kiện thì sau khi nhận tài sản bên được tặng cho phải có nghĩa vụ thực hiện các
điều kiện nêu ra trong hợp đồng.
Sau khi thỏa thuận xong về nội dung cơ bản của hợp đồng tặng cho, bên được tặng cho có
quyền nhận hoặc không nhận tài sản tặng cho tại bất kỳ thời điểm nào và trong mọi hồn cảnh
thậm chí khơng cần phải có lí do của việc từ chối đó.
Đối với tặng cho động sản, trước khi tặng cho, các bên dù thỏa thuận, bên được tặng cho
đã đồng ý nhận tài sản nhưng sau khi lập hợp đồng, bên được tặng
cho có quyền từ chối vì trường hợp này hợp đồng chưa có giá trị pháp lý. Trong khi thực
hiện hợp đồng, bên được tặng cho vẫn có quyền không nhận tài sản.
Trường hợp tặng cho bất động sản phải đăng ký, hợp đồng đã được công chứng, chứng
thực, các bên đã thực hiện hợp đồng, bên tặng cho đã chuyển giao tài sản mà bên tặng cho chết
và bên được tặng cho đã nhận tài sản nhưng chưa làm thủ tục trước bạ sang tên. Nếu xét về bản
chất của sự việc thì các bên đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, về gốc độ
pháp lý việc đăng ký là một thủ tục để nhà nước bảo hộ quyền sở hữu cho bên được tặng cho. Do

vậy, bên được tặng cho chưa có quyền sở hữu tài sản tặng cho vì hợp đồng chưa có hiệu lực.
Trường hợp này cần có hướng dẫn cụ thể nhằm bảo vệ bên được tặng cho theo hướng căn cứ vào
hợp đồng của các bên để thực hiện chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho, đảm bảo được ý
chí của các bên.
Đối với hợp đồng tặng cho có điều kiện thì bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho
thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Tuy nhiên, điều kiện mà
bên tặng cho đưa ra không được trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Nếu một người phải thực hiện nghĩa vụ trước khi được tặng cho mà người này đã hoàn
thành nghĩa vụ theo yêu cầu nhưng bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh
tốn nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau
khi tặng cho mà bên được tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có
quyền địi lại tài sản. Nếu người được tặng cho không thể trả lại tại sản tặng cho do tài sản đã bị
tiêu hủy, hư hỏng thì phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ: Ơng A tặng cho ông B một chiếc xe ô tô
nhằm mục đích phục vụ chuyển bệnh miễn phí cho bệnh nhân nghèo. Tuy nhiên, ông B lại sử
dụng chiếc xe này với mục đích kinh doanh cá nhân và gây tai nạn dẫn đến chiếc xe bị hư hỏng.
Khi biết được tin ông A đã yêu cầu ông B trả lại chiếc xe và yêu cầu ông B bồi thường thiệt hại.
Hợp đồng tặng cho QSDĐ là một loại hợp đồng tặng cho có điều kiện theo đó:
13


Thứ nhất, điều kiện tặng cho phải được xác định: Khoản 1 Điều 462 BLDS năm 2015 quy
định: “Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước
hoặc sau khi tặng cho”. Theo quy định này, trước hết điều kiện tặng cho được hiểu là một hoặc
nhiều nghĩa vụ, do đó điều kiện tặng cho phải thỏa mãn các yêu cầu của nghĩa vụ nói chung.
Điều 274 BLDS năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể
(sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc
giấy tờ có giá, thực hiện cơng việc hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”. Như vậy, đối tượng của nghĩa
vụ chính là tài sản và cơng việc (bao gồm cơng việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 276 BLDS năm 2015 thì “đối tượng của nghĩa vụ phải được xác

định”.
Như vậy, điều kiện tặng cho chính là một nghĩa vụ mà bên được tặng cho phải thực hiện.
Do đó, điều kiện tặng cho phải được xác định theo quy định chung của nghĩa vụ. Tính xác định
của nghĩa vụ nói chung và điều kiện tặng cho nói riêng được thể hiện thơng qua chính đối tượng
của nghĩa vụ: Nếu đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì cần phải được xác định cụ thể về loại tài
sản, số lượng tài sản. Đối với tài sản hình thành trong tương lai thì loại tài sản này cũng được xác
định qua các mô tả về chi tiết tài sản; nếu đối tượng của nghĩa vụ là cơng việc thì cần xác định
loại cơng việc, địa điểm thực hiện công việc, công việc hướng tới chủ thể nào… Tính xác
định là một yêu cầu không thể thiếu đối với điều kiện tặng cho, bởi lẽ, nếu điều kiện tặng cho
không được xác định cụ thể thì bên được tặng cho khơng có đủ cơ sở để hoàn thành điều kiện mà
bên tặng cho đưa ra.
Thứ hai, điều kiện tặng cho không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Nhằm tránh sự lạm quyền của bên tặng cho tài sản cũng như loại bỏ các thỏa thuận bất hợp
pháp, khoản 1 Điều 462 BLDS năm 2015 quy định rõ: “Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được
tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho
không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”. Điều kiện tặng cho là một
nội dung trong hợp đồng tặng cho, bởi vậy, việc ghi nhận yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015: “...c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân
sự không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội”.
Ví dụ: Trong hợp đồng tặng cho QSDĐ của ông A cho con mình là ơng C, trong hợp đồng
có điều khoản thỏa thuận rằng, ơng A sẽ tặng cho tồn bộ diện tích khu đất 500m2 tại huyện X,
tỉnh Y và tài sản gắn liền trên đất cho ông C với điều kiện ơng C phải từ mặt mẹ ruột của mình là
bà B. Có thể thấy, thỏa thuận trên là trái đạo đức xã hội, không phù hợp với quy định của pháp
luật.
8. Hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Theo quy định tại khoản 2 Điều 459 BLDS năm 2015: “Hợp đồng tặng cho bất động sản có
14


hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản khơng phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp

đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản”.
Điều luật trên quy định hiệu lực của tặng cho với thời điểm có hiệu lực khác nhau căn cứ
vào bất động sản được tặng cho “phải đăng ký quyền sở hữu” hay “không phải đăng ký quyền sở
hữu” nhưng lại không cho biết khi nào một tài sản thuộc trường hợp này hay trường hợp kia. Cụ
thể, điều luật này không cho biết nhà ở/quyền sử dụng đất thuộc trường hợp nào trong hai trường
hợp vừa nêu.
Bên cạnh đó, điều luật cũng khơng cho biết là khi hợp đồng tặng cho chưa có hiệu lực theo
quy định trên, hệ quả là gì.
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cũng là hợp đồng tặng cho bất động sản, phải được
công chứng hoặc chứng thực (khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013).
Bên cạnh thủ tục cơng chứng/chứng thực, Luật Đất đai cịn có u cầu về việc đăng
ký. Cụ thể, Luật Đất đai năm 2013, “Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và
người được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực
hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu” (khoản 1 Điều 95) và “việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào số địa
chính” (khoản 3 Điều 188).
Như vậy, Luật Đất đai và BLDS có điểm thống nhất là để việc đăng ký ảnh hưởng tới
hiệu lực của tặng cho bất động sản/quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, cả hai văn bản này vẫn chưa rõ
đăng ký ở đây là xác lập quyền hay đối kháng quyền, chưa làm rõ đó là hiệu lực giữa các bên hay
trong mối quan hệ với người thứ ba. Trong thực tiễn như trình bày dưới đây, Tịa án có xu hướng
cho phép bên tặng cho được quyền hủy bỏ tặng cho để nhận lại tài sản.
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất chấm dứt
Cũng giống như các loại hợp đồng dân sự thông dụng, theo quy định tại Điều 422 BLDS
năm 2015 hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây: “1. Hợp đồng đã được hoàn
thành; 2. Theo thỏa thuận của các bên; 3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết
hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; 4. Hợp
đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện; 5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối
tượng của hợp đồng khơng cịn; 6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của BLDS
năm 2015; Trường hợp khác do luật quy định”.

Theo nguyên tắc chung, các bên có quyền tự thỏa thuận xác lập hợp đồng cũng như tự thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng. Trong một số trường hợp, mặc dù các nghĩa vụ của hợp đồng chưa
được thực hiện xong, nhưng do nhu cầu khách quan thay đổi, các bên vẫn có thể thỏa thuận lại
với nhau chấm dứt hợp đồng ngay mà không cần phải chờ đến khi thực hiện xong nghĩa vụ. Khi
đó, theo thỏa thuận các bên khơng phải thực hiện các nghĩa vụ cịn lại8.
15


Hợp đồng tặng cho chấm dứt khi bên được tặng cho nhận tài sản. Trường hợp bên được
tặng cho phải thực hiện điều kiện sau khi được tặng cho mà khơng thực hiện điều kiện đó, thì
phải hồn trả tài sản tặng cho mà mình đã nhận. Thời điểm chấm dứt hợp đồng tặng cho trong
trường hợp này được xác định khi bên được tặng cho thực hiện xong điều kiện của hợp đồng.
Đối với tặng cho bất động sản mà hợp đồng đã được lập thành văn bản có chứng thực,
chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tài sản chưa được chuyển giao mà bên tặng
cho chết thì hợp đồng chấm dứt, bởi vì chỉ có bên tặng cho mới có quyền chuyển giao tài sản.
Hợp đồng tặng cho QSDĐ cũng giống như các hợp đồng dân sự thông dụng khác, hợp đồng
phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: Giao dịch dân sự có hiệu lực
sau khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi
dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hồn
tồn tự nguyện; c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
khơng trái đạo đức xã hội. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Về nguyên tắc, khi giao kết hợp đồng mà vi phạm các điều kiện trên sẽ dẫn đến hợp
đồng vô hiệu. Hay nói các khác, những giao dịch dân sự đó bị coi như khơng được xác lập
và vì vậy nó khơng thể phát sinh hiệu lực pháp lý, khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ giữa các bên.
Căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự có thể phân loại các trường hợp
hợp đồng vô hiệu: Hợp đồng vô hiệu khi vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội; Hợp
đồng vô hiệu do giả tạo; Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự xác lập, thực hiện;
Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn; Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép. Hợp
đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; Hợp đồng vơ
hiệu do khơng tn thủ quy định về hình thức.
Hậu quả pháp lý của hợp đồng tặng cho QSDĐ vô hiệu: Về phương diện lý luận, một giao
dịch dân sự có thể vô hiệu tuyệt đối hoặc vô hiệu từng phần. Cho dù một giao dịch dân sự vô hiệu
tuyệt đối hay vơ hiệu từng phần nhưng khi tịa án đã ra quyết định tun bố là vơ hiệu thì chúng
đều có hậu quả pháp lý như nhau. Đó là:
Thứ nhất, giao dịch dân sự đó khơng làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền dân sự của
các chủ thể tham gia xác lập giao dịch dân sự kể từ thời điểm xác lập giao dịch dân sự;
Thứ hai, khi giao dịch dân sự vơ hiệu thì các bên khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả
cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp khơng thể hồn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành
tiền để hồn trả;
16


Thứ ba, bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa lợi, lợi tức
đó;
Thứ tư, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Nếu các bên đều có lỗi thì mỗi bên phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của
mình.
9. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện việc áp dụng, giải quyết tranh
chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án ở nước ta hiện nay nêu trên cho thấy, để giải quyết
một cách triệt để, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể của quan hệ tặng cho tài sản có hiệu quả thì
cần có các giải pháp đồng bộ, kịp thời của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm hoàn hiện việc
thực hiện cũng như áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu quả
và phù hợp với thực tiễn nhất.
Cần có các quy định cụ thể hơn về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho QSDĐ hay
thời điểm xác lập QSDĐ của bên được tặng cho QSDĐ; đảm bảo tính thống nhất về vấn đề này

trong các văn bản pháp luật. Theo quy định tại khoản 2 Điều 459 BLDS năm 2015 quy định:
“Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu; nếu bất
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm
chuyển giao tài sản”. Khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014 đã chỉ ra rất rõ, “thời điểm hợp
đồng tặng cho được công chứng, chứng thực chính là thời điểm hợp đồng tặng cho có hiệu lực
pháp luật”. Quy định này, bộc lộ sự không phù hợp về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng
cho nhà ở giữa BLDS năm 2015 và Luật Nhà ở 2014. Có thể thấy việc hiểu và vận dụng các quy
định này cịn gặp nhiều khó khăn vướng mắc.
Cần có các quy định hướng dẫn về điều kiện tặng cho theo hướng trường hợp phải thực hiện
nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền địi
lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đồng thời, nếu bên được tặng cho đã thực hiện một
phần hoặc thực hiện khơng đầy đủ điều kiện thì bên tặng cho có quyền địi lại tài sản tặng cho
nhưng phải bồi thường thiệt hại cho bên được tặng cho.
Cần ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn để các cơ quan quản lý nhà nước phân biệt
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng QSDĐ, xác định mức độ lỗi của các bên để có những ứng xử
phù hợp, bảo đảm quyền lợi của các bên khi phát sinh tranh chấp.
Thực tế khi các bên xảy ra tranh chấp, khởi kiện ra Tịa thì trước khi đưa vụ án ra xét xử
thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ tiến hành thủ tục hòa giải cho các đương sự nếu
hịa giải khơng thành mới đưa vụ án ra xét xử hoặc nên giao việc hòa giải trong tranh chấp đất đai
cho trung tâm hòa giải - đối thoại tại Tòa án. Mặc dù hiện nay các trung tâm đối thoại, hịa giải
mới chỉ thí điểm nhưng qua sơ kết đã đem lại những hiệu quả thiết thực. Đặc biệt, các hòa giải
viên, đối thoại viên được ưu tiên lựa chọn từ các thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, chuyên
17


viên pháp lý... đã về hưu. Ngoài ra, các luật sư, luật gia, hội thẩm nhân dân hoặc những người có
kiến thức pháp luật, có kinh nghiệm trong hịa giải, đối thoại, có uy tín trong cộng đồng… nên
việc hịa giải có thể sẽ mang lại hiệu quả cao.
Áp dụng án lệ chính là phương thức hiệu quả để khắc phục các khiếm khuyết của pháp luật,
đảm bảo việc áp dụng thống nhất trong xét xử, tạo tính ổn định, minh bạch và tiên liệu được

trong các phán quyết của Tịa án, qua đó có tác dụng hướng dẫn các hành vi ứng xử không chỉ
đối với các bên trong vụ án, mà còn đối với cộng đồng xã hội. Đặc biệt, cần bổ sung kịp thời các
án lệ để làm nguồn áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp đối với trường hợp tặng cho
QSDĐ giữa trong quan hệ gia đình vì đây là trường hợp diễn ra phổ biến, phong phú, đa dạng
trong khi các quy định của pháp luật hiện nay chưa có quy định.
Cần xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành pháp luật có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
chun mơn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật tốt phục vụ công
tác quản lý, xét xử; đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về tặng cho QSDĐ của các
cơ quan, tổ chức, đoàn thể; nâng cao sự hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của
mọi công dân một cách toàn diện.
KẾT LUẬN
Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án ở nước ta hiện nay nêu trên cho thấy, để giải quyết
một cách triệt để, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể của quan hệ tặng cho tài sản có hiệu quả thì
cần có các giải pháp đồng bộ, kịp thời của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm hoàn hiện việc
thực hiện cũng như áp dụng các quy định pháp luật về hợp đồng tặng cho tài sản có hiệu quả
và phù hợp với thực tiễn nhất. Cần có các quy định hướng dẫn về điều kiện tặng cho theo hướng
trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho khơng thực hiện thì
bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đồng thời, nếu bên được
tặng cho đã thực hiện một phần hoặc thực hiện không đầy đủ điều kiện thì bên tặng cho có quyền
địi lại tài sản tặng cho nhưng phải bồi thường thiệt hại cho bên được tặng cho.
Cần ban hành các nghị định, thông tư hướng dẫn để các cơ quan quản lý nhà nước phân biệt
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng QSDĐ, xác định mức độ lỗi của các bên để có những ứng xử
phù hợp, bảo đảm quyền lợi của các bên khi phát sinh tranh chấp.
Cần xây dựng đội ngũ cán bộ thi hành pháp luật có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
chun mơn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật tốt phục vụ công
tác quản lý, xét xử; đổi mới công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật về tặng cho QSDĐ của các
cơ quan, tổ chức, đoàn thể; nâng cao sự hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của
mọi cơng dân một cách tồn diện.
Qua phân tích thực tiễn, có thể thấy tặng cho quyền sử dụng đất là một dạng giao dịch dân
sự được thực hiện thường xuyên, phổ biến trong thực tiễn và được hình thành chủ yếu trên cơ sở

tình cảm, tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống xã hội. Sự thông dụng
18


của dạng hợp đồng này trong giao lưu dân sự vừa đáp ứng được nhu cầu trong sinh hoạt, sản xuất
kinh doanh của con người vừa đảm bảo được tính xã hội trong việc điều chỉnh nhu cầu về quyền
sử dụng đất. Mặc dù Luật Đất đai năm 2013 và BLDS năm 2015 đã có những quy định tương đối
chặt chẽ và cụ thể nhưng hiện nay pháp luật vẫn cịn tồn tại một vài vấn đề chưa hồn thiện như
đã trình bày. vì vậy Nhà nước cần xem xét thực trạng pháp luật và thực tiễn cuộc sống nhằm ban
hành văn bản pháp luật điều chỉnh một cách kịp thời, toàn diện các vấn đề về tặng cho tài sản
nhất là tặng cho QSDĐ nhằm đảm bảo lợi ích của các bên tham gia vào quan hệ tặng cho tài sản
sao cho vừa đảm bảo tính tự nguyện ý chí vừa đảm bảo được tính đúng pháp luật, hạn chế tranh
chấp phát sinh giữa các bên.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban
hành ngày 24 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017.
2. Luật Đất đai số 45/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
ngày 29 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 01/07/2014.
3. Luật Nhà ở số 65/2014/QH13 được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành
ngày 25 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/07/2015.
4. PGS.TS Đỗ Văn Đại, “Chương 12: Hợp đồng tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất”, Giao dịch dân sự
về bất động sản (tập 1), NXB Hồng Đức, TPHCM, 2021;
5.

Ths.Ncs Nguyễn Trương Tín, “Slide bài giảng mơn Giao dịch dân sự về bất động sản”, 2021.

6.

Bùi Khắc Duy (2019), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tặng cho quyền sử


dụng đất theo pháp luật Việt Nam”, từ />truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2021.

19



×