Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.53 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Nói đến vai trị to lớn của đất đai đối với kinh tế Mác đã khái quát:
“Đất là mẹ, sức lao động tà cha sản sinh ra mọi của cải vật chất ". Đúng như
vậy đất đai là một tài sản đặc biệt và cực kỳ quan trọng của mỗi quốc gia. Nó
khơng phải là sản phẩm từ lao động của con người mà là tặng phẩm vô giá
của thiên nhiên trao cho loài người. Đất đai là yếu tố cần thiết và không thể
thiếu được của mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội đất đai là tư liệu
sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sông".
Lịch sử phát triển nơng, lâm nghiệp của lồi người cũng là lịch sử khai thác
và bản vệ đất đai ngày càng có hiệu quả.
Đất đai là địa điểm để đặt máy móc, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng, tạo
chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp.
Đối với đời sống, đất là nơi trên đó con người xây dựng nhà cửa, các
cơng trình văn hố, là nơi phân bố các ngành kinh tế quốc dân, các khu dân
cư... Đất đai là có để phát triển các hệ sinh thái, yếu tố hàng đầu của mơi
trường sống, là nơi duy trì sự sống của con người và sinh vật.
Dưới góc độ chính trị - Pháp lý, đất đai là một bộ phận không thể tách
rời của lãnh thổ quốc gia gắn liền với chủ quyền quốc gia. Đất đai được coi là
dấu hiệu cơ bản nhất của một quốc gia, một dân tộc, một cộng đồng.
Đất đai là một trong những yếu tố cấu thành nên lãnh thổ quốc gia. Cho
nên, xâm phạm đất đai là xâm phạm lãnh thổ và chủ quyền quốc gia. Trải qua
4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, có được vốn đất như ngày nay là do
nhân dân ta đã dũng cảm và quật cường chiến đấu chống nhiều kẻ thù ngoại
xâm và đấu tranh với thiên nhiên. Vốn đất đai là xương máu, là công sức lao
động của hàng trăm thế hệ người Việt Nam trong dựng nước và giữ nước.
Việt Nam với diện tích tự nhiên khoảng 331.000 km2 (33.104.200 ha)
và dân số trên 80 triệu người, khoảng 20% diện tích đất đai được sử dụng vào

1



mục đích nơng nghiệp. So với thế giới thì Việt nam là một trong những nước
có số bình qn ruộng đất vào loại thấp nhất.
Chính sách đất đai ln ln là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta, đặc biệt là vào những giai đoạn chuyển biến có tính chất lịch sử
vì nó khơng chỉ liên quan đến lợi ích của hàng chục triệu người, nhất là đối
với nơng dân mà cịn là một khâu then chốt trong điều hành vĩ mô của Nhà
nước với mục tiêu ổn định và phát triển.
Thấy rõ tầm quan trọng của đất đai cho nên ngay sau khi giành được
chính quyền năm 1945 Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến vấn đề
liên quan đến đất đai. Luật pháp của Việt Nam đã quy định “Đất đai thuộc sở
hộ toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý". Nhà nước chỉ giao đất cho các
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên cơ sở các quy định của Luật đất đai ban
hành ngày 14 tháng 7 năm 1993 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Đất đai ngày 2 tháng 12 năm 1998.
Thừa kể quyền sử dụng đất là một quyền hiến định được ghi nhận trong
Hiến pháp và được cụ thể hoá trong Bộ luật Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, do
trình độ người dân chưa cao và do nhận thức pháp luật của những người làm
công tác pháp luật chưa đầy đủ, thống nhất, do đó việc thực hiện quyền này
cịn chưa chính xác dẫn đến các tranh chấp về thừa kế đất đai kéo dài ảnh
hưởng đến cuộc sống của nhân dân cũng như đến truyền thống đạo lý tết đẹp
của người dân Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện.nay, đất đai đang là một trong những vấn đề hết
sức nhạy cảm, các tranh chấp về đất đai có xu hướng gia tăng, nhất là các
tranh chấp đất đai nhất về thừa kế, đòi lại đất cho thuê, cho ở nhờ... kéo dài
hàng chục năm trời. Sở dĩ có hiện tượng trên là vì đất đai có liên quan đến
nhiều chính sách cải tạo của nhà nước do lịch sử để lại mà cán bộ quản lý đất
đai không biết hết, không làm đúng chức trách nhiệm vụ được giao như gian
đất trái thẩm quyền, vượt thẩm quyền, việc áp dụng cịn cứng nhắc, khơng
thấu tình, đạt lý; nghiêm trọng hơn là một số cán bộ lợi dụng chức vụ quyền
2



hạn, thiếu tinh thần. trách nhiệm trong việc giải quyết tranh chấp đất đai hoặc
cấp đất gây những hậu quả nghiêm trọng làm mất lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
Để quản lý đất đai được tốt, sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiệu quả
cao địi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi tổ chức, mỗi đơn vị và
từng cá nhân phải thực hiện nghiêm chỉnh luật Dân sự, Luật Đất đai, các văn
bản hướng dẫn thi hành và điều quan trọng là cán bộ làm công tác liên quan
đến đất đai phải nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách đất đai của Đảng
cũng như các quy định của pháp luật.
Là học viên của lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương
trình chun viên chính, tơi chọn câu chuyện "Giải quyết tranh chấp thừa
kế quyền sử dụng đất" với mục đích trao đổi, học hỏi, tích luỹ kiến thức,
kinh nghiệm trong công tác quản lý Nhà nước cho bản thân, hy vọng tình
huống này sẽ là nguồn tài liệu cho tham khảo để xem xét, giải quyết các tình
huống tương tự khác.

3


I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Hồn cảnh xuất hiện tình huống:
Năm 1956, ông Nguyễn Văn M và bà Trần Thị H cưới nhau và san 10
năm chung sống (1966) họ đã có với nhau 3 người con (2 trai, 1 gái) đó là:
- Nguyễn Quang Hà
- Nguyễn Quốc Hải
- Nguyễn Minh Hồng
Ông bà và các con cùng sinh sống trong một gia đình tại thon K, xã T,
huyện A, tỉnh H.

Năm 1977, bà Trần Thị H lâm bệnh hiểm nghèo và qua đời.
Trong số 3 người con của ông M thì có anh Nguyễn Quốc Hải đi lao
động học tập ở Đức từ năm 1991.
Thực hiện Nghị định 64/CP và Nghị định số 02/CP ngày 15 tháng 01
năm 1994 của Chính phủ về việc giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức cá nhân
và hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, gia đình ông
M đã được UBND xã T làm thủ tục giao quyền sử dụng 480m2 đất vườn và
thổ cư, 2.700m2 đất trồng lúa và 45.000m2 đất đồi rừng để trồng cây ăn quả
và cây lâm nghiệp.
Tháng 1 năm 2002 do tuổi cao, sức yếu ông M lâm bệnh nặng và qua
đời có để lại di chúc, trong di chúc ơng M ghi rõ: "Nay để lại cho anh Hà Văn
Thao 1.200m2 đất trồng lúa và 6000m2 đất lâm nghiệp" trong tổng số đất mà
UBND xã T giao cho ông M khi bà còn sống theo Nghị định 64/CP và Nghị
định 02/CP ngày 15/11/9994 của Chính phủ.
Được biết anh Hà Văn Thao là con trai của người bạn thân với ông M
sống cùng thôn K, xã T (biết rằng theo Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP
thì anh Thao cũng được UBND xã T cấp đủ diện tích trồng lúa và đất lâm
nghiệp theo tiêu chuẩn đã quy định). Ngoài ra trong di chúc để lại ơng P
khơng đề cập gì đến việc phân chia tài sản thừa kế cho các con của ông.

4


Tháng 5 năm 2002, sau khi ông M mất được 4 tháng thì anh Nguyễn
Quang Hà là con trai trưởng của ông M tự ý đứng ra phân chia tài sản, đất đai
không theo di chúc của ông M để lại, cụ thể là:
- Phân chia đều 2.700m2 đất trồng lúa và 45.000m2 đất đồi rừng để
trồng cây ăn quả và cây lâm nghiệp cho 2 anh em là Nguyễn Quang Hà và
Nguyễn Minh Hồng; anh Nguyễn Quốc Hải không được chia đất với lý do là
đi nước ngồi, khơng có hộ khẩu ở nhà.

- Riêng đối với diện tích đất vườn 480m2, vì đây là diện tích đất có cả
đất thổ cư, do đó anh Hà đã phân chia đều cho cả 3 anh em (Nguyễn Quang
Hà, Nguyễn Quốc Hải và Nguyễn Minh Hồng) mỗi người 160m2.
Đối với anh Hà Văn Thao thì anh Nguyễn Quang Hà khơng chia đất
cho anh này (theo di chúc của ông P để lại thì anh Thao được chia) với lý do:
Anh Thao khơng phải là con trong gia đình ơng M.
Tháng 10 năm 2002, anh Nguyễn Quốc Hải từ nước ngoài trở về thăm
q hương (anh Hải khơng có ý định ở lại quê hương sinh sống), sau khi nghe
người anh cả là Nguyễn Quang Hà trình bày lại việc phân chia lài sản, đất đai
trong gia đình, anh Hải đã khơng đồng tình với cách phân chia của anh Hà và
cũng từ đó anh em nảy sinh mâu thuẫn, sau nhiều lần được chính quyền địa
phương hồ giải, nhưng tình hình vẫn khơng được cải thiện mà có phần xấu hơn.
2. Mơ tả tình huống.
Ngày 15 tháng 11 năm 2002, anh Hải đã có đơn khiếu nại lên UBND
xã T đề nghị chính quyền giải quyết cho anh được 1/3 diện tích đất trồng lúa
và đất lâm nghiệp mà UBND xã đã giao cho gia đình ơng M theo Nghị định
64/CP và Nghị định 02/CP.
Vào thời gian này cùng với đơn khiếu nại của anh Nguyễn Quốc Hải thì
anh Hà Văn Thao cũng gửi đơn lên UBND xã T đòi được hưởng 1.200m2 đất
trồng lúa và 6000m2 đất lâm nghiệp theo như di chúc của ông M để lại.
Khi nhận được đơn khiếu nại của của 2 công dân Nguyễn Quốc Hải và
Hà Văn Thao, UBND xã T đã tiến hành giải quyết như sau:
5


- Đối với anh Nguyễn Quốc Hải: UBND xã đã bác đơn khiếu nại về
việc địi hưởng 1/3 diện tích đất trồng lúa và đất lâm nghiệp vì các lý do sau:
Thứ nhất: Anh Hải đi lao động học tập ở nước ngồi, khơng có hộ khẩu
ở địa phương do vậy khơng có quyền được sử dụng diện tích đất mà địa
phương giao cho gia đình ơng M theo Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP.

Thứ hai: Đối với anh Hà Văn Thao: UBND xã đã giải quyết cho được
hưởng 1.200m2 đất trồng lúa và 6000m2 đất lâm nghiệp theo di chúc của ông
M để lại.
Khi UBND xã T giải quyết như vậy thì mối quan hệ giữa 3 anh em
trong gia đình lại trở lên căng thẳng hơn. Đồng thời mâu thuẫn giữa 2 gia đình
anh Hà và anh Thao ngày càng trở lên căng thẳng, tình cảm hàng xóm thấy
khó có thể hàn gắn như trước được với sự việc này phần lớn nhân dân ở thôn
K xã T đã có quan điểm đồng tình ủng hộ đối với những quyết định của
UBND xã T, tuy nhiên cũng có một số ít khơng đồng tình với quyết định của
UBND xã với các lý do: UBND xã T đã giải quyết vụ việc chưa thấu tình, đạt
lý và chưa đúng thẩm quyền... để vụ việc giải quyết vừa đúng pháp luật ổn
thoả, vừa giữ được tình cảm anh em trong gia đình và mối quan hệ hàng xóm,
láng giềng, thì từ những vấn đề đặt ra, chúng ta cần tìm ra một phương án xử
lý cho phù hợp và đúng pháp luật hiện tại.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu phân tích tình huống:
Khi phân tích tình huống nêu trên chúng ta cần làm rõ một số vấn
đề sau:
Vấn đề thứ nhất: Nội dung di chúc mà ông M lập phân chia thừa kế
như vậy có đúng quy định của pháp luật về thừa kế khơng? Có hợp tình, hợp
lý không?
Vấn đề thứ hai: UBND xã T đứng ra giải quyết đơn khiếu nại của công
dân Nguyễn Quốc Hải và Hà Văn Thao có đúng thẩm quyền được pháp luật
quy định không?
6


2. Cơ sở lý luận:
Muốn giải quyết tranh chấp quyền thừa kế về đất đai được tốt đòi hỏi
những người có trách nhiệm phải nắm bắt đầy đủ, kịp thời các quy định của

pháp luật Dân sự về thừa kế cũng như các quy định của Luật Đất đai và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Luật Đất đai của nước ta ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993 và mới
đây Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003 vẫn khẳng định: Đất đai là một
loại tài sản có giá trị đặc biệt và đất đai thuộc sở hữu tồn dân do nhà nước
thống nhất quản lý. Và tính đặc biệt của sở hữu nhà nước đối với đất đai thể
hiện ở những điểm sau:
+ Trước hết đất đai là một tài ngun q giá, nó khơng phải là tài sản
thông thường mà là một tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất và đời sống.
Dù rằng Nhà nước xác định giá các loại đất, ban hành khung giá các loại đất
để Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quy định
bảng giá đất nhưng khơng vì thế mà có quan niệm coi đất đai như một hàng
hố thơng thường. Đất đai là một loại hàng hoá đặc biệt, được lưu chuyển một
cách đặc biệt.
+ Nhà nước là chủ sở hữu, vì thế có trọn vẹn các quyền năng chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đất đai mà các chủ thể khác tham gia vào quan hệ
pháp luật đất đai khơng thể có đầy đủ các quyền đó được.
+Tồn bộ đất đai dù trên đất liền hay hải đảo, dù do bất cứ ai sử dụng
vào mục đích nào thì đất đó vẫn là của Nhà nước.
+ Vì đất đai thuộc sở hữu tồn dân nên khơng cịn khái niệm đất vơ
chủ, đất vắng chủ, khơng cịn quan niệm tranh chấp về quyền sở hữu đất đai.
Như vậy ngồi Nhà nước ra khơng đối tượng nào có đầy đủ 3 quyền:
chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt đất đai; người được Nhà nước giao quyền
sử dụng đất được hưởng các quyền do pháp luật quy định. Trong thực tế, xét
về bản chất thì quyền sử dụng đất cũng là quyền năng dân sự (quyền dân sự
đặc thù). Bên cạnh đó, luật pháp là cơ sở pháp lý cho việc hình thành quá
7


trình lưu thơng về đất đó là: (khi đất có giá trị cao) chính vì lẽ đó đất đai trở

thành tài sản quý giá của con người có thể chuyển đổi, chuyển nhượng, thế
chấp, thừa kế, cho thuê... nhưng đó chỉ là quyền sử dụng đất. Ông M được
quyền lập di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đất, nhưng di chúc đó phải
hợp pháp tức là phải tuân theo các quy định về nội dung và hình thức của di
chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995. Theo quy định
của pháp luật mỗi loại đất có vai trị và giá trị khác nhau, do đó khi thực hiện
các quyền của chủ thể đối với đất cũng khác nhau. Luật đất đai quy định có
hai nhóm đất:
+ Đất nhóm l: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp hàng năm và đất nuôi
trồng thuỷ sản.
+ Đất nhóm 2: Là đất nơng nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp
và đất thổ cư.
Bộ luật Dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995 quy
định có hai cách thừa kế đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.
- Thừa kế theo di chúc: là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể
hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định
người thừa kế (cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền thừa kế cho họ,
giao cho họ nghĩa vụ tài sản.
Di chúc có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản, tuy nhiên nó phải tuân
thủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Điều 654 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về di chúc miệng như sau:
"l- Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ do bệnh
tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có
thể di chúc bằng miệng. Di chúc bằng miệng được coi là hợp pháp, nếu người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người
làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng kí tên
hoặc điểm chỉ.
8



2- Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn
sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị huỷ bỏ."
Thừa kế theo pháp luật: Là việc dịch chuyển tài sản của người chết cho
những người còn sống theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do
pháp luật quy định.
Theo quy định tại Điều 653 Bộ luật Dân sự 1995 quy định:
“Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1- Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng,
2- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng,
3- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn;
4- Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước”.
1. Theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai thì những
người được hưởng thừa kế đối với đất đai thuộc nhóm 1 được quy định như sau:
Điều 679 Bộ luật Dân sự quy định về thừa kế theo pháp luật như sau:
1- Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a, Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,
con đẻ, con nuôi của người chết;
b, Hàng thừa kế thứ 2 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
c, Hàng thừa kế thứ 3 gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cơ ruột dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng
cịn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất
quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
2. Đối với đất thuộc nhóm 2: Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì
người được hưởng thừa kế là bất cứ ai.

9


3. Phân tích tình huống:
Từ di chúc mà ơng M để lại chúng ta nhận thấy:
- Việc ông M lập di chúc để lại cho anh Thao (con trai người bạn thân)
thừa kế quyền sử dụng 6000m2 đất lâm nghiệp (Đất loại 2) là hoàn toàn đúng
với quy định của pháp luật.
Căn cứ vào những quy định của pháp luật thì ơng M (người được Nhà
nước trực tiếp giao đất) trước khi chết đã lập di chúc để lại thừa kế quyền sử
dụng 1.200m2 đất trồng lúa (Đất loại 1) cho anh Hà Văn Thao (là con trai của
người bạn thân với ông M) là trái với quy định của pháp luật.
Căn cứ vào điều 10 của Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự được ban
hành ngày 7/12/1989 thì: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa kế quyền
sử dụng đất do Toà án nhân dân giải quyết”. UBND xã T chỉ có chức năng
phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tổ chức hoà giải giúp cho những cá nhân
khiếu kiện hiểu rõ được những quy định của pháp luật (cụ thể trong vụ việc
này là anh Hải và anh Than) đồng thời tạo sự thơng cảm, đồn kết giữa các
anh em trong gia đình, giữ mối quan hệ tốt giữa gia đình anh Hà và anh Hải
để từ đó anh Hà và anh Hải tự mình rút đơn khiếu nại.
Trong trường hợp hồ giải khơng thành thì UBND xã hướng dẫn anh
Nguyễn Quốc Hải và anh Hà Văn Thao gửi đơn khiếu hẹn lên Toà nhân dân
để yêu cầu giải quyết.
Như vậy việc UBND xã T đứng ra giải quyết đơn khiếu kiện của anh
Hải và anh Thao là không đúng thẩm quyền, trái với các quy định của pháp
luật hiện hành.
d) Đối với trường hợp UBND xã T giải quyết cho anh Hà Văn Than
được quyền thừa kế sử dụng 1.200m2 đất trồng lúa và 6000m2 đất lâm nghiệp
theo di chúc của ơng P có thể giải đáp như sau:
- Đối với diện tích 1.200m2 đất trồng lúa (đất nhóm 1) tại điều 740 Bộ

luật Dân sự quy định: Người được quyền thừa kế phải có đủ 2 điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: Có nhu cầu sử dụng đất, trực tiếp sử dụng đất đúng mục.
10


Điều kiện thứ hai: Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức
quy định của Luật Đất đai.
Từ các căn cứ trên đây ta thấy rằng UBND xã T giải quyết cho anh Hà
Văn Thao được thừa kế sử dụng 1.200m2 đất trồng lúa theo di chúc của ông P
là trái với quy định của pháp luật (vì anh Thao đã được giao đủ diện tích đất
trồng lúa theo quy định).
- Đối với diện tích 6000m2 đất lâm nghiệp (đất nhóm 2), tại Điều 743
Bộ luật Dân sự quy định như sau: “Cá nhân, thành viên hộ gia đình được giao
đất nơng nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở,
sau khi chết có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất cho người khác theo di
chúc hoặc theo pháp luật."
Như vậy việc giải quyết cho anh Hà Văn Thao được thừa kế 6000m2
đất lâm nghiệp là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Đối với anh Nguyễn Quốc Hải: UBND xã T không chấp nhận quyền
được phân chia đất theo yêu cầu ghi trong đơn có thể hiểu như sau:
Trên diện tích đất 2700m2 trồng lúa là đất nhóm 1 anh Hải khơng được
hưởng như các anh em khác trong gia đình là đúng bởi lẽ:
+ Anh Hải đang học tập, cơng tác ở nước ngồi.
+ Anh Hải khơng có nhu cầu sử dụng đất.
Đối với 480m2 đất vườn và đất thổ cư (là đất nhóm 2) thì theo quy định
của pháp luật cần được chia đều, như vậy theo cách giải quyết của UBND xã
T cho mỗi người hưởng 190m2 đất là hoàn toàn đúng với các quy định của
pháp luật.
4. Nguyên nhân dân đến tình huống.
Để xảy ra tranh chấp quyền thừa kế quyền sử dụng đất như trên là do

các nguyên nhân chủ yếu san đây:
Thứ nhất: Về phía người để lại thừa kế do sự hiểu biết pháp luật cịn
hạn chế nên ơng M đã lập di chúc để lại thừa kế quyền sử dụng đất nông

11


nghiệp để trồng lúa cho anh Thao là chưa đúng với quy định của pháp luật về
dân sự và đất đai.
Thứ hai: Về phía những người được hưởng thừa kế.
- Các con của ông M: Anh Nguyễn Quang Hà và Nguyễn Quốc Hải do
khơng tìm hiểu hết các quy định của pháp luật về thừa kế và đất đai nên anh
Hà đã phân chia quyền sử dụng đất mà bố mình để lại khơng đúng theo di
chúc và theo pháp luật.
- Anh Hà Văn Than người được ông M cho hưởng thừa kế theo pháp
luật do hiểu biết các quy định của pháp luật đã gửi đơn lên UBND xã T yêu
cầu hưởng 1.200m2 đất trồng lúa theo như di chúc của ông M để lại là không
đúng.
Thứ ba: Về phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Do sự hiểu biết pháp luật còn chưa đầy đủ nên việc giải quyết không
đúng thẩm quyền và chưa đúng pháp luật. Đây là tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất nên thẩm quyền giải quyết thuộc Toà án nhân dân chứ không phải
thuộc uỷ ban nhân dân. Khi nhận được đơn của anh Hải và anh Thao lẽ ra uỷ
ban nhân dân chỉ hoà giải hướng dẫn cho các bên chứ không được ra các
quyết định như trên; nếu các bên khơng nhất trí với cách hồ giải đó thì uỷ
ban nhân dân phải hướng dẫn họ gửi đơn đến toà án nhân dân để giải quyết.
5. Hậu quả của tình huống:
Đây là tranh chấp thừa kế không phức tạp nhưng do sự hiểu biết pháp
luật chưa đầy đủ của các đương sự cũng như của cán bộ trong uỷ ban nhân
dân xã uỷ do đó để lại hậu quả:

Về mặt tình cảm, đạo đức: Từ việc khơng đồng ý với cách phân chia di
sản thừa kế của người anh cả là anh Nguyễn Quang Hà mà anh Nguyễn Quốc
Hải đã làm đơn yêu cầu uỷ ban nhân dân giải quyết dẫn đến mâu thuẫn giữa
các anh em, sau nhiều lần được chính quyền địa phương hồ giải, nhưng tình
hình vẫn khơng được cải thiện mà có phần xấu hơn. Mâu thuẫn giữa anh Hà
Văn Thao và các con ông M ngày càng sâu sắc, ảnh hưởng tới tình cảm hàng
12


xóm vốn là một phong tục tập quán tốt đẹp của dân về giải quyết tranh chấp:
tranh chấp chưa giải quyết được vì uỷ ban nhân dân khơng có thẩm quyền giải
quyết mà lại ra các quyết định hơn nữa các quyết định đó lại khơng đúng với
quy định của pháp luật. Do đó dễ dẫn đến tình trạng tranh chấp kéo dài nếu
các bên tiếp tục khiếu kiện.
Về uy tín của cán bộ nhà nước: với cách giải quyết vừa không đúng
thẩm quyền, vừa không đúng pháp luật như trên thì người dân sẽ khơng tin
tưởng vào trình độ của đội ngũ cán bộ nhà nước, nếu có tranh chấp xảy ra
chắc chắn họ sẽ không nhờ đến cán bộ cơ sở tư vấn nữa do đó sẽ dẫn đến tình
trạng khiếu kiện vượt cấp, kéo dài làm cho các cơ quan cấp trên thì khơng giải
quyết hết mà cấp dưới lại khơng có việc.
III- XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
1. Mục tiêu xử lý tình huống:
Như trên chúng ta đã phân tích để xảy ra tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất trên là do sự thiếu hiểu biết pháp luật của cả ba phía đó là: người để
lại thừa kế, người được hưởng thừa kế và cán bộ uỷ ban nhân dân xã T. Đây
là một tranh chấp thừa kế đơn giản khơng liên quan đến các chính sách cải tạo
đất đai của Nhà nước trong các thời kỳ do đó khi nhận được đơn yêu cầu giải
quyết của anh Hải, anh Thao uỷ ban nhân dân xã T cần phân cơng cán bộ có
kinh nghiệm và có kiến thức pháp luật trong giải quyết các tranh chấp về thừa
kế và đất đai. Có thể tiến hành hồ giải nếu sau khi được tư vấn mà các bên

chấp thuận, có thể hướng dẫn các bên khởi kiện ra Tồ án nhân dân nếu các
bên khơng chấp nhận phương án

hồ giải.

2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
Căn cứ vào những quy định của pháp luật và phong tục tập quán,
truyền thống đạo lý của dân tộc ta, việc xử lý tình huống trên cần.theo các
phương án sau:
Phương án một. Căn cứ vào các quy định của pháp luật về thừa kế và
pháp luật về đất đai, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ cửa uỷ ban nhân dân cán
13


bộ tư pháp của uỷ ban nhân dân có thể hướng dẫn, giải thích cho ba anh cơn
ơng M và anh Thao theo hướng sau:
- Di sản của ông M sau khi chết được phân chia thành 2 loại sau:
+ Thứ nhất: Ngôi nhà trên đất thổ cư và đất vườn 480m2, 45.000m2
đất lâm nghiệp.
+ Thứ 2: Diện tích đất nông nghiệp (trồng lúa) là 2700m2.
- Người thừa kế thuộc 3 đối tượng: Con đẻ sống trong nước và con đẻ
sống ở nước ngồi, con của bạn bè... Vì thế khi phân chia tài sản thừa kế
chúng ta cần phân loại di sản, đối tượng để áp dụng theo đúng quy định của
pháp luật.
Tại khoản 3 điều 76 Luật Đất đai và điều 743 Bộ luật Dân Sự quy định,
đối với diện tích đất trồng cây lâu năm và đất ở 480m2, cần phải được phân
chia đều cho các người con kể cả người ở trong nước và người ở nước ngồi.
Nếu trong trường hợp anh Hải từ chối khơng nhận di sản ở Việt nam thì mới
đem chia cho 2 người ở trong nước như vậy mới đảm bảo đúng các quy định
của pháp luật.

Đối với diện tích 45.000m2 đất lâm nghiệp theo di chúc của ơng M thì
chia 6000m2 đất cho anh Hà Văn Thao, số còn lại là 39.000m2 thì chia đều
cho 3 anh em (Hà, Hải, Hồng) trong gia đình.
- Đối với đất nơng nghiệp (trồng lúa) tại khoản 1 điều 679,680 Bộ luật
Dân sự (Như đã nêu ở trên) và điều 470 Bộ luật Dân sự quy định người thừa
kế phải có 2 điều kiện:
+ Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng mục
đích.
+ Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định của
pháp luật về đất đai.
Như vậy việc anh Hà Văn Thao địi quyền thừa kế 1.200m2 đất nơng
nghiệp theo di chúc của ơng P là khơng đúng vì anh Thao đã được UBND xã
T cấp đủ diện tích đất đai theo quy định của pháp luật.
14


Đối với việc đòi chia đất của anh Nguyễn Quốc Hải do anh Hải đang đi
lao động và học tập ở nước ngồi và khơng có nhu cầu sử dụng đất do vậy
anh Hải không đủ điều kiện để hưởng thừa kế loại đất này. Chính vì thế cách
giải quyết đúng pháp luật là chia 2700m2 đất trồng lúa này cho 2 người con
đang sinh sống ở trong nước là Nguyễn Quang Hà và Nguyễn Minh Hồng
(mỗi người 1350m2).
Phương án hai: Sau khi cán bộ tư pháp đã hướng dẫn và giải thích nếu
họ khơng nhất trí với cách giải quyết đó thì hướng dẫn họ làm đơn khởi kiện
ra toà án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự.
3. Lựa chọn phương án xử lý.
Đây là tranh chấp về thừa kế khá đơn giản do đó uỷ ban nhân dân nên
tiến hành hoà giải giữa các bên để tránh tốn kém về thời gian cũng như vật
chất và tạo được lịng của nhân dân bởi vì:
Theo điều 38 Luật Đất đai năm 1993 và san này tại điều 135 Luật đất

đai năm 2003 đã quy định:
UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với các tổ chức
đồn thể như: Mặt trận Tổ quốc, Hội Nơng dân, Hội liên hiệp phụ nữ, các tổ
chức thành viên của MTTQ tiến hành hoà giải các vụ tranh chấp đất đai trong
nhân dân vì vậy UBND xã T cần chủ động phối hợp với các tổ chức đoàn thể
xã hội tiến hành mở hội nghị hoà giải giữa các nguyên đơn trên nguyên tắc
dân chủ, công bằng xã hội. Không gây mất đoàn kết đảm bảo an ninh trật tự
xã hội ở địa phương.
- Trong trường hợp UBND xã T đã tổ chức hoà giải mà các nguyên đơn
thống nhất với các phương án giải quyết thì UBND xã T tiến hành làm các thủ
tục theo quy định của pháp luật và đề nghị UBND huyện cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, như vậy vừa bảo đảm quyền lợi hợp pháp lâu dài của các
nguyên đơn đồng thời cũng tránh được những tranh chấp và khiếu kiện xảy ra
sau này gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

15


- Sau khi áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế và pháp luật về
đất đai để hồ giải hợp tình, hợp lý chắc chắn rằng các bên sẽ tin tưởng vào
uỷ ban nhân dân và thống nhất với phương án hồ giải đó.
IV- KIẾN NGHỊ
Các vấn đề liên quan đến đất đai đã, đang và sẽ luôn là một trong
những vần đề nhạy cảm và phức tạp của đời sống xã hội nói chung. Khi phát
sinh các tranh chấp về đất đai các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương
phải có trách nhiệm, nghĩa vụ giải quyết một cách dứt điểm trên cơ sở các quy
định của pháp luật sao cho các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mọi cơng
dân về đất đai được tôn trọng, đảm bảo, tránh phát sinh những "điểm nóng"
như đã từng xảy ra ở 1 số địa phương gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an
ninh Quốc gia và sự phát triển của đất nước: Khi giải quyết các vấn đề về đất

đai đòi hỏi những cơ quan Nhà nước và người có trách nhiệm phải thực sự
công tâm phải nắm vững và áp dụng 1 cách chính xác, khoa học các quy định
của pháp luật về đất đai; quá trình điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, tìm
hiểu vụ việc phải đầy đủ, tồn diện.
Xuất phát từ những tồn tại trong quá trình xử lý một vụ tranh chấp về
thừa kế quyền sử dụng đất ở xã T năm 2002, chúng tơi xin có một số kiến
nghị sau?
Cần sớm hồn thiện cơng tác quy hoạch tổng thể về đất đai, kế hoạch
sử dụng đất, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch "treo", rà sốt quỹ đất
hiện có; có biện pháp để đẩy nhanh tiến độ việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất.
Trong cơ chế thị trường cần chú ý đến vấn đề quy hoạch và kế hoạch sử
dụng đất; đó là thể hiện sự tính toán khoa học, hợp lý phù hợp với quy luật
vận động và phát triển kinh tế xã hội vừa mang tính chất chiến lược vừa có
tính khả thi và thực sự là công cụ pháp lý để Nhà nước quản lý đất đai có hiệu
quả...

16


Mặt khác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải tạo điều kiện cho người
sử dụng đất chủ động trong việc lựa chọn phương án khai thác, sử dụng đất
sao cho đem lại lợi ích kinh tế cao nhất.
Đối với những quyết định liên quan đến quyền lợi và lợi ích của nhân
dân phải được nhân dân thảo luận cụ thể với phương châm: "Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy triệt để quyền làm chủ của nhân dân
lao động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo vừa phát huy quyền
làm chủ của nhân dân vừa tăng cường thiết lập kỷ cương của pháp luật. Xây
dựng bộ máy chính quyền vững mạnh. Tiến hành thanh tra, kiểm tra kịp thời

không để vụ việc (Đặc biệt là những vụ việc tranh chấp về đất đai) xảy ra
phức tạp dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài vừa gây lãng phí thời gian cơng sức,
vừa gây mất đồn kết và mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Cần có chiến lược bảo vệ đất nơng nghiệp và đất có rừng: Một điều rất
đáng lo ngại là diện tích đất nơng nghiệp là đất trồng lúa bị mất đi ngày càng
tăng do q trình cơng nghiệp hố, đơ thị hố, mà việc khai hoang mở rộng
thêm diện tích canh tác khơng bù đắp kịp; mặt khác diện tích đất có rừng ngày
càng bị thu hẹp mặc dù Nhà nước và người dân đã đầu tư rất nhiều công của
vào việc trồng rừng... Tình trạng chặt phá rừng tràn lan nhất là rừng đầu
nguồn đã làm cho môi trường bị ơ nhiễm và suy thối nghiêm trọng. Hiện
tượng ENIUNO xảy ra không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của hàng chục triệu nơng dân mà cịn để lại hậu quả lâu dài đối với nhiệm vụ
bảo đảm an toàn an ninh lương thực quốc gia và an tồn mơi trường sống cho
nhiều thế hệ mai sau. Để góp phần ngăn chặn có hiệu quả xu thế này, pháp
luật cần có quy định nghiêm ngặt trong các trường hợp sử dụng đất nông
nghiệp, nhất là đất trồng lúa vào mục đích khác, xử lý thật nghiêm những
trường hợp đốt phá rừng; cần chuyển hướng quy hoạch phát triển các khu
công nghiệp, các khu dân cư mới, đô thị mới đến các vùng đất xấu ít có khả
năng phát triển nơng nghiệp. Vì lợi ích lâu dài và tồn cục Nhà nước chủ
17


trương ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để khai thác vùng đất phi nông
nghiệp, hạn chế tối đa đến việc xâm phạm quỹ đất nông nghiệp, đất trồng lúa,
đất có rừng. Chủ trương này cần được sự quan tâm thường xuyên của Nhà
nước và được thể hiện đồng bộ khơng chỉ trong chính sách đất đai mà cịn
trong các chính sách kinh tế và mở rộng ra mọi hoạt động của toàn xã hội bao
gồm cả các hoạt động khoa học, văn hoá, giáo dục và hoạt động của các đoàn
thể quần chúng.
Cần tăng cường hơn nữa tính khả thi của pháp luật, đảm bảo pháp luật

ban hành phải được đi vào thực tế cuộc sống, được thực hiện có hiệu quả trên
thực tế. Muốn được như vậy các nhà làm luật, các cơ quan nhà nước cần có
các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật phù hợp với điều kiện thực tế.
Tránh sự chồng chéo, sơ hở hoặc quá chậm trễ trong việc ban hành các văn
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật vì như vậy sẽ tạo điều kiện cho một số đối
tượng lợi dụng để vi phạm dẫn đến tình trạng quan liêu, tham những, lãng phí,
vi phạm pháp luật. Với việc Nhà nước ta ban hành Luật đất đai năm 2003 và
có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 và các Nghị định hướng dẫn thi hành
đã thể hiện rất rõ vấn đề này.
Rà soát, ban hành mới và sửa đổi các văn bản luật, các quy định pháp
luật khác về lĩnh vực đất đai để xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về đất đai thống nhất, bảo đảm mọi quan hệ trong lĩnh vực đất đai phát
sinh trong đời sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh một cách đúng đắn,
khoa học và triệt để, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của tập thể và công dân,
đặc biệt là những căn cứ pháp lý cho việc áp dụng giải quyết các tranh chấp
về quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một
vấn đề phức tạp trong việc giải quyết tranh chấp đất hiện nay. Tạo ra một hệ
thống pháp luật vững chắc là cơ sở pháp lý thống nhất cho cơ quan quản lý
Nhà nước áp dụng để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai
trong đời sống xã hội một cách có hiệu quả.

18


Phải khẩn trương xây dựng 1 nền hành chính thực sự dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hố, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả tn theo ngun tắc Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của
Đảng xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất đạo đức, có trình độ,
năng lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dụng, phát triển đất nước và hội
nhập quốc tế. Kiện toàn bộ máy và đẩy nhanh cải cách hành chính trong quản

lý đất đai, nâng cao năng lực công tác và trách nhiệm của các cơ quan quản lý
Nhà nước về đất đai, thường xuyên tham mưu đề xuất kịp thời các giải pháp
với các cấp chính quyền để từng bước giải quyết dứt điểm những tồn tại,
vướng mắc trong quản lý đất đai.
Cần tiến hành đồng bộ việc cải cách bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương, đặc biệt là bộ máy chính quyền cơ sở, xây dựng
bộ máy nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, tránh quan liêu,
hách dịch, cửa quyền, buông lỏng quản lý và gây phiền hà cho nhân dân, gây
ách tắc trong khâu quản lý và thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Phải tăng cường cơng tác tun truyền, giáo dục pháp luật bằng nhiều
hình thức như bằng các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các cuộc
thi... cần xác định đây là công tác thường xuyên liên tục, không ngừng nâng
cao sự hiểu biết và chấp hành luật pháp cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước cấp cơ
sở đây là việc làm thường xuyên và lâu dài, chọn lọc ra đội ngũ cán bộ đủ
đức, đủ tài, có chuyên mơn nghiệp vụ giỏi đủ sức hồn thành tốt nhiệm vụ
được giao góp phần bình ổn trật tự xã hội ở địa phương, phát triển kinh tế địa
phương nói riêng và đất nước ta nói chung theo hướng cơng nghiệp hoá và
hiện đại hoá; thực hiện được mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".

19


KẾT LUẬN
Qua việc giải quyết vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất trên
đây lại xã T chúng tôi thấy:
- Thực tế hiện nay về cơ chế quản lý đất đai cịn bng lỏng, những quy

định của pháp luật chưa đồng bộ. Sự hiểu biết pháp luật, đặc biệt là pháp luật
về đất đai, về thừa kế của người dân cịn hạn chế, một số người dân có ý thức
pháp luật chưa cao, chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật, có
lúc cịn coi nhẹ đạo đức xã hội, mới chỉ coi trọng lợi ích cá nhân nên đã xâm
phạm lợi ích hợp pháp của người khác; công tác thanh tra, kiểm tra chưa được
tiến hành thường xuyên, liên tục. Đội ngũ cán bộ quản lý làm công tác quản
lý, giải quyết tranh chấp đất đai nhìn chung cịn yếu về chun mơn nghiệp
vụ.
- Về cơng tác quản lý, sử dụng đất cịn tuỳ tiện, thiếu cơ sở pháp lý,
không đảm bảo cho trước mắt và lâu dài.
- Có một thực tế đáng lo ngại là hiện nay một số cán bộ trong bộ máy
quản lý của chính quyền địa phương cịn thiếu tinh thần trách nhiệm trong
quản lý đất đai gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
- Mặt khác, việc giải quyết các vụ khiếu kiện liên quan đến đất đai còn
thiếu khách quan, thiếu cơ sở pháp lý, rất nhiều trường hợp người khiếu kiện
chưa thấy thoả đáng với những kết luận của các cơ quan chức năng, họ tiếp
tục khiếu kiện lên cơ quan cấp trên gây nên tình trạng khiếu kiện kéo dài và
làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị trật tự an tồn xã hội ở địa
phương. Do đó khi giải quyết các tranh chấp về đất đai phải tuân thủ pháp
luật, nhanh chóng, triệt để và có tình, có lý.
- Khi giải quyết các vấn đề về thừa kế cần phải giải quyết trên cơ sở
của pháp luật nhưng phải mềm dẻo, linh hoạt sao cho vừa có tình, vừa có lý vì
như chúng ta biết thừa kế dù theo di chúc hay pháp luật đều là giữa những
20



×