KINH TẾ CHÍNH TRỊ Phân tích những vấn đề cơ bản của quy luật giá trị? Ý nghĩa việc nghiên cứu? Vận dụng kiến thức lý luận đánh giá tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị truờng định huớng XHCN ở nuớc ta hiện nay?(cho ví dụ) Nêu vai trò của nh
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.96 KB, 12 trang )
KINH TẾ CHÍNH TRỊ:
Phân tích những vấn đề cơ bản của quy luật giá trị? Ý nghĩa việc
nghiên cứu?
Vận dụng kiến thức lý luận đánh giá tác dụng của quy luật giá trị trong nền kinh tế
thị truờng định huớng XHCN ở nuớc ta hiện nay?(cho ví dụ)
Nêu vai trị của nhà nuớc trong việc vận dụng quy luật để phát triển kinh tế thị
truờng định huớng XHCN ở nuớc ta hiện nay. Liên hệ thực tế?
I. Phân tích những vấn đề cơ bản của quy luật giá trị
1. Quy luật giá trị.
1.1. Khái niệm.
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa,
ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng
của quy luật giá trị.
- Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. Sản xuất hàng hóa ra đời là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.
1.2. Nội dung của quy luật giá trị.
- Nội dung chính của quy luật giá trị là việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
- Hao phí lao động xã hội cần thiết: Trên thị trường có vơ số người bán và vơ
số người mua. Mỗi người có sự hao phí lao động khác nhau nhưng giá trị hàng hóa
phản ánh hao phí lao động trung bình của xã hội. Hao phí lao động xã hội cần thiết
là hao phí lao động để sản xuất ra hàng hóa trog điều kiện sản xuất bình thường,
trình độ lao động bình thường và cường độ lao động trung bình. Hao phí lao động
xã hội quyết định lượng giá trị và có thể biến đổi tùy theo sự biến đổi của năng suất
lao động. Do đó, sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở hao phí lao động xã
hội chính là sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị hàng hóa. Điều đó
thể hiện sự trao đổi các hàng hóa ngang nhau về giá trị (giá cả = giá trị) hay nói
cách khác đi là trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
- Nhìn bề ngồi, sản xuất và trao đổi hàng hóa như là việc riêng của từng chủ
thể, họ độc lập và hình như khơng chịu sự chi phối nào. Nhưng thực tế, những hoạt
động đó đều chịu sự chi phối của quy luật giá trị hay nói cụ thể hơn là quy tắc trao
đổi ngang giá. Những ai có chi phí thấp hơn so với chi phí mà xã hội thừa nhận thì
người đó sẽ tồn tại và phát triển, ngược lại sẽ thua lỗ và phá sản.
- Như vậy nội dung của quy luật giá trị mang tính khách quan, đảm bảo
sự cơng bằng hợp lý, bình đẳng giữa người sản xuất và trao đổi hàng hóa.
1.3 Sự vận động của quy luật giá trị.
- Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa.
Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, là kết quả của sự thỏa
thuận giữa người mua và người bán hàng hóa trên thị trường. Giá trị là cơ sở của
giá cả. Mức giá cả phụ thuộc vào lượng giá trị. Hàng hóa nào có nhiều giá trị thì
giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Tuy nhiên, do giá cả hàng hóa được thực hiện
trên thị trường nên ngồi giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như:
cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền, tình trạng độc quyền.. Sự tác động
của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hóa trên thị trường tách rời với giá trị và
lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó, có khi cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Sự
vận động giá cả thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ
chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà
quy luật giá trị phát huy tác dụng. Trong các nền kinh tế hiện đại, giá cả còn biến
động bởi sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của nhà nước.
- Các quy luật liên quan đến quy luật giá trị.
+ Quy luật lưu thông tiền tệ.
+ Quy luật cung cầu hàng hóa dịch vụ.
+ Quy luật cạnh tranh.
- Ba quy luật trên thực chất là phát sinh từ quy luật giá trị. Chúng có tác dụng
bổ sung và tạo ra cơ chế hoạt động cho quy luật giá trị.
1.4 Vai trò của quy luật giá trị
- Bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại trong tự nhiên đều phải tuân theo những
quy luật nhất định. Những quy luật này tác động trực tiếp đến quá trình hình thành
và phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng. Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói
chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng cũng tuân theo sự vận động của những
quy luật kinh tế nhất định. Theo thời gian, nền kinh tế liên tục phân hóa và hình
thành thêm nhiều thành phần kinh tế mới. Trên thị trường, cung và cầu tưởng như
là những hành động độc lập của người bán và người mua, khơng chịu bất kì sự chi
phối nào. Nhưng thực tế, những hoạt động mua bán đó đều chịu sự chi phối của
quy luật giá trị.Vì vậy, chúng ta cần hiểu rõ hơn về những vai trò, tác dụng của quy
luật giá trị.
- Trong nền kinh tế hàng hóa thường xảy ra tình hình: những người sản xuất rời
bỏ ngành này chuyển sang hoạt động ở ngành khác, quy mô ngành này bị thu hẹp
trong khi quy mô của ngành khác lại được mở rộng. Điều này khiến cho tư liệu sản
xuất, sức lao động và nguồn vốn được phân bố lại giữa các ngành. Hiện tượng này
gọi là sự điều tiết sản xuất. Sự điều tiết này hoạt động một cách tự phát, biến động
xoay quanh trục giá cả của hàng hóa. Dựa vào sự biến động của giá cả hàng hóa
trên thị trường, người sản xuất biết được hàng hóa nào đang thiếu, bán chạy, có giá
cao, thu được nhiều lợi nhuận và hàng hóa nào dư thừa, giá thấp. Điều này được
thể hiện rõ hơn qua quan hệ cung-cầu trên thị trường:
+ Cung < cầu: khi một hàng hóa nào đó mà người sản xuất cung ra thị
trường ít hơn so với lượng mà người tiêu dùng muốn mua, trên thị trường sẽ xảy ra
tình trạng thiếu hụt. Lúc đó, giá cả hàng hóa cao hơn giá trị, hàng hóa thu được
nhiều lãi. Khi đó người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất đối với mặt hàng này.
+ Cung > cầu: Giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa cung ra thị trường khơng
được tiêu thụ hết, ế thừa khiến lợi nhuận giảm. Tình hình này buộc người sản xuất
phải thu hẹp quy mô sản xuất mặt hàng này đồng thời chuyển sang sản xuất hàng
hóa khác có giá trị hơn.
+ Cung = cầu: đây là trạng thái cân bằng của thị trường mà người mua va
người bán luôn mong muốn hướng tới. Giá cả = giá trị. Tuy nhiên đây là trường
hợp ngẫu nhiên, rất hiếm khi xảy ra.
- Đối với lưu thông: Quy luật giá trị có tác dụng điều tiết, vận động hàng hóa từ
nơi có giá thấp đến nơi có giá cao. Từ đó phân phối các nguồn hàng hóa một cách
hợp lí hơn giữa các vùng của đất nước, giữa trong nước và quốc tế, giữa cung và
cầu về các loại hàng hóa trong xã hội.
- Trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa, cạnh tranh ngày càng gay gắt buộc mỗi
người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản xuất – kinh doanh, phải thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao
chất lượng sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận ngày
càng nhiều hơn. Cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Hơn
nữa, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh
tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều
kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau.
Người sản xuất nào cũng muỗn thu được nhiều lợi nhuận. Người sản xuất thu được
nhiều lãi hơn là người sản xuất có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao
động xã hội. Ngược lại, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao
phí lao động xã hội cần thiết sẽ rơi vào thế bất lợi, lỗ vốn. Trong nền kinh tế thị
trường, mọi nhà sản xuất luôn muốn đứng vững, phát triển và không muốn bị đẩy
ra khỏi chiến trường kinh doanh. Chính vì thế, để giảm hao phí lao động cá biệt,
họ ln có xu hướng tối thiểu hóa thời gian lao động cá biệt. Đặc biệt, trong thời
đại bùng nổ của khoa học kỹ thuật, để mặt hàng mình sản xuất chiếm ưu thế trên
thị trường, người sản xuất còn phải thường xuyên nâng cấp công nghệ sản xuất,
liên tục cải tiến chất lượng, mẫu mã hàng hóa cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
người tiêu dùng, cải tiến các biện pháp lưu thông, bán hàng để tiết kiệm chi phí lưu
thơng và tiêu thụ sản phẩm nhanh hơn. Vì vậy, có thể nói rằng, quy luật giá trị thúc
đẩy lực lượng sản xuất, phát triển.
- Trong quá trình cạnh trạnh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, không phải tất
cả mọi nhà sản xuất đều phát triển, thu được nhiều lợi nhuận như nhau. Có kẻ
thắng, người thua, có người sản xuất thu được nhiều lãi, có khả năng mở rộng quy
mơ sản xuất, có nhà sản xuất thất bại, phá sản, phải rời khỏi ngành. Những người
có điều kiện sản xuất thuận lợi,có trình độ tay nghề cao, có kiến thức, trang bị kỹ
thuật tốt, có nhiều vốn, mặt hàng thu hút nhà đầu tư…nên có hao phí lao động cá
biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh
chóng. Ngược lại những người khơng có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc
gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ, phá sản, trở nên nghèo khổ và phải đi
làm thuê cho người khác. Quy luật giá trị một mặt đã đánh giá, bình tuyển, chọn
lọc những người sản xuất có đủ khả năng trụ vững trong nền kinh tế thị trường,
mặt khác góp phần đào thải các yếu kém. Tuy nhiên, quy luật giá trị cũng thúc đẩy
sự phân hóa xã hội thành kẻ giàu, người nghèo, gây ra sự bất bình đẳng trong xã
hội.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu.
- Nghiên cứu quy luật giá trị cho thấy nó có tác động hai mặt:
Một mặt, quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh doanh phải nhạy bén với thị
trường, nhạy bén với nhu cầu tiêu dùng, năng động, sáng tạo trong phương thức
sản xuất, kinh doanh, tìm ra phương pháp sản xuất hiệu quả để nâng cao năng suất
lao động, giảm chi phí khâu sản xuất để hạ giá thành sản phẩm, phải tìm đến ngành
hoặc lĩnh vực mà mình chiếm lợi thế, kinh doanh những mặt hàng mà nhiều người
thích, tức là phải nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh tế. Chỉ như vậy, họ mới
tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường. Do tác động này, cơ cấu của nền
sản xuất tự phát điều chỉnh một cách linh hoạt cho phù hợp với cơ cấu tiêu dùng
của xã hội.
Quy luật giá trị buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh với nhau, điều này giúp
sử dụng tối ưu các nguồn lực trong xã hội, kích thích tiến bộ khoa học cơng nghệ,
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quy luật giá trị cịn có tác dụng bình tuyển
người sản xuất, nhờ đó chọn ra những người năng động, có tài kinh doanh, biết làm
giàu đồng thời buộc người kém cỏi phải vươn lên, tích cực hơn nếu khơng muốn
trở thành người nghèo khổ.
Với tác dụng này, chúng ta cần phải tôn trọng và phát huy vai trò tự điều tiết của
quy luật giá trị để phân bổ các nguồn lực của xã hội cho các ngành, lĩnh vực một
cách linh hoạt và có hiệu quả, xây dựng các vùng kinh tế chuyên mơn hóa, lựa
chọn việc đổi mới cơng nghệ, định hướng đào tạo nhân lực, thúc đẩy cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, do theo đuổi việc giảm chi phí sản xuất và cạnh tranh để thu được lợi
nhuận, hoạt động của quy luật giá trị cũng dẫn đến những kết quả khơng được như
mong muốn. Đó là tình trang khai thác quá mức thậm chí cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên, đổ chất thải bừa bãi, gây những hậu quả nặng nề đến môi trường, đe dọa
cuộc sống của con người cũng như nhiều loài sinh vật khác, làm mất cân bằng sinh
thái; khủng hoảng kinh tế xảy ra, gây ra các căn bệnh về kinh tế (đình trệ, suy
thối, lạm phát, quan liêu, tham nhũng, hối lộ,….) có cơ hội phát triển một các
nhanh chóng trong xã hội; sự bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội, ranh giới
giàu – nghèo ngày càng trở nên rõ rệt, tác động tiêu cực đến tiến bộ xã hội,….
Bởi tính hai mặt nêu trên, để ngăn ngừa và khắc phục những tác động tiêu cực
của quy luật giá trị và để phát huy mặt tích cực của nó trong q trình thúc đẩy nền
kinh tế hàng hóa ở nước ta phát triển đúng hướng, có hiệu quả cần phải có những
giải pháp cụ thể.
Những giải pháp.
+ Tập trung phát triển kinh tế đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
là chủ yếu. Từ đó tạo tiền đề để thực hiện các nhiệm vụ khác, đưa nước ta nhanh
chóng phát triển đồng thời phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
+ Đa dạng hóa các nền kinh tế nhiều thành phần. Tạo cơ hội cho các thành phần
kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao trình độ lao động, hiện đại hóa
phương thức sản xuất, đa dạng hóa ngành nghề sản xuất.
+ Giải phóng lực lượng sản xuất, huy động mọi nguồn lực để thúc đẩy nhanh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống
của nhân dân.
+ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chú trọng vào xuất nhập khẩu,
đẩy mạnh giao thương với nước ngoài.
III. Vận dụng kiến thức lý luận đánh giá tác dụng của quy luật giá trị trong
nền kinh tế thị truờng định huớng XHCN ở nuớc ta hiện nay.
Quy luật giá trị quả là cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó địi hỏi việc sản xuất
và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Theo
yêu cầu của quy luật, những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân theo
mệnh lệnh của giá cả thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường chính là hình
thức biểu hiện của quy luật giá trị. Giá cả lên xuống xoay quanh giá trị hàng hóa là
cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường
thông qua cạnh tranh, cung-cầu, sức mua của đồng tiền. Tính cơ bản của nó có là
vì ba tác dụng sau: Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Thứ hai là
kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Thứ
ba là thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa giàu nghèo giữa những người sản
xuất hàng hóa.Cái thứ ba mang tính XH-CT nhiều, tác dụng này của quy luật giá trị
một mặt là sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu kém, kích thích các nhân tố tích
cực phát triển. Mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu người nghèo. Điều này là
tất nhiên.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết
quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra
khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của
cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị
trước những chấn động lớn trên thế giới mà cịn có bước phát triển đi lên. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng bình qn 7% /năm. Nơng nghiệp phát triển liên tục,
đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các
ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề
mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết
Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời
gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định
những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau:
1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Khơng nên có thái độ định kiến
và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy
được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát
triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định
hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then
chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất,
chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng
cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực
sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh
doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt.
Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng
rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã
đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường,
xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nơng
thơn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ
phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho
các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến
khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp
luật không cấm. Tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để
kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể
cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho
người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà
nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Tạo điều
kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi phát triển thuận lợi, hướng vào các sản
phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công
nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để
thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước
dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư
bản tư nhân trong nước và ngồi nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu
tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều
hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngồi
nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử
dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội.
2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực
quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ cịn thấp, chất lượng, hiệu quả,
khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy,
phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị
trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc cịn
sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua
của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng
có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát
độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế,
phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong
kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh
có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo
mơi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp
tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với
sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội,
khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế,
điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các
công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi
trọng việc xây dựng và hồn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi
mới cơng tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin
kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, cơng tác kế tốn, thống kê; ứng dụng rộng
rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong cơng tác dự báo, kiểm tra tình hình
thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã
hội, thực hiện cơng bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định
hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó
chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao
động mà cịn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân
làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ
thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới.
Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an tồn vệ sinh lao động, phịng
chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ
thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách
bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối
với cán bộ, cơng chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục
tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh
doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những
người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình
chính sách – một u cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau
30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng chống tội phạm,
giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ
nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và
đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh
doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do
mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là
thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có
tính ngun tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi
mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác
quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế
ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng
là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của
Đảng, cướp chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Hiện nay, có ý kiến cho
rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường tức là nền kinh tế vận động theo quy luật
giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì khơng cần phải có sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm sự vận hành của
kinh tế . Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai lầm. Bởi vì như trên đã nói,
Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng khơng phải để cho nó vận
động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát
huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã
hội cơng bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó
khơng thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản và là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường
lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng,
bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm
cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực
lượng sản xuất khơng ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, tức là hạn chế được bất cơng, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo tồn bộ
hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện
bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra.
Cho ví dụ về nền kinh tế định huớng XHCN:
Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
được thể hiện ở những điểm sau: Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế
thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước. Là nền kinh tế đa dạng các hình thức
sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Việc phân phối được thực hiện chủ
yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn
cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi
xã hội. Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh".
Các doanh nghiệp như: Điện lực, viettel, hệ thống ngân hàng các doanh nghiệp
tư nhân đều được kinh doanh tự do nhưng đều phải tuân thủ theo pháp luật Việt
Nam. Không tự ý tăng giá các sản phẩm của mình mà cần có sự điều tiết chỉ đạo
của nhà nuớc.
IV. Nêu vai trò của nhà nuớc trong việc vận dụng quy luật để phát triển kinh
tế thị truờng định huớng XHCN ở nuớc ta hiện nay. Liên hệ thực tế?
Kinh tế nhà nước luôn giữ vững và phát huy tốt vai trò chủ đạo, làm nòng cốt và
định hướng, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Song, với bản chất, âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch,
phản động ln tìm mọi cách để phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,
đồng nhất kinh tế nhà nước với doanh nghiệp nhà nước, xuyên tạc chủ trương cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Lợi dụng và khoét sâu vào sự yếu kém của một
số doanh nghiệp nhà nước để bóp méo và làm lu mờ vai trò của kinh tế nhà nước.
Coi sự yếu kém của bộ phận doanh nghiệp nhà nước là sự yếu kém của kinh tế nhà
nước. cần khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là một trong những vấn
đề mấu chốt của việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam.
Một là, tuy chưa sử dụng“kinh tế thị trường” nhưng các nhà kinh điển của Chủ
nghĩa Mác-Lênin đã nghiên cứu, luận giải sâu sắc những vấn đề cơ bản như: Thị
trường, cạnh tranh, cung-cầu, giá cả... Chỉ ra vai trò của kinh tế tập thể, kinh tế nhà
nước. Trong khi đó K.Marx và F.Engels nói: Những người nơng dân đó khơng thể
tự tổ chức theo chủ nghĩa cộng sản được vì họ khơng có đủ những phương tiện cần
thiết để thực hiện điều kiện đầu tiên của một hiệp hội cộng sản, tức là sự quản lý
kinh tế tập thể.
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, Lenin đã nghiên cứu và
khẳng định vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân; đồng thời đấu
tranh chống lại những quan điểm không đúng về kinh tế nhà nước ở nước Nga,
nhất là phái dân túy. Với sự ra đời của Chính sách kinh tế mới mà khơng ít người
cho rằng chính quyền Xơ viết quay trở lại chủ nghĩa tư bản. Về vấn đề này, Lenin
chỉ rõ: chừng nào mà chúng ta vẫn nắm trong tay tất cả các xí nghiệp quốc doanh
và chừng nào mà chúng ta cân nhắc một cách chính xác và nghiêm túc xem chúng
ta có thể tiến hành những gì, với điều kiện như thế nào và với mức độ ra sao. Thứ
chủ nghĩa tư bản phát triển như vậy sẽ bị kiểm soát, bị kiểm kê, và chính quyền
nhà nước vẫn nằm trong tay giai cấp cơng nhân.
Hai là, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vận dụng sáng tạo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Khi chỉ ra
các thành phần kinh tế ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Kinh tế quốc
doanh là cơng. Nó là nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ mới. Từ khi đổi
mới đến nay, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước luôn được khẳng định trong
Hiến pháp và các văn kiện của Đảng. Đại hội XIII tiếp tục khẳng định vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt
Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo và doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan
trọng của kinh tế nhà nước. Như vậy, nội hàm của kinh tế nhà nước rộng hơn
doanh nghiệp nhà nước. Việc đánh đồng kinh tế nhà nước với doanh nghiệp nhà
nước không chỉ là sự nhầm lẫn về tên gọi mà còn dẫn đến sự ngộ nhận, đánh đồng
vai trị của tồn thể với bộ phận, hiểu sai về chủ trương, chính sách phát triển kinh
tế xã hội của Đảng, Nhà nước ta.
Ba là, những thành tựu đạt được trong 35 năm đổi mới tiếp tục khẳng định vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, nhất là trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh diễn biến
hết sức phức tạp, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là
minh chứng khơng thể phủ nhận vai trị của kinh tế nhà nước. kinh tế nhà nước đã
có những đóng góp to lớn cho phát triển kinh tế xã hội, nhất là ở các địa bàn khó
khăn, biên giới, hải đảo, điều tiết vĩ mô, ổn định giá cả, thực hiện an sinh xã hội,
xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đặc biệt trong phòng, chống đại dịch
Covid-19 hiện nay. Nhiều doanh nghiệp nhà nước thành công không chỉ trong
nước mà vươn tầm quốc tế như: Tập đồn Cơng nghiệp-Viễn thơng Qn đội,
Tổng cơng ty Tân cảng Sài Gịn, Tập đồn Điện lực Việt Nam, Tập đồn Dầu khí
Quốc gia Việt Nam...
Giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong tình hình mới. kinh tế nhà nước là
công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định
hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, khắc phục các khuyết
tật của cơ chế thị trường. Trong khi chỉ rõ vai trò của kinh tế nhà nước, Đảng và
Nhà nước ta luôn khẳng định rằng, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều
kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh
doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ
và khơng bị quốc hữu hóa.