Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

PHÂN TÍCH HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH ?Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.82 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
CÂU HỎI TIỂU LUẬN:PHÂN TÍCH HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH ?Ý NGHĨA CỦA
VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ NƯỚC TA
HIỆN NAY
Sinh Viên Thực Hiện

:LÊ HẢI ANH

Mã Sinh Viên

:72DCKT20063

Khóa

: 72(2021-2025)

Giáo viên đánh giá

: TS. LÊ THỊ HUYỀN

HÀ NỘI 2022
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................3


PHẦN 1: PHÂN TÍCH HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH .....................................................4
I,SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG: .............................................................................................................4
1.Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư: ............................................................4
1.1,Nguồn gốc của giá trị thặng dư: ....................................................................4
1.2:Bản chất của giá trị thặng dư .........................................................................8
2.Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa ..............................................................................................................9
2.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.................................................................9
2.2

Sản xuất giá trị thặng dư tương đối ............................................................9

PHẦN II:Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN
XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH ĐỐI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY: ...............10
KẾT LUẬN .............................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................22

2


MỞ ĐẦU
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa dưới tác động của các quy luật kinh tế và
tích lũy nguyên thủy tư bản đã tạo ra những điều kiện hình thành nền kinh tế thị
trường với hình thái đầu tiên là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở
kế thừa những thành tựu cơ bản trong nghiên cứu khoa học kinh tế chính trị của
các thế hệ đi trước và cùng với phát kiến vĩ đại là học thuyết giá trị thặng dư,
C.Mác đã hồn thiện lý luận kinh tế chính trị về nền kinh tế thị trường tư bản chủ

nghĩa. Những giá trị cốt lõi của lý luận giá trị thặng dư không những giúp cho các
thế hệ sau hiểu được những vấn đề cơ bản và quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị
trường, mà còn giúp cho nhận thức vấn đề bất cập nảy sinh, những thách thức và
cơ hội đối với sinh viên ra trường sau khi tốt nghiệp và bước vào lập nghiệp trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, thơng qua tìm hiểu về hai phương pháp giá trị thặng dư và giá trị thặng dư
siêu ngạch , mọi sinh viên như em sẽ có thêm được nhiều kiến thức hữu ích về:lý
thuyết của Các MÁC về giá trị thặng dư,nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng
dư,giá trị thặng dư siêu ngạch… Qua đó, em sẽ có thể tự nhận thức được những và
áp dụng chúng vào thực tế nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Do đó, em lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Phân tích hai phương pháp giá trị thặng dư và giá trị
thặng dư siêu ngạch”.

3


PHẦN 1: PHÂN TÍCH HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH
I,SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG:
1.Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư:
1.1,Nguồn gốc của giá trị thặng dư:
Công thức chung của tư bản
Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa phát triển
cao, do đó có biểu hiện giống như nền kinh tế hàng hóa thơng qua sự vận động của
các yếu tố cơ bản là hàng hóa và tiền, những hoạt động kinh tế cơ bản là mua và
bán, những quan hệ kinh tế cơ bản là giữa người mua và người bán. Tuy nhiên, nếu
như lưu thông hàng hóa, biểu hiện qua cơng thức H - T - H, có mục đích chủ yếu là
giá trị sử dụng thì mục đích của lưu thơng tư bản lại là giá trị, biểu hiện qua công
thức T - H - T, và đặc biệt là giá trị thặng dư với tư cách là nguồn làm giàu cho chủ

tư bản, do đó cơng thức chung của lưu thơng tư bản phải là T-H-T’, trong đó
T’=T+At. C.Mác gọi At là giá trị thặng dư.
Để có được giá trị thặng dư mà vẫn tuân thủ các quy luật khách quan của
nền kinh tế hàng hóa, đặc biệt là quy luật giá trị, thì trên thị trường cần xuất hiện
phổ biến một loại hàng hóa có giá trị sử dụng đặc biệt là tạo ra giá trị mới lớn hơn
giá trị của bản thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
Hàng hóa sức lao động
“Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”1. Sức lao động
là yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất trong mọi thời đại. Để sức lao
động trở thành hàng hóa phổ biến, theo thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thế giới,
cần phải có hai điều kiện cơ bản:
Một là, “người chủ sức lao động ấy có thể bán được nó với tư cách là hàng
hóa, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó, người ấy

1

C.Mác

và Ph.Ăngghen,Tồn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251.

4


phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình” 2, đồng thời
“người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời
gian nhất định”3.
Hai là, “người chủ sức lao động phải khơng cịn có khả năng bán những
hàng hóa trong đó lao động của anh ta được vật hóa, mà trái lại, anh ta buộc phải

đem bán, với tư cách là hàng hóa, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong
cơ thể sống của anh ta thôi”4.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, sức lao động vẫn là một
trong những hàng hóa phổ biến và quan trọng, tuy nhiên những điều kiện để sức
lao động trở thành hàng hóa có sự thay đổi lớn. Người lao động có thể bán sức lao
động khi lao động làm thuê có thể mang lại lợi ích cao hơn.
Hàng hóa sức lao động có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử
dụng. “Giá trị của sức lao động, cũng như của mọi hàng hóa khác, được quyết định
bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó, để tái sản xuất ra thứ sản
phẩm đặc biệt ấy”5, giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt
cần thiết để duy trì cuộc sống của con người có sức lao động ấy” 6. Giá trị hàng hóa
sức lao động khơng những bao gồm giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để
tái sản xuất sức lao động ở mức giản đơn, mà còn bao gồm giá trị những tư liệu
sinh hoạt cho những người thay thế và chi phí đào tạo, đồng thời chịu ảnh hưởng
lớn của các yếu tố tinh thần và lịch sử.
Giá trị sử dụng của sức lao động mà người chủ tiền nhận được khi trao đổi,
chỉ thể hiện ra trong quá trình sử dụng thực sự, tức là trong quá trình tiêu dùng sức
lao động. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, “quá trình tiêu dùng sức
lao động đồng thời cũng là q trình sản xuất ra hàng hóa và giá trị thặng dư”7
Sự sản xuất giá trị thăng dư dưới chủ nghĩa tư bản
Sản xuất giá trị thặng dư trước hết là sản xuất hàng hóa, là q trình kết hợp
2

C.Mác

và Ph.Ăngghen,Tồn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 251.

3

C.Mác


và Ph.Ăngghen,Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.251-252.

4

C.Mác

và Ph.Ăngghen,Tồn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.252-253.

5

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.255.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.256.

6

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.262-263.

7

5


sức lao động với tư liệu sản xuất để tạo ra một giá trị sử dụng với quy cách, phẩm
chất nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, đó là q trình kết hợp
giữa sức lao động với tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua được, nên có những
đặc điểm khác biệt so với sản xuất hàng hóa giản đơn.Đồng thời đó là quá trình sản
xuất giá trị và giá trị thặng dư dựa trên cơ sở của quy luật giá trị.
Ví dụ quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Giả sử sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện dưới hình thái sản xuất cụ thể là

sản xuất bánh. Để tiến hành sản xuất bánh, nhà tư bản phải ứng ra số tiền là
23USD để mua 1 kg nguyên liệu , 5USD chi phí hao mịn máy móc để làm
bánh,15USD mua hàng hoá sức lao động để sử dụng trong 1 ngày làm việc 8 giờ.
Tổng cộng mất 43USD. Trong quá trình sản xuất bánh, bằng lao động cụ thể,
người nhân viên làm bánh , theo đó giá trị của nguyên liệu và hao mịn máy móc
được chuyển vào giá trị của bánh ; bằng lao động trừu tượng người công nhân tạo
ra giá trị mới, giả định, trong 4 giờ lao động cơng nhân đã chuyển tồn bộ 1 kg
ngun liệu thành bánh.
Giá trị 1kg nguyên liệu chuyên vào :27USD
Hao mòn máy móc
:5USD
Giá trị mới bằng giá trị sức lao động:15USD
Tổng cộng
:43USD
Nhà tư bản ứng ra 43USD,bán bánh thu được 43USD nên quá trình lao động dừng
lại tại điểm này thì khơng có giá trị thặng dư, tiền ứng ra chưa trở thành tư bản. Do
đó, để có giá trị thặng dư thời gian lao động phải vượt quá cái điểm bù lại giá trị
sức lao động. Nhà tư bản mua sức lao động của công nhân để sử dụng trong 8 giờ
chứ không phải 4 giờ. Công nhân phải tiếp tục làm việc trong 4 giờ nữa, nhà tư bản
chỉ phải tốn thêm 27USD để mua 1 kg nguyên liệu và 5USD hao mịn máy móc.
Q trình lao động 4 giờ sau diễn ra như quá trình đầu. Số bánh được tạo ra trong 4
giờ lao động sau cũng có giá trị 43USD. Tổng cộng, nhà tư bản ứng ra 75USD
trong khi đó số sợi sản xuất ra có giá trị 80USD. Do đó, nhà tư bản thu được lượng
giá trị thặng dư là 80USD - 75USD = 5USD.
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngồi giá trị sức lao động do
cơng nhân làm th tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Quá trình sản xuất giá trị
thặng dư không chỉ là sự thống nhất giữa sản xuất giá trị sử dụng và giá trị,
mà còn là sự thống nhất giữa sản xuất giá trị sử dụng và giá trị thặng dư. Đó
6



là quá trình sản xuất giá trị, nhưng kéo dài q một điểm, mà nếu dừng lại ở điểm
đó thì giá trị mới do công nhân làm thuê tạo ra mới chỉ đạt mức ngang bằng giá trị
sức lao động. Xét theo phương diện tạo ra giá trị mới và giá trị thặng dư, ngày lao
động được chia thành hai phần: thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động
thặng dư. Từ đó có thể khẳng định, nguồn gốc của giá trị thặng dư cũng như giá trị
phải là lao động sản xuất đã kết tinh trong hàng hóa, song đó là lao động được
thực hiện bởi cơng nhân làm thuê nhưng người nhận được là nhà tư bản.
Quá trình sản xuất giá trị thặng dư, xét từ phía nhà tư bản, là q trình
ứng ra và sử dụng tư bản với tư cách là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Để
tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản ra mua tư liệu sản xuất và sức lao
động. Những hình thức đó của tư bản có quan hệ khác nhau đối với việc sản xuất
giá trị thặng dư. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị
được lao động cụ thể của công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn vào
giá trị sản phẩm, tức là giá trị khơng biến đổi trong q trình sản xuất được
C.Mác gọi là tư bản bất biến (kỷ hiệu là c). Tư bản bất biến không tạo ra giá trị
thặng dư nhưng là điều kiện hết sức cần thiết để tạo ra giá trị thặng dư.
Bộ phận tư bản biến thành sức lao động thì khác. Giá trị của nó được
chuyển cho cơng nhân làm th, biến thành tư liệu sinh hoạt cần thiết và mất đi
trong quá trình tái sản xuất sức lao động của cơng nhân làm th. Tuy nhiên, trong
q trình sản xuất, cơng nhân làm thuê bằng lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới
với lượng lớn hơn giá trị sức lao động. Bộ phận tư bản đó khơng tái hiện ra,
nhưng thơng qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức biến đổi
về số lượng trong quá trình sản xuất, được Mác gọi là tư bản khả biến, kỷ hiệu
là v.
Để có giá trị thặng dư, nhà tư bản khơng những cần phải thực hiện q
trình sản xuất giá trị thặng dư, mà còn cần phải chuẩn bị các điều kiện cần
thiết cho q trình đó và thực hiện giá trị, giá trị thặng dư chứa đựng trong
những hàng hóa đã được sản xuất ra. Tổng thể những hoạt động đó biểu hiện sự
vận động tuần hồn của tư bản. Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản

lần lượt trải qua ba giai đoạn dưới ba hình thái kế tiếp nhau (tư bản tiền tệ, tư bản
sản xuất, tư bản hàng hóa) gắn với chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sản xuất giá
trị thặng dư, sản xuất giá trị thặng dư, thực hiện giá trị tư bản và giá trị thặng dư
và quay trở về hình thái ban đầu cùng với giá trị thặng dư. Tuần hoàn tư bản
phản ánh những mối quan hệ khách quan giữa các hoạt động cần phối kết
7


hợp nhịp nhàng, kịp thời, đúng lúc trong quá trình sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường nói chung và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa nói
riêng.
Trong điều kiện mơi trường kinh doanh cụ thể nhất định, các nhà tư bản
khác nhau cùng thực hiện đầy đủ các bước của quy trình kinh doanh có thể nhận
được những mức hiệu quả khác nhau do chu chuyển tư bản của họ khác nhau. Chu
chuyển tư bản là tuần hồn tư bản được xét là q trình định kỳ, thường xuyên lặp
đi lặp lại và đổi mới theo thời gian. Chu chuyển tư bản được đo lường bằng thời
gian chu chuyển hoặc tốc độ chu chuyển tư bản. Thời gian chu chuyển tư bản là
khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất định
cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Tốc độ chu
chuyển tư bản là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định
quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời
gian nhất định.
Xét theo phương thức chu chuyển giá trị của tư bản sản xuất vào giá trị sản
phẩm, tư bản được chia thành các bộ phận là tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư
bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham
gia tồn bộ vào q trình sản xuất những giá trị của nó chỉ chuyển dần dần, từng
phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn. Hao mòn của tư bản cố định
bao gồm hao mịn hữu hình sử dụng và tác động của tự nhiên gây ra và hao mồn
vơ hình do sự tăng lên của năng suất lao động sản xuất tư liệu lao động và sự xuất
hiện của những thế hệ tư liệu lao động mới có năng suất cao hơn. Tư bản lưu động

là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên vật
liệu, vật liệu phụ... , giá trị của nó được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản
phẩm khi kết thúc từng quá trình sản xuất. Để thu được hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao, các nhà tư bản phải nỗ lực rút ngắn thời gian chu chuyển hay đẩy nhanh
tốc độ chu chuyển tư bản trên cơ sở nắm vững các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian
chu chuyển tư bản, đồng thời sử dụng hiệu quả tư bản cố định và tư bản lưu động.
1.2:Bản chất của giá trị thặng dư
Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư có bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong
đó giai cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở lao động làm thuê.
Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
8


khơng những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là
phải thu được nhiều giá trị thặng dư
Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản
khả biến. Cơng thức tính tỷ suất giá trị thặng dư là:
M’ = M/V * 100%
Trong đó, m’ - tỷ suất giá trị thăng dư;
m - giá trị thặng dư;
v - tư bản khả biến.
Tỷ suất giá trị thặng dư cũng có thể tính theo tỷ lệ phần trăm giữa thời
gian lao động thặng dư (t’) và thời gian lao động tất yếu (t).
M’ = T’/T * 100%
Khối lượng giá trị thặng dư là lượng giá trị thặng dư bằng tiền mà nhà
tư bản thu được. Cơng thức tính khối lượng giá trị thặng dư là:
M = m ’. V
Trong đó, M - khối lượng giá trị thặng dư,

V - tổng tư bản khả biến.
2.Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa
2.1 Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày
lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá
trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu khơng thay đổi.
Để có nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và tăng cường độ lao động. Song ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh
lý nên không thể kéo dài bằng ngày tự nhiên, còn và cường độ lao động cũng
không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con người. Hơn nữa, công nhân kiến
quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền lợi hai bên có mâu thuẫn, thơng
qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các dân tộc trong từng giai đoạn
lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày lao động. Nhưng dù sao,
ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng không thể vượt giới
hạn thể chất và tinh thần của người lao động.
2.2 Sản xuất giá trị thặng dư tương đối
9


Giá trị thặng dư tương đối giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian
lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động; do đó kéo dài thời gian lao
động thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút
ngắn.
Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt
và dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao
động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu
sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước
tiên ở một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt làm cho hàng hố do các xí nghiệp ấy sản

xuất ra có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị
thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là
giá trị thặng dư siêu ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm
thời, xuất hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư
siêu ngạch lại là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Giá trị thặng dư siêu ngạch
là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng
năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả
làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển. Do đó theo C.Mác, giá trị thặng dư siêu ngạch là
hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
PHẦN II:Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN
XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ SIÊU NGẠCH ĐỐI
VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế như hiện nay, việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trên quy mơ tồn cầu là tất yếu khách quan và áp lực cạnh tranh này tác
động lên tất cả các doanh nghiệp chứ khơng chỉ riêng Việt Nam. Nếu xét trên góc
độ vĩ mô: việc hội nhập kinh tế quốc tế hay ký kết các hiệp định thương mại tự
do mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, nhưng cũng có nhiều thách
thức.
8

8

/>
10


Ví dụ như, theo hiệp định gần nhất vừa mới có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
14/1/2019 là Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương

(CPTPP) thì có 3 nước lần đầu tiên Việt Nam có quan hệ hiệp định thương mại tự
do là Canada, Mexico, Peru. Điều này mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt
Nam tiếp cận thị trường mới, có cơ hội đa dạng hóa nguồn nguyên vật liệu đầu vào
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với các thách thức, như: về năng lực
cạnh tranh còn yếu của một số ngành dịch vụ, quảng cáo, các mặt hàng nông sản
như thịt lợn, thịt gà...; về thể chể chính sách của Việt Nam chưa hồn thiện, chất
lượng nguồn lao động chưa cao… Hội nhập là cơ hội hay thách thức thì phụ thuộc
vào khả năng nắm bắt cơ hội và khả năng vượt qua thách thức của Việt Nam.
Thực vây, do xuất phát điểm ban đầu còn thấp nên trong nước ta vẫn còn
tồn tại nhiều doanh nghiệp có quy mơ nhỏ, kỹ thuật cơng nghệ chưa cao, thiếu vốn
đầu tư, chưa có nhiều mặt hàng chiến lược và thương hiệu. Khảo sát cho thấy gần
một nửa số doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Mặt khác, 17,1% doanh
nghiệp cho rằng khả năng tự tài trợ vốn của họ là kém và rất kém. Bên cạnh đó,
theo điều tra, có gần 46,5% doanh nghiệp có nhu cầu bổ sung nguồn vốn kinh
doanh ở mức cao và 13,4% cho rằng hết sức cấp bách. Ngoài ra, Số liệu của Sở
Khoa học - Công nghệ cho thấy, phần lớn các doanh nghiệp trên địa bàn đang sử
dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế hệ. Tính chung
cho các DN, mức độ thiết bị hiện đại chỉ có 10%, 38% trung bình, 52% lạc hậu và
rất lạc hậu; do vậy đã làm hạn chế hiệu quả vận hành thiết bị và giảm mức độ
tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu vào, đầu ra. Cịn về chất lượng sản
phẩm, cơng tác xây dựng và quảng bá thương hiệu, phần lớn các doanh nghiệp
trong nước vẫn xem nhẹ công tác nghiên cứu thị trường, từ đó chậm đưa ra chiến
lược định vị sản phẩm hiệu quả, chiến lược tiếp thị và kênh phân phối thường
không hợp lý; vẫn chưa chú trọng công tác bảo vệ và củng cố thương hiệu, nhãn
hiệu sản phẩm trên thị trường.
Vì quy mơ vốn nhỏ nên nhiều doanh nghiệp chưa đủ điều kiện, khả năng để
trang bị máy móc cơng nghệ hiện đại phải sử dụng cơng nghệ cũ và trình đọ
lao động thấp.
9


Thứ nhất, quy mơ nền kinh tế Việt Nam còn nhỏ. Với xuất phát điểm thấp, quy

mô kinh tế nhỏ, việc thu hẹp khoảng cách tương đối về thu nhập bình quân và
NSLĐ của Việt Nam với các nước trong thời gian qua là một thành tựu đáng ghi
9

/>
11


nhận nhưng chưa đủ để thu hẹp khoảng cách tuyệt đối về giá trị NSLĐ so với các
nước trong khu vực.
Thứ hai, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực nhưng cịn
chậm.
Các ngành cơng nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ mang tính chất động
lực hay huyết mạch của nền kinh tế như tài chính, ngân hàng, du lịch của nước ta
cịn chiếm tỷ trọng thấp.
Ngồi ra, thay đổi NSLĐ cịn được xem xét qua ảnh hưởng của 3 yếu tố: Quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động, thay đổi NSLĐ trong nội bộ các ngành, do tác động
đồng thời của chuyển dịch cơ cấu lao động và thay đổi NSLĐ trong nội bộ ngành
(còn gọi là tác động tương tác).
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì yếu tố chuyển dịch cơ cấu lao
động đóng vai trị khá quan trọng vào tăng NSLĐ của toàn bộ nền kinh tế. Thực tế
cho thấy, đóng góp của chuyển dịch cơ cấu lao động vào tăng trưởng của NSLĐ ở
nước ta vẫn ở mức cao nhưng có xu hướng giảm, tỷ lệ này trong giai đoạn 2011 2017 đạt 39%, thấp hơn mức 54% của giai đoạn 2000 - 2010.
Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, điều này cũng phù hợp với quy luật phát triển của các
nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi, tăng NSLĐ sẽ ngày càng phụ thuộc vào
tăng NSLĐ nội ngành. Nhưng đến nay chưa có thay đổi đáng kể trong bản chất
tăng trưởng của ngành, chủ yếu vẫn nhờ vào mở rộng quy mô những ngành sử
dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ thấp, làm cho mục tiêu tăng nhanh giá

trị gia tăng của sản phẩm chưa đạt được.
Trong khi đó, cơng nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn dắt tăng trưởng NSLĐ
nhưng tập trung cao ở những sản phẩm xuất khẩu dựa trên nền tảng công nghệ thấp
đến trung bình. Cịn ngành cơng nghệ cao tập trung ở khu vực có vốn đầu tư nước
ngồi lại hoạt động ở khâu lắp ráp, nhập khẩu linh kiện, có giá trị trong nước tương
12


đối thấp. Đồng thời, ngành công nghệ cao chủ yếu tận dụng lao động chi phí giá rẻ,
chưa có nhiều tác động lan tỏa đối với khu vực trong nước nên chưa tạo đột phá về
tăng trưởng NSLĐ.
Đó là chưa kể, chuyển dịch cơ cấu lao động tuy diễn ra khá nhanh nhưng lao động
trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản hiện nay còn lớn, đa số lao động trong
khu vực này là lao động giản đơn, công việc có tính thời vụ, khơng ổn định nên giá
trị gia tăng tạo ra thấp, dẫn đến NSLĐ thấp.
Đến năm 2018, nước ta vẫn còn tới 20,5 triệu lao động làm việc trong khu vực
nông, lâm nghiệp và thủy sản, trong khi NSLĐ khu vực này chỉ đạt 39,8 triệu
đồng/lao động, bằng 38,9% mức NSLĐ chung của nền kinh tế; bằng 30,4% NSLĐ
khu vực công nghiệp, xây dựng và bằng 33,7% NSLĐ các ngành dịch vụ.
Có thực tế là, thời gian qua, khu vực nơng thơn đang có sự chuyển dịch lao động từ
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản sang các ngành phi nông, lâm nghiệp, thủy
sản. Tuy nhiên, lao động di chuyển ra khỏi ngành nông nghiệp chủ yếu lại chuyển
sang làm trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có năng suất thấp hay các
ngành dịch vụ có thu nhập thấp. Ngồi ra, q trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nơng nghiệp cịn hạn chế, chưa
tác động tăng cao năng suất nội ngành. Như vậy, khu vực nông, lâm nghiệp và
thủy sản hiện chiếm tới 37,7% lao động của cả nước nhưng khu vực này mới chỉ
tạo ra 14,7% GDP. Đây có thể xem là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm
cho NSLĐ của Việt Nam thấp.
Nhìn chung, tăng NSLĐ thơng qua chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công

nghiệp và dịch vụ rất phổ biến ở các quốc gia có mức độ phát triển thấp. Hiện nay,
nước ta vẫn còn dư địa để tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nhằm tăng NSLĐ. Tuy
nhiên, xu hướng này không thể kéo dài khi Việt Nam phát triển lên mức cao hơn,
thu nhập ở khu vực nông thôn gia tăng, cơ cấu kinh tế ổn định sẽ làm giảm đáng kể
dư địa cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động.
13


Do đó, để tránh q trình kéo dài mới bắt kịp các nước về NSLĐ, Việt Nam cần
quan tâm và nỗ lực nhiều hơn để nâng cao NSLĐ trong các doanh nghiệp, qua đó
chuyển dần theo xu hướng mới và phổ biến ở các nền kinh tế tiên tiến, đó là yếu tố
tăng năng suất nội ngành đóng vai trị chủ đạo trong việc tăng năng suất của nền
kinh tế.
Thứ ba, máy móc, thiết bị và quy trình cơng nghệ còn lạc hậu.
Phần lớn doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh, trình độ khoa
học cơng nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, nhiều doanh nghiệp đang sử dụng
công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2-3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới.
Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2018, Việt Nam được xếp hạng chung
là 77/140 quốc gia, trong khi các chỉ số cấu phần liên quan đến đổi mới sáng tạo lại
thấp hơn nhiều (Mức độ phức tạp của quy trình sản xuất xếp hạng 90; Tăng trưởng
của các doanh nghiệp có đổi mới sáng tạo: 90; Kỹ năng số hóa của dân số: 98; Kỹ
năng của sinh viên tốt nghiệp: 128; Chất lượng đào tạo nghề: 115; Ứng dụng các
sáng chế: 89).
Điều này cho thấy, Việt Nam cần tiếp tục kiến tạo môi trường thuận lợi cùng với
các thể chế, chính sách mới cho khu vực doanh nghiệp để thúc đẩy q trình nâng
cao cơng nghệ và sáng tạo. Đây được coi là một nội dung quan trọng của sự
chuyển đổi mơ hình tăng trưởng ở Việt Nam.
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế.
Điều này thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp, cơ cấu đào tạo thiếu
hợp lý, thiếu hụt lao động có tay nghề cao, khoảng cách giữa giáo dục nghề nghiệp

và nhu cầu của thị trường lao động còn lớn.
Cụ thể là, tỷ lệ lao động 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo đang làm việc trong nền
kinh tế tăng dần qua các năm nhưng đến năm 2011 tỷ lệ lao động có bằng cấp,
chứng chỉ mới đạt 15,4%; năm 2018 đạt 21,9%. Như vậy, cả nước hiện có tới 42,4
14


triệu lao động (chiếm 78,1% tổng số lao động) chưa được đào tạo để đạt trình độ
chun mơn kỹ thuật nào đó.
Ngồi ra, cơ cấu lao động theo trình độ đào tạo của nước ta còn bất hợp lý, năm
2015 tỷ lệ tương quan giữa trình độ đại học trở lên - cao đẳng - trung cấp - sơ cấp
tương ứng là: 1-0,35-0,63-0,38, điều này cảnh báo thực trạng thiếu hụt kỹ sư thực
hành và công nhân kỹ thuật bậc cao.
Bên cạnh đó, tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trẻ hoặc khơng phù hợp giữa
cơng việc và trình độ đào tạo còn khá phổ biến. Một bộ phận lớn người lao động
chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp, người lao động thiếu các kiến
thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro,
ngại phát huy sáng kiến.
Theo TS. Nguyễn Bích Lâm, đây chính là rào cản lớn cho việc cải thiện NSLĐ.
Bên cạnh đó, già hóa dân số cũng là một vấn đề sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến
NSLĐ của Việt Nam trong tương lai.
Thứ năm, trình độ tổ chức, quản lý và hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn nhiều
bất cập.
Năng lực quản lý, quản trị doanh nghiệp còn hạn chế, còn một số “điểm nghẽn” về
cải cách thể chế và thủ tục hành chính. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp (TFP) cho tăng trưởng GDP của Việt Nam thời gian qua còn ở mức thấp,
giai đoạn 2001-2010 chỉ đạt 4,3%.
Trong giai đoạn 2011-2018, đóng góp của TFP được nâng lên nhưng vẫn ở mức
thấp là 37,7%, trong khi đóng góp của vốn và lao động là 62,3%. Tỷ lệ đóng góp
của TFP trong tăng trưởng GDP cho thấy trình độ phát triển khoa học cơng nghệ, ý

thức tổ chức và quản lý trong sản xuất kinh doanh của lao động Việt Nam còn chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại.

15


Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2018 chủ yếu dựa vào đóng
góp của vốn và lao động. Việc huy động được nguồn vốn lớn mặc dù đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng hiệu quả đầu tư vẫn còn thấp, thể hiện qua chỉ
số ICOR của Việt Nam ở mức cao, trong giai đoạn 2011-2018, để tạo ra 1 đồng
GDP cần phải đầu tư 6,22 đồng, cao hơn mức 5,74 đồng của giai đoạn 2005-2010.
Thứ sáu, q trình đơ thị hóa, tích tụ cơng nghiệp diễn ra chậm. Tỷ lệ dân số
thành thị năm 2018 mới đạt khoảng 35,7%, trong giai đoạn 2011- 2018 tăng bình
quân 3,1%/năm, đồng nghĩa với việc lượng cung về lao động cho khu vực công
nghiệp và dịch vụ thấp; lao động chủ yếu làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp
và thủy sản khó có điều kiện để thúc đẩy tăng NSLĐ như khu vực công nghiệp và
dịch vụ.
Thứ bảy, có những “rào cản” từ thể chế. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực thực hiện cải cách và hồn thiện thể chế kinh tế, góp phần tạo thêm
động lực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số “điểm nghẽn” về thể chế
trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tới quá trình tái cơ
cấu nền kinh tế và đổi mới mơ hình tăng trưởng.
Thể chế kinh tế thị trường còn thiếu đồng bộ, đặc biệt là thị trường lao động, thị
trường công nghệ, thị trường bất động sản. Do xuất phát điểm thấp và đang trong
giai đoạn chuyển đổi, việc phát triển những thị trường có thể chế đặc thù trên gặp
nhiều khó khăn, hệ thống pháp luật, chính sách cho việc phát triển các loại thị
trường chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, chất lượng chưa cao và chưa theo kịp sự
phát triển của các loại thị trường này.
Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh của nước ta trong thời gian qua tuy
đã có bước cải thiện nhưng vẫn thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam hiện

ở vị trí thứ 68 trên 190 nền kinh tế về môi trường kinh doanh.

16


Thứ 8, khu vực doanh nghiệp chưa thực sự là động lực quyết định tăng trưởng
NSLĐ.
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn
hạn hẹp, khả năng đầu tư công nghệ hạn chế, kinh nghiệm quản lý sản xuất yếu và
kém năng lực cạnh tranh. Thực tế quy mô doanh nghiệp Việt Nam quá nhỏ bé, số
doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp của
cả nước.
Trình độ cơng nghệ của doanh nghiệp cịn lạc hậu, doanh nghiệp tham gia các hoạt
động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế, trong khi qua nghiên cứu cho thấy,
những doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) có mức NSLĐ
cao hơn 19,3% so với các doanh nghiệp còn lại. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ doanh
nghiệp chi cho các hoạt động R&D ở Việt Nam vẫn cịn thấp.
Từ đó, dẫn đến việc giá cả, chất lượng các sản phẩm hàng hóa chưa đủ sức
cạnh tranh với hàng hóa các nước trên thế giới.
10

Khi nền kinh tế nước ta thực sự tham gia vào AFTA cùng với các nước trong khu

vực. Các doanh nghiệp Việt Nam và cả nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng trước một
thách thức lớn lao đó chính là vấn đề chất lượng sản phẩm và vấn đề cạnh tranh,
sức cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ do ta sản xuất và cung cấp.
So với các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như cả nền kinh tế
nước ta cịn bị hạn chế bởi trình độ phát triển, trình độ cơng nghệ, khoa học kỹ
thuật và khả năng về vốn cũng như trình độ quản lý vv…Và do vậy chất lượng sản
phẩm của các Doanh nghiệp nước ta cũng như khả năng cạnh tranh còn yếu so với

các đối thủ trong khu vực. Trong một thị trường chung rộng lớn được quốc tế hoá
cao. Vấn đề chất lượng sản phẩm ngày càng trở nên vô cùng quan trọng bởi tính
chất cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh quốc tế đang có nhiều thay đổi và các thay
10

/>
17


đổi này lại đang hướng theo chiều hướng cạnh tranh bằng chất lượng. Theo hướng
ấy, để có thể tồn tại và phát triển không những trên thị trường trong nước mà cả thị
trường quốc tế. Các Doanh nghiệp Việt Nam cần phải hướng các nỗ lực của mình
vào các vấn đề cải tiến và nâng cao chất lượng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu
và thị hiếu của khách hàng. khơng chỉ khách hàng trong nước mà cịn có cả khách
hàng trong khu vực và quốc tế.
Sau khi đã cân nhắc kĩ và tìm hiểu rõ về thực trạng của năng lực cạnh tranh
kinh tế hiện nay, nước ta đã đưa ra các giải pháp cần thiết và tối ưu để đối
phó với nó.Cụ thể là:
- Sử dụng kỹ thuật cơng nghệ mới nhằm giảm chi phí, tăng năng suất lao động xã
hội
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp gắn liền với trình độ ứng dụng cơng
nghệ trong sản xuất và quản trị. Công nghệ giúp doanh nghiệp tăng tốc độ, giảm
sai sót và loại bỏ lãng phí. CMCN 4.0 xây dựng nên các doanh nghiệp số dựa trên
việc kết nối các chuỗi giá trị trong và ngoài doanh nghiệp, số hóa q trình sản
xuất và dịch vụ, và tạo những mơ hình kinh doanh mới.
11

Các nền tảng ứng dụng quản lý hiện đại vận hành trên mạng máy tính diện rộng,
Internet và điện tốn đám mây cho phép kết nối tích hợp thơng tin xun suốt tồn
bộ tổ chức bất kể quy mô lớn hay nhỏ. Dữ liệu được tích hợp qua tất cả các quy

trình từ lập kế hoạch, phát triển sản phẩm, mua sắm, sản xuất, hậu cần đến bán
hàng và dịch vụ. Kết nối dữ liệu làm tăng tốc độ thực hiện quy trình, giảm thiểu sai
sót do các thao tác thủ cơng hoặc nhập thơng tin nhiều lần, và loại bỏ các lãng phí
về nhân cơng, thời gian và cơ hội. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có thể tích hợp
dữ liệu thơng suốt với các đối tác và khách hàng. Điều này cho phép tối ưu hóa
giao dịch thương mại với các đối tác, thiết lập hệ sinh thái và củng cố địa vị của
doanh nghiệp.
- Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tạo ra nhiều giá trị thặng dư

11

/>
18


Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, cơng ty cần lập ra các kế hoạch, mục
tiêu phát triển và từ đó đưa ra các chiến lược tuyển dụng, đào tạo, nâng cao tay
nghề cho đội ngũ công nhân viên, phân bố nguồn nhân lực hợp lý phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
12

Bên cạnh đó, việc xây dựng một chế độ trả lương, đãi ngộ thỏa đáng đối với những
lao động có kiến thức chun mơn cao, lao động có đóng góp đối với sự phát triển
của công ty cũng là một nguồn khích lệ quan trọng giúp họ làm việc tốt hơn cũng
như gắn bó với cơng ty lâu hơn.
- Tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài tạo điều kiện giúp doanh
nghiệp Việt Nam có được những cơng nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh hiện nay, các cấp, các ngành phải tập trung đổi mới sáng tạo và
hiệu quả, coi doanh nghiệp và người dân là chủ thể của Hội nhập quốc tế, hình

thành thực sự văn hóa hội nhập.
13

Việc hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả ở Việt Nam kế hợp với giữ gìn mơi
trường hồ bình, phát huy sức mạnh nội lực, giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc,
đổi mới sáng tạo sẽ góp phần tạo nên thành cơng trong tương lai của Việt Nam.
Để đáp ứng yêu cầu mang tính nguyên tắc của hội nhập quốc tế trong bối cảnh
mới, Việt Nam cần thực hiện 3 phương châm là: nâng tầm, toàn diện và sâu
rộng, đổi mới sáng tạo và hiệu quả.
Chúng ta phải hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng để phát huy tối đa nội lực,
huy động và sử dụng hiệu quả ngoại lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình
nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh, đổi mới sáng tạo và khả năng
thích ứng của đất nước.
- Đẩy mạnh CNH – HĐH nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tang năng
suất lao động xã hội.
14
"Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát triển
kinh tế và xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như làm
chủ và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu của riêng mình"1. Trong nền kinh tế
12

/>,v%C3%A0o%20s%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20kinh%20doanh.
13
/>14
/>
19


công nghiệp, việc tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là dựa vào sự
tối ưu hố, hồn thiện cái đã có; cịn trong kinh tế tri thức thì tạo ra giá trị, nâng

cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là do tìm ra cái chưa biết; cái chưa biết là cái có
giá trị nhất. Tìm ra cái chưa biết, tạo ra cái mới cũng tức là loại trừ cái đã biết.
Vòng đời của một sản phẩm, một công nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi
đến tiêu vong ngày càng rút ngắn. Tốc độ đổi mới rất nhanh chóng. Nền kinh tế tri
thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo
ra tri thức mới và vận dụng tri thức, biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội. Sáng tạo và đổi mới là
động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là nguồn gốc của nền kinh tế tri thức
ngày nay. Tài nguyên là có hạn, năng lực sáng tạo của con người là vô hạn; một
khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, thì khả năng của
nền kinh tế là hết sức to lớn. Các nước phát triển đi tới kinh tế tri thức là một quá
trình tự nhiên hợp qui luật; các nước đi sau ý thức được sự vượt trội của kinh tế tri
thức so với kinh tế công nghiệp, đã chủ động đề ra chiến lược, chính sách, giải
pháp để phát triển kinh tế tri thức ngay trong quá trình CNH. Phát triển kinh tế tri
thức là xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại
trừ ai. Kinh tế tri thức đang tạo ra những điều kiện và khả năng mới để Việt Nam
rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trong bối cảnh quốc tế mới, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung
gian để đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, nhằm phát triển nhanh
nền kinh tế, sớm bắt kịp xu thế chung của kinh tế thế giới. Đó là lợi thế các nước đi
sau, là thời cơ lớn không thể bỏ lỡ. Biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, chúng ta nhất định chiến thắng được nghèo nàn, lạc hậu như đã từng chiến
thắng giặc ngoại xâm. Thực hiện CNH, HĐH rút ngắn là bắt buộc đối với chúng ta,
nếu muốn đuổi kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.

20


KẾT LUẬN


Qua phân tích ở trên ta nhận thấy, để nâng cao năng lực cạnh tranh thì các doanh
nghiệp nói chung và bản thân nhà quản trị doanh nghiệp nói riêng cần nỗ lực và nỗ
lực hơn nữa trong việc nâng cao nhận thức, trình độ của bản thân để quản lý, điều
hành và quản trị doanh nghiệp. Đồng thời, nâng cao trình độ tổ chức quản lý doanh
nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiêu
chuẩn về sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường và doanh nghiệp cũng cần
có những chiến lược sản xuất phù hợp để tận dụng cơ hội sản xuất, xuất khẩu trong
thời kỳ kinh tế hội nhập như hiện nay. Theo ông Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch Phịng
Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI): “Các doanh nghiệp cần phải thay
đổi quản trị và nắm bắt tốt thông tin về thể chế nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hãy tập trung vào sáng tạo, tìm lợi nhuận chân chính. Doanh nghiệp phải đảm bảo
sự minh bạch, liêm chính, thay vì tìm những mối quan hệ để tìm kiếm lợi nhuận
bất minh. Có như thế doanh nghiệp mới bắt kịp yêu cầu của giai đoạn mới.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập,Tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
/> /> /> /> />20l%E1%BB%B1c%20c%E1%BA%A1nh,v%C3%A0o%20s%E1%BA%A3n%20
xu%E1%BA%A5t%20kinh%20doanh.
/> />
22



×